Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Lưu trữ Blog

Search This Blog

Monday 8 October 2012


Nếu như nhìn trên bản đồ, vùng núi Nemrut nằm rất xa vùng Cappadocia và trên lý thuyết không được liệt vào những kỳ quan trực thuộc Cappadocia. Tuy nhiên, hầu như bất cứ công ty du lịch nào cũng bán tour 2 ngày 1 đêm đến đây vì giao thông thuận tiện. Ngay vào sáng hôm sau, tôi đến điểm hẹn với cậu hướng dẫn viên và chúng tôi tiến hành một cuộc viễn chinh về phía đông. Tuyến đường mà chúng tôi đi thuộc hệ thống con đường tơ lụa xưa kia.  Ngày nay, không còn nhiều di tích liên quan đế một thời hoàng kim của con đường huyền thoại này, chỉ còn lại đúng một caravanserai có tên là Karatay, một kiểu trạm dừng chân đặc trưng kiểu Thổ vào những thế kỷ 13-14. Vậy cụ thể caravanserai là gì ? Để giải thích được cái này, nhất thiết phải nói đến lịch sử phát triển của con đường tơ lụa. 


 Không cần đi quá sâu vào chi tiết, con đường tơ lụa là một hệ thống các con đường giao lưu thương mại nối dài suốt từ Châu Á (Trung Quốc, Ấn Độ) thông qua Trung Đông (Irak, Iran, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ, Jordan) để đến vùng Địa Trung Hải. Do Thổ Nhĩ Kỳ nằm ngay chính giữa trung  gian giữa Châu Âu và Châu Á nên hệ thống các con đường thương mại của quốc gia này chiếm vị trí tối quan trọng. Nói là “tơ lụa” nhưng mặt hàng trao đổi giữa Đông và Tây không chỉ có tơ lụa mà còn vô số các mặt hàng khác nữa. Để có thể vận chuyển các mặt hàng xa xỉ từ Trung Quốc xa xôi hàng vạn dặm để đến được Địa Trung Hải là một quãng đường rất dài và các thương nhân nhất thiết phải chia cắt thành nhiều đoạn đường nhỏ để nghỉ ngơi. Nhưng trên những quãng đường nghỉ ngơi đó thì họ gặp biết bao trắc trở và nguy hiểm, không gặp bọn trấn lột cướp bóc thì cũng gặp ốm đau dọc đường. Và đó là lý do vì sao cần phải có một hệ thống các trạm nghỉ ngơi dọc đường kiểu như caravanserail. Hệ thống những trạm nghỉ này phát triển rất phồn thịnh từ thế kỷ 10 sau CN.

 Để đảm bảo sự an toàn cao nhất, các thương nhân đi qua Trung Đông thường đi theo phái đoàn. Thêm nữa, họ luôn vận chuyển bằng lạc đà, một loài vật rất sẵn ở Trung Đông. Trong tiếng ả rập, việc vận chuyển bằng lạc đà được gọi là kervan, chuyển hóa thành tiếng Anh có nghĩa là “caravan”. Như vậy, caravanserailcó thể dịch là nơi tạm chứa lạc đà qua đêm vì bản thân từ serail trong tiếng Thổ là cung điện. Khi mà nhu cầu an ninh trên các tuyến đường tơ lụa ngày càng cao thì việc bảo vệ các caravanserail là việc tất yếu. Do đó, từ chỉ là một nơi dừng chân đơn giản, một số caravanserail được nâng cấp thành một pháo đài thực thụ và hệ thống tường thành phòng thủ khá kiên cố. Và do cả vùng Trung Đông thời trung cổ là các lãnh thổ Hồi giáo nên caravanserail cũng kiêm luôn là nơi cầu nguyện dành cho các thương nhân quá giang.  


Đạo Hồi có ảnh hưởng nhất định đến cấu trúc của một caravanserail. Cấu tạo theo hình vuông, nhất thiết phải có một khu sảnh ngoài trời ngay ở chính giữa, giống như cấu trúc của các nhà thờ Hồi giáo mà ta thường gặp. Thông thường ở giữa sảnh có một giếng nước nhỏ để các tín đồ rửa ráy trước khi vào cầu nguyện nhưng cái này thì ngày nay không còn nữa. Xung quanh sảnh trung tâm là hệ thống các phòng ngủ, kho chứa hàng, nhà tắm. Do vùng Cappadocia có nguồn gốc núi lửa nên các khối đá dùng để xây dựng tường bao bọc caravanserail Karatay cũng được mang từ đó. 


Trên bề mặt tường, có khá nhiều hình ảnh mang tính biểu tượng đặc trưng cho xuất xứ của các thương nhân đã từng đặt chân đến đây. Con voi là biểu tượng cho Trung Quốc và điều đó chứng tỏ thương nhân Trung Quốc đã từng đặt chân đến đây vào khoảng thế kỷ 13-14 


Theo các nhà sử học, xưa kia hệ thống các caravanserail trên lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ dày đặc. Trung bình cứ 40-50km là lại có một trạm caravanserail và các thương nhân phải mất gần một ngày di chuyển bằng lạc đà từ trạm này đến trạm khác. Nhưng khi người Châu Âu tìm ra Châu Mỹ, họ tìm đường những con đường khác có thể đến được Trung Quốc hoặc Ấn Độ. Vì nguyên nhân đó, con đường tơ lụa bằng đường bộ không được trọng dụng nữa và các trạm caravanserail mất đi tầm quan trọng của chúng. Ngay từ thế kỷ 15 sau CN, phần lớn không được sử dụng nữa và rơi vào quên lãng. Karatay là một trong những số ít di sản caravanserail nguyên vẹn nhất, đặc biệt là với chiếc cổng vào đồ sộ và nghệ thuật trạm khắc trên đá rất tinh vi. Caravanserail Karatay xưa kia là một nút giao quan trọng nối trung gian giữa Irak, Iran phía đông và Cappadocia, và tất nhiên khi đến được Cappadocia thì có thể đến được Istanbul hoặc đi sát bờ biển Địa Trung Hải. 

Trên bản đồ Thổ Nhĩ Kỳ, người ta ghi là Karatayhan. Vậy chữ han thêm vào phía sau có nghĩa là gì? Cái này thì lại phải sử dụng lịch sử để giải thích. Một caravanserail bình thường thì chỉ danh cho những người theo đạo Hồi. Trong khi đó, han là hệ thống các gian phòng xây bổ sung thêm bên cạnh caravanserail để đón tiếp những thương nhân không theo đạo Hồi. Chỉ có những caravanserail nằm ở vị trí nút giao quan trọng như Karatay thì mới có thể đạt đến tầm cỡ quốc tể để xây thêm những gian phòng như vậy. Nhìn những gì trơ trọi ngày nay, thật khó có thể tưởng tượng được rằng Kataray trước kia lại là một trung tâm thương mại sầm uất. Rời Karatay, chúng tôi nghỉ qua đêm tại ngôi làng Adiyaman cách đó không xa. 

Ngày hôm sau là một buổi sáng khá bận rộn của tôi vì phải dậy rất sớm để có thể đón bình minh trên đỉnh núi Nemrut và tham quan một di tích khiến cho ngọn núi này trở lên nổi tiếng : lăng tẩm của vua Antichus Theos.


Để lên đến đỉnh núi ở độ cao hơn 2000m, không quá khó cho chúng tôi vì có đường rải nhựa và chỉ việc đi ô tô lên tầm 1900m rồi từ đó đi bộ tầm 30 phút để leo lên đỉnh. Sau 30 phút, chúng tôi lên được đỉnh núi Nemrut vào đúng lúc mặt trời mọc. Những ánh nắng đầu tiên rọi vào quần thế lăng mộ của vua Antichus Theos.


Được công nhận là di sản văn hóa thế giới bởi Unesco, đặc thù của quần thể lăng mộ ở đây là những pho tượng cỡ lớn (tầm 8-9m) được đúc mô phỏng theo khuôn mặt của vua Antichus Theos và những vị thần Hy Lạp cũng như Ba Tư, tất cả được làm vào thế kỷ thứ nhất trước CN. Ngủ quên trong vòng gần 2000 năm, một nhà kiến trúc sư người Đức tình cờ khám phả ra địa danh này vào cuối thế kỷ 19 khi đang thực hiện nhiệm vụ mở đường giao thông. Và thế là những bí mật đằng sau các pho tượng khổng lồ được đưa ra ánh sáng vào giữa thế kỷ 20. 


 Theo các nhà khảo cổ học, vị vua Antichus là vua của xứ Commagene, một vương quốc chư hầu của đế chế La Mã. Vì chịu nhiều ảnh hưởng của nền văn hóa Hy Lạp cổ đại, tất cả các vị vua của xứ này sau khi chết đều được tôn làm thần thánh. Đó là lý do vì sao lại có tượng của vua Antichus được xếp ngang hàng với các vị thần khác (thần mặt trời, thần zớt, thần chiến tranh…). 


Vương quốc Commagene xưa kia là một vùng đất màu mỡ do có một nhánh của con sông Euphrate chảy qua (con sông chính bắt nguồn từ bên Irak). Nhưng những gì còn lại 2000 năm sau đó chỉ là một vùng đất cằn cỗi với ánh nắng trói trang. Nguồn nước gần nhất cũng cách đây tầm 40km và đó là một công trình đập thủy điện Ataturk. Con sông Euphrate đã được chỉnh phủ Thổ khống chế và quy hoạch. Tại đây, không còn nước, chỉ còn lại những thảo nguyên khô cằn và lác đác vài đàn dê gầy rơ xương. 


Trong quá trình đi ôtô xuống núi, tôi thăm được một số di tích lịch sử khá thú vị cho phép tôi hiểu rộng hơn về đế chế La Mã. Thật vậy, tôi luôn biết rằng biên giới La Mã xưa kia thật là rộng lớn với rất nhiều đòn lính cũng như thị trấn được xây dựng ở những biên cương xa xôi, nơi tận cùng của đế chế. Nếu như ở bên Syria tôi được biết đến thành phố Palmyre thì ở Thổ Nhĩ Kỳ, tôi được biết đến đỉnh núi Nemrut. Tại đây, tôi bắt gặp một cột đá với tượng một con đại bàng nằm trên đỉnh, có tên latinh là Karakus Tumulus

bộ phim này miêu tả rất rõ tầm quan trọng của việc giữ được con đại bàng bằng vàng, được coi như lá cờ của mỗi một quân đoàn lê dương La Mã và cũng là uy quyền của Rome
 Đây đích thực là di sản 100% La Mã. Đại bàng là biểu tượng của chiến thắng cũng như quyền lực quân sự của người La Mã. Chỉ cần xem các bộ phim Holywood như « The 9th legion », « the centurion » hay « Eagle » cũng đủ thấy tầm cuan trọng của sự có mặt của con chim linh thiêng này. Nó được cắm ở đâu tức là Rome có mặt ở đó. Như vậy, có thể nói rằng vương quốc Commagene với tư cách là chư hầu của đế chế La Mã đã chịu ít nhiều ảnh hưởng văn hóa và kiến trúc của nền văn minh này. Đến được đỉnh núi Nemrut, tôi có một cảm giác rất khó tả, cảm giác của một số hiếm người may mắn tham quan được cái gọi là biên giới tận cùng của nền văn minh La Mã. Rời núi Nemrut, chúng tôi chuyển hướng về phía tây để hướng tới một địa danh cũng thuộc dạng sừng sỏ về thâm niên lịch sử : Harran. Nếu như nhìn lại hành trình suốt từ đầu đến giờ, tôi thấy có một điểm rât thú vị : tôi có cảm giác như càng đi về sau thì tôi càng đi ngược lại chiều kim đồng hồ của lịch sử. Nếu như vùng Cappadocia chủ yếu liên quan đến thế kỷ 10-13 thì núi Nemrut liên quan đến thời kỳ La Mã. Và đến Harran, tôi quay ngược hẳn đến năm 2000 trước CN! Vậy địa danh Harran vào thời điểm ấy hình thù giống cái gì? 


Đây là một trong những thị trấn thương mại phát triển sớm nhất trong lịch sử con người tại vùng Trung Đông. Có thể nói là xấp xỉ nền văn minh Ai Cập. Nhiều người còn cho rằng Harran chính là nơi Abraham (một nhân vật trong truyền thuyết kinh thánh Do Thái và là ông tổ của dân tộc Israel) sinh sống trước khi di chuyển lập nghiệp ở lãnh thổ Israel bây giờ. Theo tiếng Syria cổ, Harran có xuất xứ từ harranu có nghĩa là “con đường”, có vẻ như tương ứng với vị trí địa lý của nó bởi Harran nằm trên trục đường dẫn từ xứ sở Ba Tư sang Thổ Nhĩ Kỳ. Harran ngay từ thế kỷ 16 trước CN đã là thủ đô của một vương quốc hùng mạnh và là đối thủ đáng gờm của nền văn minh Ai Cập nhưng sau đó thì suy yếu và rơi vào tay nhiều vương quốc có thế lực xung quanh. 


Xung quanh thị trấn Harran nguyên thủy là hệ thống tường thành phòng thủ với tổng chiều dài khoảng 4km và cao khoảng 12m. Điều này cho thấy rằng xưa kia Harran phải có một tầm quan trọng như thế nào thì mới phải xây hệ thống tường thành như vậy. Những cuộc khai quật gần đây cho thấy Harran được quy hoạch theo kiểu hình ê-líp với 6 cổng thành và tường thành được xây bằng đá. Và  có thêm cả một hệ thống kênh hào phòng thủ xung quanh nữa. Đó là câu chuyện của cách đây vài ngàn năm. 


Đến thế kỷ 12 sau CN, một số tài liệu do các thương nhân ảrập kể lại rằng Harran cũng như môi trường xung quanh vẫn là cả một lưu vực màu mỡ, nhiều cây cối xanh tươi và hệ thống kênh ngạch chằng chịt. Nhưng hạn hán liên miên đã làm thay đổi mọi thứ. Ngày nay, khí hậu khô cằn của vùng Trung Đông đã làm cho nguồn nước dồi dào xưa kia biến mất, cỏ cây xanh tươi không còn nữa mà thay vào đó là một vùng đất cằn cỗi. Trong số 4km tường thành thì chỉ còn lại 1km ở tình trạng phế tích. 


Khi mà người Ảrập tiến hành cuộc chinh phạt truyền bá đạo Hồi vào thế kỷ thứ 7 sau CN, Harran nằm trong số những nạn nhân đầu tiên. Các nhà sử học cho rằng nhà thờ Hồi giáo ở đây có thể là công trình sớm nhất trong lịch sử Trung Đông, được xây dựng vào thế kỷ 8 sau CN. Và thậm chí, những giả thuyết gần nhất còn khẳng định rằng đây là nơi có trường đại học Hồi giáo đầu tiên trên thế giới. Vào giai đoạn thế kỷ 9-12 sau CN, Harran là trung tâm nghiên cứu đạo Hồi cũng như khoa học lớn nhất Trung Đông. Thế nhưng cuộc chinh phạt của người Mông Cổ vào thế kỷ 13 dưới thời Thành Cát Tư Hãn đã hủy diệt tất cả những gì nằm trên đườn chúng đi qua, trong đó có Harran. Phần lớn các công trình kiến trúc bị phá sập và trường đại học Hồi giáo cũng như nhà thờ Hồi giáo chịu chung số phận. 


Trên phương diện kiến trúc, Harran ngày nay nổi tiếng với các ngôi nhà hình nón xây từ đất nung và rơm. Tất cả đều được xây vào đầu thế kỷ 19 sau CN, trên nền móng là những phế tích của Harran nguyên thủy 4000 năm trước. 


Ngày nay thì không còn nhiều người sinh sống trong những ngôi nhà này nữa, họ cho xây những căn nhà cấp bốn theo chiều hướng hiện đại và được lắp đặt hệ thống điện nước. Cá nhân tôi thì thấy mấy ngôi nhà đó cực xấu, làm mất cảnh quan chung của Harran những cũng hiểu rằng người dân cần điện nước như một nhu cầu tất yếu của cuộc sống.



 Thêm nữa, việc ở lại trong những ngôi nhà hình nón truyền thống không phải là dễ dàng vì chi phí trùng tu sửa chữa theo đúng cách truyền thống rất đắt đỏ. Đâu phải ai cũng có thể tìm được đất nung trộn với rơm để lấp các vết nứt lỗ hổng. Dùng mái lợp tôn và xi măng thì vừa rẻ lại vừa sẵn, tội gì không xây một ngôi nhà mới cho xong việc. Tình trạng này thì phổ biến ở nhiều nơi tôi đến, ở Marốc, Ai Cập hay chính làng cổ Đường Lâm hay Cự Đà ở Việt Nam.


Rời xa thị trấn Harran, tôi tiếp tục hành trình đi ngược thời gian với việc khám phá thị trấn Sanliurfa, cách Harran tầm 50km. Người địa phương thì chỉ gọi tắt là Urfa và trong thời kỳ thập tự chinh thế kỷ 12 sau CN, nó còn có tên là Edessa, một trong 4 vương quốc thiên chúa giáo ngay giữa lòng Trung Đông đầy ắp Hồi giáo. Nhưng hãy trở về lâu hơn, ở thời điểm 2000 năm trước CN, Sanliurfa được cho là nơi sinh ra của Abraham, ông tổ của dân tộc Do Thái theo truyền thuyết kinh thánh của họ. Truyền thuyết kể rằng có một vị thần tên là Nemrod mơ thấy một ngày nào đó mình sẽ bị lật đổ bởi một nhà tiên tri sắp sửa sinh ra. Hoảng sợ, vị thần này truy tìm và tiêu diệt tất cả các phụ nữ đang mang thai hoặc những tràng trai trẻ. Người mẹ đẻ của Abraham cất giấu con trai trong một cái hang và nuôi dưỡng ở trong đó trong một thời gian dài. Khi trưởng thành, Abraham tiến hành một cuộc âm mưu lật đổ Nemrod nhưng không thành công và bị ném từ trên vực thẳm. Và để chắc ăn, Nemrod còn chuẩn bị cả lửa và gỗ ở dưới đó để khi Abraham ngã xuống thì sẽ bị đốt thiêu rụi. Nhưng lạ thay, thượng đế đã cứu sống ông, biến lửa thành nước suối và gỗ thành cá. Điều đó lý giải tại sao ngày nay tại Sanliurfa có một con sông chảy uốn khúc quanh cái động được cho là nơi sinh ra Abraham. Và thêm nữa, có rất nhiều cá chép ở dưới sông. 


Trước năm 1963, thị trấn chỉ có tên Urfa. Nhưng sau đó, người Thổ bổ sung thêm chữ Sanli, trong tiếng Thổ có nghĩa là “huy hoàng”. Sanliufa được cho là nơi cực kỳ linh thiêng bởi những truyền thuyết nói trên và trở thành một trong những địa danh hành hương nổi tiếng nhất Trung Đông. Một điểm khá thú vị mà tôi nhận thấy là xuyên suốt các giai đoạn lịch sử, Sanliurfa luôn là một địa danh được sùng bái bởi cả 3 tôn giáo : Do Thái, Thiên Chúa và Hồi. Nếu như đây là vùng đất sinh ra ông tổ của đạo Do Thái, nó cũng là nơi sinh sống của những cộng đồng Thiên Chúa giáo đầu tiên dưới thời La Mã và cuối cùng đây là một địa phận quan trọng của Hồi giáo sau khi ngưởi ảrập xâm chiếm thị trấn năm 639. 


Ngày nay, mặc dù thị trấn Saniurfa nói riêng và Thổ Nhĩ Kỳ nói chung là vùng đất Hồi giáo, không ai có thể phủ nhận đây là  vùng đất của lòng tin tôn giáo, không phân biệt đó là đạo gì. Kể từ năm 2007, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ kết hợp với trường đại học Havard của Mỹ để xay dựng một hành trình hành hương dành cho những ai sùng bái Abraham (chủ yếu là người Thiên chúa giáo và Do Thái). Hành trình này đi từ Harran, qua Sanliurfa, qua biên giới Syria để đến Alep, Damascus, qua biên giới Jordan để đến Amman rồi đâm xuống Israel để tiến thẳng đến Jerusalem. Người ta đặt cho nó cái tên “hành trình của Abraham” bới nó mô phỏng đúng theo các bước đi trong suốt cuộc đời của ông. 


Rời Sanliurfa, chúng tôi quay trở về Goreme và kết thúc hành trình quay ngược chiều kim đồng hồ lịch sử. Và khi đến Goreme rồi cũng đồng nghĩa với việc kết thúc hành trình khám phá vùng Cappadocia của tôi. Chính nhờ những kiến thức rất phong phú tích lũy được trong chuyến đi này mà tôi đã có những nền tảng vững chắc để tìm hiểu sâu hơn lịch sử con đường tơ lụa cũng như các giai đoạn lịch  sử khác (La Mã, thập tự chinh) tại các quốc gia lân cận như Syria, Jordan, Ai Cập. Hơn một tuần ở Cappadocia là một phân khúc trong chuyến đi phượt hơn một tháng của tôi ở Trung Đông. Sau khi trở về Goreme, tôi bắt một chuyến xe ô tô liên tuyến để vượt biên giới sang đất nước Syria với những ngạc nhiên mới.

Có thể các bạn sẽ hỏi tại sao lại làm một lèo cả 4 quốc gia Trung Đông (Thổ Nhĩ Kỳ, Syria, Jordan, Ai Cập)? Bởi vì đó là phong cách du lịch của tôi. Đối với tôi, để tìm hiểu một cách đúng mực một quốc gia nào đó thì phải so sánh quan hệ của nó với môi trường xung quanh. Hiểu Thổ Nhĩ Kỳ thì phải hiểu cả quan hệ của đất nước này với Syria hay các quốc gia khác trên phương diện lịch sử. Cả 4 quốc gia kể trên đều là những vùng đất cực kỳ quan trọng trong lịch sử phát triển của loài người ở Trung Đông. Hiểu được cả một khối như thế là chìa khóa giúp ta hiểu cả Trung Đông, một vùng đất theo tôi là chịu nhiều thiệt thòi về mặt hình ảnh bời những xung đột liên miên về chính trị trong suốt thế kỷ qua. Tôi quyết định xẻ dọc Trung Đông đê minh chứng cho một điều mà tôi luôn tâm niệm : không có quốc gia nào xấu hay tốt. Tất cả chỉ là do cách sắp đặt hay nhìn nhận ở một khía cạnh nào đó. Hệ thống truyền thông như tivi, báo và đặc biệt là dưới con mắt của phương Tây đã phần nào làm biến dạng bộ mặt thật của Trung Đông. Và để tìm ra được bộ mặt thật đó, tôi vác balô đi thẳng vảo cái được gọi là hang ổ của đạo Hồi. Tôi tự kiểm điểm bản thân đã có những thành kiến không tốt về các quốc gia đạo Hồi nhưng chuyến đi này đã giúp tôi hiểu rõ hơn về đạo này và từ đó trở nên vị tha hơn đối với nhiều phong tục tập quán được cho là ấu trĩ, bảo thủ  và bạo lực.

Saturday 6 October 2012

Kongcharo nằm cách Pleiku khoảng 180km về phía Tây Nam, một huyện vùng núi anh hùng với cảnh đẹp hoang sơ, hùng vĩ. 28km xuyên những tán cây rừng, vượt 4,5 con suối cạn, chiếc xe Jeep đưa đội quân hơn 50 mạng về trung tâm xã Sơró, nơi mà đội sẽ sống, sinh hoạt cùng ăn cùng ở cùng làm với bà con Bana tại địa phương.

Ấn tượng đầu tiên về cái trung tâm xã có lẽ khác xa với tưởng tượng và lời quảng cáo hấp dẫn của mình. Trường học 2 tầng khang trang, trạm xá sạch sẽ, lại còn cái “nhà rông văn hoá” không biết được làm theo chủ trương của đồng chí lãnh đạo nào mà bê tông hoá hoàn toàn, từ sàn, cột, vách…

Trạm y tế xã Sơ Ró.
Nói chung là chẳng có tí đặc trưng nào hết của một xã vùng cao được xếp vào diện nghèo đói.
Đoạn đường còn lại chưa làm, đội chia 2 nhóm hành quân về 2 điểm ở khác nhau, mình đưa nhóm 1 về làng Sơró, cách trung tâm xã 4 km , đường khá dễ đi, chỉ lội qua một con suối cạn.

Khi mà chân bắt đầu mỏi, tinh thần bắt đầu vơi theo từng con dốc, làng Sơró hiện ra phía sau con dốc cao, thấp thoáng chóp nhà sàn và thoảng nghe tiếng suối róc rách, một ngôi làng yên bình với hơn 30 nóc nhà sàn bao bọc lấy nhà rông phía dưới một “thung lũng nhỏ” (theo cách gọi của bọn mình) và khoảng hơn 30 nóc nhà nữa chênh vênh trên những triền núi phía sau.

Nhà sàn của người Bana thấp và dài, nhà rông cũng không đặc biệt hơn nhiều, có chăng là lớn hơn và dài hơn, trước cửa nhà, đồng bào mình nghe tin tình nguyện về, ra ngồi ngóng, mấy em bé gái thẹn thùng khúc khích cười.

Bao bọc quanh làng là suối, một con suối như bao con suối không tên của núi rừng Tây Nguyên, đẹp, hoang sơ, rực đỏ sắc hoa lộc vừng rủ hai bên bờ, những bông hoa mỏng manh xoay như reo giữa những xoáy nước, vấn vương lại giữa các khe đá rồi vun vụt lao đi, biến mất.

Mình được bố trí ở trong nhà rông thanh niên (cái này là mới thí điểm ở Sơró và một số vùng khác, cũng là nhà rông nhưng khác nhà rông của làng, nhà rông này dùng cho sinh hoạt thanh niên, do thanh niên làm nên theo đúng những đường nét cổ xưa nguyên thuỷ nhất của nhà rông, đẹp, tỉ mỉ với những vật trang trí rất đặc trưng.)

Đồng bào Bana theo chế độ mẫu hệ, người phụ nũ quán xuyến mọi việc, từ lên nương đến quản lí gia đình, mình đã trợn tròn mắt ngạc nhiên khi thấy một gia đình Bana đi rẫy về, người cha dịu đứa con nhỏ, dắt đứa con lớn, người vợ và đứa con gái lớn địu gùi củi trĩu nặng. Ấy thế mà đàn ông con trai lại rất có giá, nếu “trai tốt” tức là khoẻ mạnh, nhìn sáng sủa thì chỉ có cô gái nào nhà có nhiều trâu bò mới dám đến bắt chồng, thường khi lấy chồng, đàng gái phải thịt ít nhất một con bò đãi làng, cùng Giàng và nộp sính lễ hồi môn cho nhà trai.

Khi mình đến, núi rừng Tây Nguyên đang vào mùa đãi “quả lười ươi”, một loại trái nhìn lông lá, khi ngâm trong nước nở ra ăn man mát, nghe đồn là tốt và bổ (vì mình ăn hoài nhưng chưa thấy bổ). Trái này bán rất được giá, thông thường một ngày một người đi rừng kiếm được cả trăm ngàn tiền bán trái lười ươi – một số tiền không nhỏ đối với người dân nơi đây.

Chiều đầu tiên đến điểm ở, cả lũ hăm hở ra tắm suối, thôi thì con trai cũng như con gái, chả có gì phải ngại, vì ngại thì chẵng lẽ ở bẩn không tắm. Nước suối tron và mát lạnh, có những đoạn chảy xiết làm cho mấy chàng trai của chúng ta hết sưc hào hứng, nằm bám tay vào mỏn đá, mặc cho nước táp qua người.

- Ối!
- Gì thế? cả lũ lao nhao lên
- ……
- Thế làm sao đấy????
- …….

Anh chàng kia im bặt, không nói một tiếng nào, mọi người cũng không hỏi nữa. Nhưng lạ kì ở chỗ, khi mà mọi người đã di tản lên những bụi cây để thay đồ thì anh chàng kia vẫn kiên quyết bám trụ không lên. Chỉ đến khi mấy tên con trai rộ lên cười hú há thì lũ con gái mới vỡ lẽ ra vụ án “nước chảy trôi…đồ”.

Đêm đêm, chếnh choáng trong men rượu cần, trong bập bùng ánh lửa, trong nhịp cồng chiêng do …chính tay mình đánh (dù rằng thấy người ta gõ thì mình gõ đại), tay nắm tay, hát theo nhịp xoang rộn rã “những bàn chân, bàn chân trần trên đất bước đi rộn rã bồi hồi, tiếng hú vang xa chín suối mười đồi, cái cồng con chiêng đêm nay cũng thức….” để rồi “rượu cần lâu năm (hic! chỗ này lạ lắm nhá, rượu cần chỉ mấy tháng là uống được, để đến 1 năm đã chua lè nói gì đến lâu năm) cất trong đáy mắt em, anh vít cần, vít cần mà không dám uống, anh cứ sợ, cứ sợ là mình mất nhau thôi”. Ấy, đến khi mà tụi mình hát chán thì tụi mình hát thế này “em ứ sợ, ứ sợ là mình mất nhau đâu!!!”

Đồng bào ta còn đói khổ lắm, tháng 7, bữa cơm gạo “dân tộc” (cách nói của một vài người Kinh trong vùng) vàng ngai ngái, độn trong bắp phơi khô, thức ăn là chút nấm rừng và cà đắng xào lá sắn. Ấy là nhà còn có người khoẻ mạnh đi làm được, còn nhiều nhà ăn bắp nướng qua bữa là chuyện thường tình.

Dù rằng muối được phát miễn phí, đất rẫy bạt ngàn nhưng người đồng bào mình thật thà quá, còn một số người Kinh thì tàn nhẫn quá. Người Kinh khôn ranh, người Kinh tàn nhẫn chỉ có vài hộ trong vùng, nhưng với biệt tài à ơi ngọt tận xương, họ dụ dẫn đồng bào bán đất nương gần, ruộng nương của họ bạt ngàn. Mình đã thấy những người già, đổi nhiều ngày công để lấy một giá gạo. Bao nhiêu lần phạt cảnh cáo, bao nhiêu lần tỉnh xuống làm việc, nhưng xét một cách thực tế, vai người Kinh ấy không phạm pháp, họ chỉ phạm vào cái tâm người, mà điều ấy thì chẳng ai xử lý được.

Nhưng đồng bào mình vẫn thương “sinh viên cụ Hồ” lắm, chiều chiều, người mẹ già đi rẫy về vẫn giúi vào tay mình mấy bắp ngô ngon mẩy nhất, những đứa trẻ vẫn mang đến những gì chúng cho là ngon nhất biếu “thầy cô”.

Nhớ mãi, gói mối từ tay đứa học trò đôi mắt đen lay láy, bắt hồi đêm, mang đến cho thầy ăn, miệng nói “ngon lam day” mà thầy cô nhìn đã chết khiếp chẳng dám ăn, nhớ mãi niềm vui của bọn trẻ khi ngồi trên chiếc xích đu thầy và trò cùng làm (hehe, dù rằng phải qua suối lên rừng chặt cây, và cây thì có cái biển “cấm phá rừng”).

Mặt trời chưa dậy, sương còn giăng giăng trên những ngọn núi xa xa, tiếng gà gáy, tiếng bước chân, tiếng ríu rít cười đùa của các cô gái Bana vang vang bên suối. Sáng thanh bình, mọi thứ đều thanh bình, hiền hoà, trong vắt, trong như nước suối rừng, trong như ánh mắt em bé Bana, trong như hơi thở của rừng.

Hôm nay mình sẽ vào rừng, khu rừng bên kia ngọn núi phía xa để chặt lồ ô về làm vỉ lót sàn nhà rông. Lồ ô gần ngay bản cũng có nhưng thân nhỏ, còi cọc, con người cần nhiều quá, rừng không kịp hồi sinh, để rồi cứ mỗi lần lại phải đi xa hơn, xa hơn.

Sáng dậy sớm, mấy bạn cấp dưỡng đã nắm cho mỗi người 2 nắm cơm, trứng luộc và muối vừng để đi đường, đường xa lắm, thuận lợi thì tối về, nếu không có lẽ phải ở lại lán giữa đường nếu trễ quá không về kịp.

Hăm hở lắm, lần đầu tiên được tiến vào rừng sâu, nơi mà đồng chí Đinh Hứt dặn đi dặn lại là phải cẩn thận có thú giữ. Thích lắm chứ, hình như đứa nào cũng háo hức được gặp thú rừng sau khi nhiều ngày ở đây chỉ nhiều lắm là bắt được thỏ. Đường xa thật xa, qua những con suối nước chảy xiết, từng phiến đá trơn rêu. Vượt qua con suối thứ 4, bụng mình thầm nghĩ, đi không đã khó thế này rồi, lúc về vác thêm Lồ ô, tinh thần lại xuống nữa thì sao vác nổi.

Qua suối, đến những rẫy ngô của đồng bào, những ruộng lúa nương vẹn vẹn bên suối, xơ xác vài hạt ngả vàng. Lại còn thấy cả cây bông, nghe nói là có chương trình trồng bông, nhưng bông thì trắng rẫy, đường xá lại xa qua nhiều sông suối, xe không vào được để thu mua, bông lại bỏ lăn lóc trên rẫy, màu trắng ngạo nghễ giương mắt nhìn đám lúa bắp xác xơ.

Con đường mòn cỏ tranh um tùm khi đi sâu hơn vào phía rừng, cỏ tranh mọc ngập đầu người. Sương đêm làm ướt đẫm cỏ tranh, ướt đẫm những con đường, tạt ướt cả ai áo, lành lạnh, ẩm ẩm.

Đến chân con núi, rừng tre đan vào nhau tạo thành những vòm, những mái. Lom khom chui qua rừng tre râm rạp, rừng nguyên sinh hiện ra trước mắt, rừng trên triền núi, rừng dưới thung lũng, rừng trước mặt và thấp thoáng phía xa, rừng nối tiếp nhau, hoang sơ nhưng hiền hoà, tĩnh lặng đủ để nghe thấy tiếng viên đá nhỏ rơi ở đâu đó, tiếng suối reo xa xa, tiếng chim giật mình gọi bạn.

Không giống như khu rừng nguyên sinh mình đã từng đi, rừng trước mắt mình thoáng đãng và khá khô ráo, cây mọc cạnh những phiến đá, chằng chịt dây leo lớn bằng thân người, vắt vẻo qua cây, ôm lấy cây, nối lấy cây, như những chiếc thuyền chở những cụm lan rừng trắng muốt. Hương rừng thơm ngọt, dịu dàng.

Những đứa lần đầu tiên biết thế nào là rừng nguyên sinh Tây Nguyên, cứ lặng người ngắm, trầm trồ khen cảnh, khen hoa. Còn mấy “thanh niên địa phương” thì thật tinh mắt khi đã kiếm được tổ ong rừng trĩu mật. Vì đã có “kinh nghiệm” bị ong chích khi ở trong rừng tràm tại U Minh Thượng, mình không dám lại gần, kiếm một thân cây phía xa xa, ngồi xuống …núp và hồi hộp theo dõi.

1 giờ sau, mật đã được rót ra đầy một chai lớn, anh Đinh P’lei đi qua mình nói nhỏ “vê cho cai Đinh Y.. mang ve…” (Đinh Y.là tên già làng đặt cho mình, người Bana vùng này đều mang họ Đinh)
Sướng cười tít mắt, xốc lại chiếc balo đựng thứ đáng giá nhất là cơm nắm, lại tiếp tục lên đường.

Thượng nguồn, nước chảy ra từ khe núi, đổ qua thác nước, cuối mùa khô, suối cạn, thác cũng thật hiền hoà. Thác rộng, những tảng đá lớn trơn nhẵn khô nước, phơi trắng lòng suối . Qua con suối này mấy bước là tơi rừng lồ ô, đã thấy trước mặt những thân cây gióng dài, thẳng tắp, xanh mướt. Dừng lại ăn trưa xong xuôi, rựa được xách lên, những thân cây thẳng tắp đổ xuống, để lại những vết chặt sắc nhọn.

Chỉ một loáng, từng bó, từng bó lồ ô đã được buộc gọn gàng, đều tăm tắp, mỗi bó sinh viên vác 5 cây, nữ 3 cây, thanh niên địa phương vác…8 cây! Vác một được khoảng nửa tiếng, số lượng cây đã là: nam SV 5 cây, nữ 2 cây còn thanh niên đĩa phương 2 người vác 9 cây!

Và sau một tiếng nữa, 2 đứa con gái chỉ còn vác nổi mấy cán rựa, balo và vài thứ linh tinh khác. Đúng là con gái chúa rắc rối!!! hehe.
Mệt, đói, đau chân, khi nhìn thấy bản làng thấp thoáng phía xa xa, khi nghe tiếng cười quen thuộc bên suối, ai nấy đếu mừng hớn hở.

Dừng chận một lát đứng ngắm nhìn bản làng bên kia con suối, hoa vẫn đỏ rực rủ xuống trong chút ánh sáng chạng vạng, ngôi làng yên bình, ngôi làng đầy ắp sự thơm thảo tình người, ngôi làng có con suối cong cong uốn mình chảy qua, đẹp cả về cảnh, về tình, về hồn.

Để nhớ lại, cứ văng vẳng tiếng ru của người mẹ Bana anh hùng, xoa đầu và ru ta, hát và vít cần, mắt thăm thẳm như núi, như rừng, lòng hiền như vốn con người sinh ra đã vậy….

Còn tiếp
Những nẻo đường Tây Nguyên (1): Gia Lai
Những nẻo đường Tây Nguyên (2): Pleiku
Những nẻo đường Tây Nguyên (3): Rượu Ghè Bana
Những nẻo đường Tây Nguyên (4): Núi rừng Tây Nguyên
Những nẻo đường Tây Nguyên (5): Kongcharo
Những nẻo đường Tây Nguyên (6) : Đà Lạt

Haggard04
Du lịch, GO! - Theo Vysa, ảnh bổ xung từ internet
“…Cảnh núi rừng Tây Nguyên thấp thoáng, những triền đồi đất đỏ dưới nắng rực lên màu mỡ, những vạt rừng xa xa, lại có cả một miệng núi lửa sừng sững. Tháng 6, hải quỳ nở thưa thớt hai bên đường, lẫn trong màu xanh bạt ngàn của cao nguyên.” (haggard04)

Hành trình Gia Lai – Phú Yên

2 giờ chiều, cả đoàn chào tạm biệt Pleiku, chị dẫn đoàn người Rarai mắt ướt ướt, bịn rịn chia tay, ừ thì cũng cảm động, nhưng mà không hiểu sao mình cứ toe toét cười, có lẽ là vì cả thùng sầu riêng sau xe...

Cũng không hẳn, có lẽ là vì mấy lít mật ong rừng nguyên chất thơm nức mũi, cũng phải chăng là 2 ghè rượu bắp ủ đủ ngày đủ tháng mà ông ngồi ghế sau đang phải khư khư ngồi ôm. Tạm biệt Pleiku, hẹn… tháng sau gặp lại!

Vì chuyến đi vào tháng 6, lại kiếm được xe công, “cơ sở cách mạng” của anh em trong đoàn trải dọc từ Bắc chí Nam nên cả đoàn không chạy về theo đường tắt (về thành phố Hồ Chí Minh theo đường Bình Phước) mà quyết định đi dường vòng, chạy dọc tuyến Phú Yên – Nha Trang – Ninh Thuận – Bình Thuận… mà về, tiện thể mỗi địa phương dừng chân một vài ngày.

Xe lao qua những rừng cao su thẳng tắp, xanh biếc, mát lạnh. Vì cái lí do hết sức dễ thương là chị em phụ nữ trong đoàn chưa biết cây cao su nên xe dừng lại cho thoả lòng chị em phụ nữ. Có lẽ bà con địa phương mà thấy cái cảnh: dừng xe, 3 đứa con gái nhào xuống, chạy ù vào rừng cao su, lấy tay ..sờ sờ, xoa xoa, chụp hình rồi lại ù chạy về xe, có lẽ bà con mình sẽ chả hiểu cái lũ dở hơi kia nó làm cái giống gì. Quay lại xe, ngỡ ngàng khi không thấy các bác phụ nam đâu, bác tài cười bí hiểm, hất đầu về phía rừng thì đã thấy 3 bác dứng cạnh 3 cây cao su, không biết làm cái trò gì…

Đoàn lại tiếp tục lên đường, cảnh núi rừng Tây Nguyên thấp thoáng, những triền đồi đất đỏ dưới nắng rực lên màu mỡ, những vạt rừng xa xa, lại có cả một miệng núi lửa sừng sững. Tháng 6, hải quỳ nở thưa thớt hai bên đường, lẫn trong màu xanh bạt ngàn của cao nguyên.

Rồi đèo, cơ man là đèo, con đường quanh đèo nhỏ xíu cảm giác chỉ đủ cho 2 chiếc xe ngược chiều chạy là vừa khít, bac tài xế hứng chí, chạy cái đuôi xe lúc nào cũng cán mép đường vực dù cả đoàn đang đổ đèo gần mép núi! Mấy đứa sợ quá ,rền rĩ:
- Bác chạy chậm chậm thôi đi mà?
- Ôi giời, ngày xưa tao đi đường này dọc bom đạn, nó bắn sát đít, chạy bán sống bán chết mà có việc gì đâu!
Mấy con giời hết nói, ngồi im re, thôi thì trời không chịu đất thì đất phải chịu trời thôi.

Sau khi tạm phải yên tâm, mình ngồi ngắm cảnh, vẫn là những cảnh núi rừng, thung lũng mình gặp từ mấy ngày nay mà sao vẫn thấy thích thú, vẫn muốn say sưa ngắm. Hình như các anh chị em cũng có chung mong muốn với mình nên kêu bác tài dừng xe, chạy lên sườn núi ngắm cảnh. Một lũ lố nhố trên sườn núi, mình đứng lặng nhìn phong cảnh, hít cang hương vị núi rừng và gân cổ thi hét, bây giờ nhớ lại, sao thèm được đứng ở nơi đó, hét lên thật to và nghe tiếng vọng lại xa xa.

Xe đổ đèo Tô ma, một con đèo nghe tên quen quen với những lời doạ đẫm “Kinh lắm, lạ lắm, đi rồi biết.”
Chịp! không biết có phải là quả thực cái đèo nó chả có gì làm nguy hiểm hay là mấy ngày nay mình chịu quen cái cảnh lên những dốc dựng đứng rồi phi xuống trong trạng thái gần như rơi tự do hay không mà thấy cái lời kẻ nào đó cảnh báo mình thật đáng nực cười.

Đang mơ màng ngắm cảnh, mình bỗng giật mình, thấp thoáng phía trên núi có một tấm biển thật lớn vẽ hình mây con bò và dòng chữ “coi chừng bò”. Chưa hết bàng hoàng thì xe bỗng thắng gấp, chưa kịp ca cẩm thì nhìn trước mặt xe tối sầm lại, nhìn cả đoàn ai mặt cũng nghệt ra. Bò! Cả đàn bò! Con nào con đấy lừng lững hiên ngang bước qua đường, bất chấp bác tài bấm còi inh ỏi.

Sau mấy phút hò hét, bọn chúng nó như muốn thi gan, con nào con đấy hếch mắt lên nhìn mình thách thức, mình nhìn không lầm là bọn nó còn đang muốn cả xe nhìn lại cái biển ở chân đèo kia. Ừ thì đúng rồi, cái biển có ý là “người coi chừng có bò” chứ đâu có cảnh báo bọn bò “bò, coi chừng có xe”. Cái xe biển đỏ CSGT còn không thèm bắt dừng lại mà phải dừng lại vì một lũ bò! Anh em ngao ngán nhìn nhau, bình luận, lại còn làm cả vè, cả thơ về bò nữa :

“ Bò vừa sinh con, người ta đã kêu là con bò
Bò vừa ra lông, người ta đã kêu là lông bò
Bò chết đi mới đêm thui ta gọi là thui bò
Mấy thằng ngu ngu, người ta nói, ngu như bò”

Ấy, nhàn rỗi sao mà xuyên được cái bài này xong, cả xe còn hát rất ư là sảng khoái. Lũ bò vẫn nhìn vào xe với con mắt lãnh đạm và chán nản. Rồi chuyện gì đến cũng đến. Bọn bò nó đi ăn về, nó no, nó say, nó lại được nghe hát, nó đứng chán không có việc gì làm, thế là nó làm cái việc muôn thủa, đi vào thì phải đi ra.

Cũng hay, ngồi trong xe giữa đồng không mông quạnh mà được nghe xuối chảy róc rách, à, không phải róc rách, mà phải là ào ào mới đúng. Rồi nó đi! Cũng may là anh em an toàn hết, xe cộ cũng không trúng phải bom mìn gì, âu cũng là điều may mắn!

Còn tiếp
Những nẻo đường Tây Nguyên (1): Gia Lai
Những nẻo đường Tây Nguyên (2): Pleiku
Những nẻo đường Tây Nguyên (3): Rượu Ghè Bana
Những nẻo đường Tây Nguyên (4): Núi rừng Tây Nguyên
Những nẻo đường Tây Nguyên (5): Kongcharo
Những nẻo đường Tây Nguyên (6) : Đà Lạt

Haggard04
Du lịch, GO! - Theo Vysa, ảnh bổ xung từ internet
Mùa hè đến, những mặt hàng phục vụ nhu cầu đi du lịch “bụi” đang hút khách. Các mặt hàng này bán tập trung tại chợ Dân Sinh, chợ Nga (Russian Market), Saigon Square (TP.HCM).

< Chọn mua ba lô du lịch.

Sản phẩm bán chạy nhất hiện là túi ngủ, dùng thay thế cho chiếc giường, mùng, chăn… Dù giá có nhích hơn 20% so với năm ngoái nhưng đây vẫn là vật dụng không thể thiếu trong hành trang của dân đi “bụi”.

Theo chủ cửa hàng Ngọc Ánh (chợ Dân Sinh), vào mùa này bán chạy nhất vẫn là túi ngủ dạng mỏng, có 2 lớp để người ngủ không bị nóng với giá từ 185.000 đồng/cái. Nếu đi đến những vùng có cây cối rậm rạp thì nên chọn mua võng tích hợp cả mùng tránh muỗi và chăn, giá 150.000 đồng/cái.

Ngoài ra chủ nhân phải trang bị thêm một tấm vải bạt che mưa phía trên võng với giá từ 35.000-100.000 đồng/cái.

Tại chợ Nga còn có bán loại quần túi hộp đa năng rất tiện lợi. Quần dài, chống được muỗi và vắt bám vào chân, có nhiều túi để đựng những vật dụng nhỏ gọn như: dao nhíp, đèn pin, bật lửa… Đặc biệt, có thể tháo ống quần dài thành ngắn nhờ dây kéo chìm bên trong rất thuận tiện. Giá một cái quần đa năng này từ 135.000 đồng.

Nhiều chuyên gia tư vấn khi đi khám phá tại vùng rừng như: Rừng quốc gia Nam Cát Tiên, Cúc Phương… cần mang theo vớ chống vắt. Vớ dài qua đầu gối, có dây buộc phía trên, ngoài chức năng chống vắt, còn có thể giữ ấm chân khi nhiệt độ xuống thấp.

Một loại không thể thiếu khi đi vào nơi ẩm ướt là vớ ni lông dùng bọc bên ngoài giày. Trước khi đi qua vùng đầm lầy hay vũng nước nên mang vớ bọc ở ngoài giày giữ cho chân và giày luôn khô ráo. Sản phẩm xài một lần với giá bán 15.000 đồng/ đôi.

Chị Hằng (Q.1), dân du lịch “bụi” cho biết, trong hành lý đi kèm ngoài đôi giày thể thao còn có thêm một đôi giày bằng nhựa siêu nhẹ. Gặp những khi thời tiết xấu hoặc đi qua vùng đầm lầy thì giày có bị ướt nhưng rất mau khô, giá từ 120.000 đồng/đôi.

Ba lô du lịch, ngoài những mẫu có thêm phần đáy túi có thể chứa máy ảnh, hoặc chứa quần áo cho những chuyến đi ngắn ngày, khách du lịch đi dài ngày có thể chọn mua ba lô loại lớn từ 60 - 120 lít. Giá bán rất khác nhau, tùy theo chất liệu cũng như độ bền của sản phẩm từ 450.000 đồng/cái.

Được nhiều người tìm mua là ba lô tích hợp 3 trong 1, có thể tách ra thành một cái ba lô nhỏ và túi đeo trước bụng để tránh thất lạc giấy tờ khi vào những khu đông người.

Đồ nghề trekking

Giày trekking

Một đôi giày leo núi phù hợp không chỉ giúp bạn chinh phục đỉnh cao dễ dàng hơn, an toàn hơn mà còn bảo vệ đôi chân của bạn. Tốt nhất, bạn nên chọn loại giày đế cao su, có ma sát lớn, có đệm mắt cá chân giúp cho bạn di chuyển nhẹ nhàng, chống thấm nước và cao cổ. Loại giày này khá dễ mua ở các hàng bán đồ thể thao với nhiều nhãn hiệu tên tuổi với giá khoảng từ 400.000đ/đôi.

Túi ngủ

Trên núi cao, nhiệt độ thường thấp, đặc biệt là về đêm. Do đó, một chiếc túi ngủ ấm áp là thực sự cần thiết. Nhưng để mang theo trong suốt hành trình, túi ngủ của bạn phải thật gọn nhẹ và tốt nhất là loại túi ngủ chống thấm nước. Bạn có thể tìm mua túi ngủ ở các cửa hàng bán đồ thể thao hoặc trong Metro với giá 173.000đ.

Lều trại

Để ngủ đêm trên núi, ngoài túi ngủ, bạn còn cần thêm lều trại để tránh mưa, sương mù và gió rét. Lều trại có nhiều kích cỡ cho bạn lựa chọn, từ lều cá nhân, lều dành cho 2 người, lều 4 người…Bạn có thể mua lều du lịch tại siêu thị Metro hoặc các cửa hàng bán đồ thể thao.

Quần áo

Tuỳ theo mùa mà bạn có thể lựa chọn những loại quần áo phù hợp. Nếu là mùa hè, bạn nên chọn loại quần áo bằng chất liệu nhẹ, thoáng khí, còn nếu là mùa đông, bạn nên mặc nhiều áo mỏng thay vì một áo dày để dễ dàng cởi ra khi nóng. Để leo núi, bạn cần mặc quần áo rộng rãi, chất liệu cotton, giúp cử động dễ dàng, không nên mặc quần áo bằng vải jean dày hoặc quá bó.

Ba lô

Một chiếc ba lô “chuẩn” sẽ giúp chuyến đi của bạn thuận lợi hơn. Đó là một chiếc ba lô nhiều ngăn, chống thấm nước, có đai ngực và đai bụng, ôm sát người giúp bạn leo trèo không bị vướng víu. Bạn có thể mua ba lô trekking của các hãng tên tuổi như The North Faces, Jack Wolfskin, Deuter… với giá từ 300.000đ tại các cửa hàng bán đồ thể thao.

Túi cứu thương

Không chỉ dành cho những đợt leo núi, túi cứu thương cần là bạn đồng hành của bạn trong mỗi chuyến du lịch. Trong mỗi túi cứu thương, bạn cần có thuốc chống dị ứng, thuốc chống côn trùng, thuốc chữa rắn cắn, bông băng, salonpas, thuốc giảm đau, hạ sốt, thuốc sát trùng, băng cá nhân, dầu gió, thuốc tiêu chảy.

Dụng cụ bảo vệ

Các dụng cụ bảo vệ bao gồm: mũ bảo hiểm, giúp bạn giữ an toàn khi phải “đối đầu” với vách đá, dây thừng: thông dụng nhất là loại dây có lõi xoắn bằng thuỷ tinh. Giá từ 100 – 200USD tuỳ loại; đai leo núi: là hệ thống dây bảo hiểm được “mặc” quanh người, có 3 loai đai để bạn lựa chọn: đai eo, đai ngực và đai toàn thân; bọc đầu gối, bọc khuỷu tay, găng tay có hạt để tăng độ ma sát, bảo vệ tay bạn khi bám vào đá.

Ngoài ra, còn một số đồ lặt vặt nhưng cũng không thể thiếu, đó là dao đa năng, đèn pin, pin dự phòng, bật lửa, áo mưa

Du lịch, GO! - Theo Nguyên Trang (Tinnong), Phuotcafe, internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống