Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Showing posts with label PHÁP. Show all posts
Showing posts with label PHÁP. Show all posts

Sunday 19 August 2012


Cuộc đổ bộ bãi biển Normandie năm 1944, một sự kiện còn ghi mãi trong lòng người Pháp cũng như hình ảnh chiến thắng Điện Biên Phủ. Với những người yêu mến lịch sử và chiến tranh thế giới thứ II thì chắc sự kiện này chẳng có gì xa lạ cho lắm. Trong bài viết này, mục đích của tôi không phải để lại viết một bài thuyết trình miêu tả sự kiện này mà viết về tâm trạng cũng như hồi ức của tôi trong thời gian đi dọc theo bãi biển Normandie và thăm những di tích chiến tranh còn sót lại nơi đây.

Nhớ lại thời điểm năm 2008, tôi theo một khóa thực tập 4 tháng về ngành quản ký khách sạn gần thành phố Caen, nằm ngay trung tâm của khu vực Basse Normandie, nơi các cuộc đổ bộ xưa kia xảy ra. Với lợi thế ở gần như vậy, tôi thường dành thời gian rảnh rỗi cuối tuần bắt xe bus kết hợp cùng đạp xe đạp dọc theo bờ biển để thăm những gì còn sót lại từ năm 1944. Bài viết này tổng kết lại nhiều mảnh nhật ký cá nhân mỗi khi tôi thăm một di tích (bảo tàng, nghĩa trang, phế tích căn cứ quân sự) để tạo hẳn thành một chuỗi thống nhất 

đạp xe dọc theo bờ biển để truy tìm những gì còn sót lại từ cuộc đổ bộ năm 1944 là một trong những thú vui của tôi trong thời gian thực tập vùng Norrmandie phía bắc nước Pháp
Trước khi vác vali đến đây,trong đầu tôi là những mường tượng thật hùng vĩ như sử thi đam săn bởi nó được thêu dệt lên qua những bộ phim tôi xem cũng như những trò chơi điện tử mà tôi đã từng chơi. Không bị ảnh hưởng sao được khi trò chơi nhập vai commandosCall for Duty quá hay. 

tôi biết đến sự kiện năm 1944 lần đầu tiên nhờ trò chơi điện tử PC Commandos hồi còn học lớp 10
tôi học được nhiều điều về thế chiến thứ II qua trò chơi này
Địa danh đầu tiên mà tôi phải nói đến là khu di tích lịch sử Arromanches. Arromanches đóng vai trò tối quan trọng trong chiến dịch đổ bộ bởi đây là một cảng nhân tạo làm bàn đạp cho quân đồng minh nhập đất liền và tỏa đi các nơi khác. Sự thành công trong việc xây dựng cả 500m cảng nổi trên biển mang tính quyết định đến sự thành công của chiến dịch. Thời gian hoạt động của cảng nhân tạo Arromanches không lâu, chỉ 100 ngày, nhưng 400.000 binh lính đã bước qua nó để đổ bộ đất liền cộng thêm 4 triệu tấn thiết bị quân sự và 500.000 xe vận chuyển (xe tăng, xe jeep, xe thiết giáp, xe tải vận chuyển…)


Cũng tại trên địa điểm mà hàng trăm con người đặt chân đến, ngày nay không còn gì nhiều còn sót lại, chỉ là lèo tèo hai cái bình bong bằng bêtông. « Port Winston » không còn nữa mà chỉ còn lại những khối sắt rỉ. Những tiếng xe tăng chạy rầm rú hay tiếng vang đầy khí thế của các chiến binh năm nào nay nhường lại cho không khí yên bình nơi chỉ còn lại những tiếng sóng vỗ vào.  

Quân liên minh sử dụng những « phao nổi » như thế này để xây dựng cảng nổi. Tất cả đều được làm bằng bê tông và thép ngay từ bên Anh. Sau đó, các tàu lớn chở cúng qua eo biển Măng-xơ và thả chúng gần Arromanches.

Sau những giây phút đi dạo trên những đụn cát, tôi thăm rạp chiếu phim Arromanches 360°,  một chiêu bài lợi hại mà người Pháp sử dụng để giúp cho du khách có được những mường tượng cụ thể hơn về lịch sử.  Rạp được thiết kế theo hình tròn mục đích để người xem nằm ngay tại trung tâm tạo cảm giác như thể họ chính là nhân vật trung tâm chứng kiến những giây phút hồi hộp của chiến dịch đổ bộ.


Bộ phim tài liệu « le prix de la liberté » được trình chiếu dưới 9 màn hính ở những góc độ khác nhau. Đây là một sản phẩm du lịch được xây dựng công phu với sự kết hợp song song giữa tư liệu lịch sử do các nhà quay phim thời điểm ấy thực hiện cộng với những hình ảnh của các di tích còn sót lại ngày nay. Với kỹ thuật chiếu 360°, tôi có cảm giác như đang chính là một trong những binh lính Mỹ, Canada, Anh hay Pháp cũng hừng hực khí thế trước giờ G, ngày 6 tháng 6 năm 1944. Thật vây, với kỹ thuật lắp đặt camera, tôi có cảm giác như chính mình đang đi bộ dọc theo cảng Arromanches, lái máy bay tiếp tế lương thực, xông vào một lỗ châu mai của địch hay cùng đồng đội đổ bộ lên bãi biển. Quá tuyệt !

Tại Arromanches, trên một ngọn đồi là chiếc xe tăng Pháp hiên ngang hướng nòng súng về bãi biển, nơi họ khởi xướng cuộc giải cứu quốc gia khỏi sự xâm lăng của Đức
Có thể nói Arromanches là một bàn đạp, không những về mặt chiến dịch đổ bộ mà còn là về mặt kiến thức hiểu biết. Hiểu được Arromanches rồi thì sẽ dễ dàng hiểu vị trí những bãi biển mà quân liên minh đổ bộ. Quay lại vào thời điểm thế chiến thứ II, quân Đức phải xây dựng một hệ thống kênh hào phòng thủ trải dài khắp phía bắc nước Pháp, kéo dài tới 5000km.


 Tuy nhiên, họ chỉ có tổng cộng 700.000 lính canh giữ trong khi đó, quân liên minh huy động đến gần 3 triệu binh kính từ Mỹ, Anh, Canada, Pháp. Sự đổ bộ ồ ạt cùng lúc lên các bãi biển khác nhau và sự chênh lệch về số lượng giải thích một phần cho thất bại của quân Đức


Các bãi biển này đều được đặt tên riêng và mỗi một bãi biển được giao phó cho một quốc gia: Utah Beach + Omaha (quân Mỹ), Gold Beach + Sword Beach (quân Anh), Juno Beach (quân Canada). Trong số 5 bãi biển này, tôi chỉ thăm được 2 bãi biển có quân Mỹ đổ bộ, một phần cũng là vì đây là hai bãi biển được tôi biết đến nhiều hơn thông qua các bộ phim tôi xem cũng như trò chơi điện tử .


Nếu như hai bãi biển Omaha Beach và Utah Beach là nơi quân Mỹ đổ bộ thì bên kia chiến tuyến, la pointe du Hoc là điểm phòng thủ đáng nói nhất của quân Đức.


Nằm trên một vực thẳm cao 30m, đây là nơi họ có thể nhìn được từ xa và khống chế cả hai bãi biển Omaha và Utah. Quân Đức cho xây kiên cố một lỗ châu mai với 5 khẩu đại bác có thể cày nát cả hai bãi biển trong vài phút .


Nhận thấy sự nguy hiểm đó, việc khống chế được lỗ châu mai này mang tính quyết định đến sự thành công của việc đổ bộ sau đó. Trước quộc đổ bộ vài ngày, quân liên minh cho máy bay dải bom rất nhiều để phá hủy các ụ pháo ở Pointe du Hoc nhưng các quả bom rơi xuống không chính xác nên không gây thiệt hại nhiều cho quân Đức đóng ở đây.

 Quân liên minh quyết định cử một biệt đội commandos xâm nhập vào căn cứ địch trước và cầm cự trong vòng 2 ngày trước khi chờ sự viện trợ từ quân đổ bộ từ Omaha Beach. Nhiệm vụ này được tái hiện phần nào trong trò chơi commando.


 Một tiểu đoàn hơn 200 đặc công được giao phó nhiệm vụ lẻn vào căn cứ địch bằng cách leo trèo vực thẳm từ dưới biển lên chỉ trong vài phút. Nếu như việc trèo lên không gây thiệt hại về quân số thì việc đôi công với quân địch tại đỉnh là lúc đẫm máu nhất.


Bị phản công tứ phía và bị cắt nguồn tiếp viện phía sau, cả tiểu đoàn chỉ còn biết nấp sau những hố bom (do máy bay liên minh dải thảm tạo ra trước đó) và cầm cự chờ cho đến khi quân đổ bộ ở các bãi biển Utah Beach và Omaha Beach gần đó đến giải nguy. Sau nhiệm cụ này, chỉ còn lại 90 lính là đủ sức chiến đấu, còn lại thì bỏ mạng.


Những ụ pháo như ở Pointe du Hoc được xây dựng dọc theo bờ biển Normandie và phần lớn đều bị phá hủy trước và trong chiến dịch đổ bộ bởi máy bay ném bom của quân Liên Minh. Ngày nay, không còn nhiều di tích lịch sử liên quan đến hệ thống phòng thủ của Đức. Cũng phải chịu khó đạp xe đi dọc theo bờ biển thì tôi mới phát hiện thêm hai địa danh nữa giúp ta mường tượng được phần nào sự kiên cố của nó.


Cái thứ nhất là hệ thống 4 ụ pháo 150mn ở thị trấn Longues-sur-mer được đặt ngay tại cửa biển Gold Beach hồi ấy thuộc phần đổ bộ của quân Anh. Được đặt ngay trên đỉnh một ngọn đồi cao 65m, đây thực sự là một vị trí lý tưởng để cố thủ và đánh chặn các tàu chiến ngoài khơi.


Các khẩu đại bác tầm bắn là 20km nhưng trên thực tế đã không hoàn thành nhiệm vụ và để cho quân Anh xuyên thủng. Chỉ sau 24h, ụ pháo của Đức bị khống chế hoàn toàn và hơn 200 lính Đức phải đầu hàng.  


Cái thứ hai là hệ thống chiến tũy phòng thủ của Đức có thể được tìm thấy ở thị trấn Grandcamp Maisy và cũng phải nói rằng địa danh này bị bỏ quên trong vòng hơn 60 năm rồi sau này mới được để ý đến để phát triển du lịch.


Chiến lũy ở đây dài khoảng hơn 2km với một đoạn chiến hào đào sâu dưới lòng đất và hiện tại vẫn còn. Tại sao phải mất hơn 60 năm người ta mới tìm lại được chiến lũy này ? Bởi vì ngay sau khi chiến dịch đổ bộ năm 1944 thành công, quân Liên Minh cho phá hủy và chôn vùi toàn bộ chỗ này. Những gì tôi nhìn thấy vào năm 2008 chỉ là một phần được các chuyên gia đào tìm thấy và mở cửa cho công chúng vào xem. Như vậy có nghĩa là dưới lòng đất có thể có thêm một đoạn chiến lũy nữa chưa được khai quật.


Với một hệ thống phòng thủ kiên cố như ở Grandcamp Maisy chấn giữ ngay cửa biển Omaha Beach, chúng ta cũng có thể mường tượng việc đánh chiếm được nó khó như thế nào. Nhưng vỏ quýt dày có móng tay nhọn và bãi biển Omaha Beach là nới chứng kiến sự so tài hấp dẫn giữa công và thủ. 


Omaha Beach có lẽ là một trong những điểm tôi yêu thích nhất sau Arromanches bởi đây chính là nơi đổ bộ đẫm máu nhất và cũng được lăng xê nhiều nhất qua phim ảnh. Ngày nay, đây là một bãi biển tuyệt đẹp nhưng vào năm 1944 thì đây là biểu tượng của sự dũng cảm, của lòng kiên định xen lẫn với sự bi thảm. Ngày mồng 6, hàng trăm ngàn lính Mỹ đổ bộ xuống như những cơn đại hồng thủy ào vào chiến hào quân Đức. Trải dài trên 6 dặm, Omaha Beach là bãi biển dài nhất trong số 5 bãi biển đổ bộ và do bị cô lập bởi những vực cao bao quanh nên đây cũng là khu vực hiểm trở khó tấn công nhất. Không phải ngẫu nhiên mà quân Đức chủ ý chọn vị trí này làm nơi phòng thủ. Ngoài lợi thế về vị trí, họ cũng cho xây dựng một hệ thống lỗ châu mai và mìn rất kiên cố. Người Đức rất tự tin vào hệ thống kiên cố này và đinh ninh rằng một khi quân Liên Minh đổ bộ thì chẳng khác gì những con thiêu thân lao vào những cỗ súng máy của họ.

Quân Mỹ đổ bộ như những con thiêu thân và thiệt hại rất nhiều về quân số ngay trong 6h đầu tiên. Nhưng người nào sống sót được là nhờ may mắn và sự che chở của những rào cản trên biển
  Và quả thật quân Mỹ đã gặp rất nhiều khó khăn từ nhiều phía : gió biển mạnh đẩy các con tàu đổ bộ dạt sang một bên nên không đến được điểm như dự kiến, các đợt đánh bom dải thảm trước đó không hiệu quả nên các lỗ châu mai Đức không hề hấn gì, các xe thiết giáp không đạt được độ gần với bãi biển như mong đợi nên không thể che chở cho binh lính và khiến họ phải trực tiếp hứng chịu cơn mưa đạn súng máy Đức.

Những ai may mắn sống sót lê lết ẩn náu vào các vực thẳm và tự lên dây cót tinh thần cho những đợt xâm nhập tiếp theo
 Đó là lý do vì sao gần 3000  binh lính Mỹ hoặc chết hoặc bị thương chỉ trong 6 tiếng đầu tiên trong khi họ chỉ tiến được có 2km. Quả không ngoa khi nói rằng kế hoạch đổ bộ ở Omaha Beach súy chút nữa thì thất bại nếu không nhờ may mắn và sự quả cảm không tưởng của lính Mỹ. Không thể đánh trực diện ngay tại bãi biển Omaha, những tiểu đoàn sống sót dùng những sức mạnh cuổi cùng xâm nhập vào hai vực thẳm hai bên sườn bãi biển, nơi mà hệ thống phòng thủ của quân Đức yếu hơn rất nhiều và phải nhờ đó kế hoạch mới thành công.
rất nhiều chiến sỹ hi sinh không có mồ chôn tử tế và đồng đội lấy súng thay cho chiếc thánh giá
Ngay tại nơi 3000 binh sỹ Mỹ tử trận là một đài tưởng niệm
Có thể nói sau kỳ công Arromanches, việc xuyên thủng hàng phòng ngự Đức ở Omaha Beach là điểm nhấn thứ hai, quyết định đến sự thành công cục bộ của chiến dịch đổ bộ Normandie. Quả thật là sự phòng ngự quá tốt của quân Đức đã khiến cho kế hoạch của quân Liên Minh kéo dài lâu hơn dự kiến, gần như là 12 tuần chứ không phải là một tuần.

một mặt, người ta dựng lại chi tiết cách mà quân Mỹ đổ bộ xuống, cách họ tự giải cứu trong tuyệt vọng trước dòng đạn của địch, và cách họ chết oai hùng
Để tưởng nhớ đến chiến công hiển hách của quân Mỹ, viện bảo tàng được xây dựng lên. Bên trong được trưng bày những hiện vật như đồng phục, vũ khí và những kỷ vật thuộc về binh lính đã ngã xuống. Các cảnh giáp chiến hồi ấy được tái hiện lại qua cách dựng rất sống động

mặt khác, cách chuẩn bị của quân Đức cũng được giải thích kỹ càng

Nghĩa trang liệt sỹ Hoa Kỳ theo tôi là địa điểm lịch sử nổi tiếng thứ hai sau Arromanches. Nằm rất gần Omaha Beach, tại đây là 9386 ngôi mộ của binh sỹ Mỹ hi sinh trong ngày đổ bộ.  Nói là « liệt sỹ » thì cũng không chính xác cho lắm vì đại đa số các binh sỹ hi sinh đều được xác định rõ họ tên, chỉ có 337 ngôi mộ là không biết nguồn gốc.


Nghĩa trang này đối với riêng tôi là một kỷ niệm đáng nhớ. Trên đường đến đây, tôi tình cờ gặp được hai chàng trai trẻ người Mỹ. Sau cuộc nói chuyện, tôi được biết cả hai đều là hậu duệ của hai mộ phần tại đây. Khi vào bên trong, tôi lại gặp thêm nhiều du khách Mỹ nữa, chắc cũng là con cháu đên đây thăm tổ tiên họ, những người đã ngã xuống mãi mãi tại một nới cách quê hương đến hơn  chục ngàn cây số.

rất nhiều hậu duệ của những binh sĩ Mỹ xưa kia quay lại nghĩa trang này để thăm mộ cha ông họ. Có lẽ cuộc tấn công ở Normandie là một trong những tiền đề reo rắt trong tâm trí binh sĩ Mỹ ngày nay một tâm niệm : hy hinh ở biên cương xa xôi cho một hòa bình lâu dài và sự an toàn của chính quốc gia họ. Phải chăng việc tấn công ở  irắc, Afghanistan cũng có nguồn gốc từ sự kiện này?


 Không nổi tiếng bằng Omaha Beach nhưng Utah Beach cũng để lại một số dấu ấn trong tôi. Tại đây, được xây dựng viện bảo tàng và nhìn từ xa trông giống như một con sò khổng lồ bị mắc cạn trên bãi biển. Và cái đặc biệt ở đây, đó là vị trí mà viện bảo tàng được xây lên xưa kia là lô cốt của quân Đức bị quân Mỹ khống chế


Khác với viện bảo tàng ở Omaha, chủ yếu giải thích về cuộc giáp chiến đôi công trên bãi biển, Utah Beach giải thích nhiều hơn về những công nghệ tiên tiến mà quân Liên Minh sử dụng trong ngày đổ bộ.


Quay lại quá khứ, Utah Beach đóng một vai trò khác so với 4 bãi biển còn lại. Thứ nhất, nó là phương án B, nếu như kế hoạch đổ bộ tại 4 khu vực kia không thành công thì quân liên minh vẫn có thể đổ dồn toàn bộ lực lượng vào Utah như quân bài cuối cùng. Thứ hai, quân liên minh cũng cần một cảng biển đủ độ sâu để đưa vào đất liền một số lượng lớn thiết bị quân sự trong một thời gian ngắn tiếp viện cho các khu vực kia và chỉ có Utah mới đáp ứng được nhu cầu đó. 


Ngày nay, trên bãi biển còn sót lại khá nhiều di tích giúp ta phần nào mường tượng được sự kiên cố trong phòng thủ của quân Đức. Họ thiết lập hàng loạt dây thép có gai để ngăn không cho lan can chở lính của đối phương đổ bộ. Tiếp đến là những bức tường bằng bê tông cao tầm 1m80 mục đích là để chặn bước tiến nhanh của xe bọc thép. Nhưng với chiến thuật hợp lý của quân liên minh, họ cho máy bay dải thảm để phá hủy những chướng ngại vật này và giúp cho kế hoạch Utah thành công.

Trái ngược với Omaha Beach, quân Mỹ ở Utah Beach không gặp quá nhiều khó khăn trong việc đổ bộ do lực lượng phòng ngự của Đức bị làm yếu đi sau những đợt oanh tạc của máy bay
quân liên minh ồ ạt đổ bộ lên Utah Beach cộng theo hàng ngàn tấn trang thiết bị tiếp viện cho các khu vực lân cận
Utah Beach ngày nay trở nên thành bình. Những vết hằn do bánh xe tăng chạy qua đã tan biến theo thời gian và nay là những đụn cát mịn
Hàng phòng ngự Utah bị xuyên thủng, 20 .000 lính thủy đánh bộ Mỹ cùng 1720 xe thiết giáp cùng lúc đổ bộ tại đây và Utah trở thành một bàn đạp cực kỳ quan trọng về mặt hậu cần và tiếp tế trong những cuộc giáp chiến tiếp theo của quân liên minh trong đất liền.

Chỉ thiệt hại không quá 100 binh lính, một đài tưởng niệm cũng được dựng lên để tưởng nhớ chiến công của họ


Sunday 24 June 2012


Tôi nghĩ chắc nhiều người nghe danh thành phố cảng mác-xây rồi (tiếng pháp viết là Marseilles). Bác Hồ nhà mình đã đặt chân đến đó đầu tiên sau khi đi tàu từ Việt Nam. Ở đây, tôi không nói đến lịch sử và cũng chẳng nói đến Marseilles nhiều. Nói thật nhé, tôi ở Pháp 8 năm rồi, thăm biết bao nhiêu thành phố nên thực sự vẻ đẹp của Marseilles không thể khiến tôi ở lại đó quá 2 ngày. Marseilles thực ra chỉ là một điểm dừng chân tạm thời để tôi khám phá địa danh thiên nhiên khác, rất nổi tiếng trong con mắt dân du lịch bụi Châu Âu nhưng lại vô danh ở Việt Nam : les calanques. Và tất nhiên, phương châm mà tôi đã đặt ra ngay từ đầu khi thành lập blog này là giới thiệu những vẻ đẹp tiềm ẩn không mấy người Việt Nam biết đến. Tôi không muốn những bài viết của mình lại lặp lại so với các bài viết của các phượt tử trên các diễn đàn (phuot.vn , phuot.net, hoi du lich…).

 Vậy calanques là gì ? Đây là một hiện tượng địa chất xảy ra cách đây hàng triệu năm và tạo ra các thung lũng nhỏ áp sát bờ biển, hai bên sườn thung lũng rất sâu,hẹp và dốc. Về mặt hình dạng bề ngoài thì các calanques này khá giống với fjord của Bắc Âu (xem bài khám phá quần đảo Lofoten).  Điểm đặc trưng của các calanque là bề mặt đá vôi hóa thạch của vách núi, có thâm niên hàng chục triệu năm. 


Các calanques này thực ra không chỉ có ở miền nam nước Pháp mà còn ở rất nhiều quốc gia nằm ven rìa Địa Trung Hải (Ý, Croatia, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha, …) nhưng các calanques của Pháp và đặc biệt là gần Marseilles thì được quy hoạch tốt hơn cả và được tạo thành rừng quốc gia với các đường đi trekking được chỉ dẫn hiệu quả. Bản thân tôi cũng đã đi qua nhiều danh lam thiên nhiên quanh địa Trung Hải có vẻ đẹp tương tự như calanque nhưng chỉ có của Pháp là được Unesco công nhận là di sản thế giới, có lẽ vì quy mô chiều dài của nó (hơn 30km)

Dọc theo bờ biển gần Marseilles là hơn 30km calanques nhưng không thể nào đi một mạch trong một ngày được vì có những đoạn rất khó leo trèo và đòi hỏi du khách phải là dạng cứng cựa trong lĩnh vực du lịch mạo hiểm và tất nhiên là phải trâu bò một chút. Thêm nữa, đi trekking một mình ở những vùng như thế này thì đòi hỏi phải biết cách đọc bản đồ trekking và xác định phương hướng tốt. Nếu không có 2 khả năng này thì chắc là ngồi khóc. 

bản đồ trekking khác hẳn bản đồ thành phố với nhiều ký tự chuyên ngành. Nếu bạn không biết đọc bản đồ kiểu này thì đừng nghĩ đến chuyện đi trekking một mình
ngoài ra, bạn cần phải con mắt nhạy bén, phát hiện ra các dấu chỉ dẫn đường đi, thường được đánh dấu bằng sơn trên vách đá hoặc thân cây
 Một điểm khó khăn mà tôi gặp phải, đó là cần phải có ôtô  cá nhân thì mới chủ động trong việc đi lại (tôi không có bằng lái). Phương tiện duy nhất có thể dùng được là xe bus nhưng mà tuyến xe bus đến được calanques thì không nhiều. Chính vì thế, tôi phải phân chia cuộc khám phá calanques ra làm 2 ngày. Mỗi ngày tôi dùng xe bus đến một điểm xuất phát và thăm một khúc đoạn rồi đến chiều quay lại Marseilles để hôm sau lại dùng xe bus đến một điểm khác . Vì calanques rất nổi danh trong con mắt dân Pháp nên họ hay đến đây trekking vào mùa hè và đặc biệt là vào cuối tuần. Chính vì lý do đó, tôi phải chọn đến Marseilles vào cuối tháng 4 và vào trong tuần. Tha hồ mà một mình khám phá calanques ! 

Điểm xuất phát đầu tiên của tôi là thị trấn Cassis cách Marseilles 30km về phía đông và hoàn toàn có thể bắt xe bus để đến đó. Từ thị trấn này, tôi đi dọc theo bờ biển và đến calanques đầu tiên có tên là Port Miou. Đây là điểm calanque duy nhất là người ta có thể dùng xe ô tô đến. Sau điểm này là địa phận của công viên quốc gia và du khách chỉ được phép đi bộ. Oái oăm hơn nữa là ở đây cấm không cho cắm lều ngủ qua đêm trong công viên, thế nên buộc phải thăm calanque trong 1 ngày rồi nhanh chóng quay về đại bản doanh ở Marseilles vào buổi chiều. 


 À quên, cũng phải nói thêm là khu vực công viên quốc gia này hay gặp hỏa hoạn vào mùa hè nên không phải calanque nào cũng được cho phép đặt chân đến. Trước hôm tôi đi lại phải hỏi hội tourist office để xem calanque nào được phép thăm. Mà hỏi hội này là phải bằng tiếng Pháp, đồng chí nào mà một chữ bẻ đôi không biết thì miễn đến đây. 


Sau calanque Port Miou là calanque Port Pin, nơi có một bãi biển nhỏ rất đẹp. Màu nước turquoise trong vắt khiến tôi cảm thấy cần phải cởi bỏ hết đồ nghề trekking và ngâm mình cho mát. Tại sao gọi là Pin ? Bởi vì ở đây lốm đốm các cây thông mọc trên bề mặt đá vôi của calanque.  


Điểm tiếp theo, calanque En Vau, theo tôi, là calanque đẹp nhất trong tất cả nhờ vào vực thẳm rất cao và đây cũng là điểm calanque đòi hỏi thể lực cao nhất. Nếu như có một thiên đường hạ giới thì có lẽ En Vau là một trong số đó. 


Những vực thẳm sâu hoắm như những bức tường vôi trắng khổng lồ ngụp lặn thẳng vào làn nước turquoise trong suốt. Và rồi sau đó, một bãi biển nhỏ trốn sâu trong hẻm vực, đánh dấu điểm dừng chân cuối cùng của tôi trong ngày đầu tiên. 

chiều ngược lại, tôi không đi dọc theo bờ biển nữa mà lại đi sâu hơn vào đất liền, lần theo những nẻo đường núi treo leo
 Sau đó, tôi buộc phải dành thời gian quay lại thị trấn Cassis để còn kịp bắt chuyến xe bus cuối cùng quay trở lại Marseilles. Nhưng thay vì lại phải sử dụng con đường cũ để quay lại, tôi sử dụng những con đường núi đi sâu hơn vào đất liền. 


Chỉ dài có 5km nhưng tôi cũng phải mất hơn 2 tiếng mới quay lại được Cassis, một phần là do đường núi mấp mô phần khác là do trời nóng quá.   

Ngày thứ 2 , tôi lại tiếp tục bắt xe bus để khám phá một khúc khác, lần này thì gần Marseilles hơn. Với tổng chiều dài là 15km đi bộ, tôi phải mất gần 7 tiếng hùng hục thì mới hoàn thành xong nghĩa vụ. 


 Ngày thứ 2 này thực sự tốn nhiều năng lượng hơn hôm đầu vì một số đoạn lên xuống gập ghềnh khá là nguy hiểm và đôi khi phải đòi hỏi dụng cụ leo núi.  Leo lên đỉnh đồi Sugiton là chướng ngại vật đầu tiên, rất vất vả. 

đường lên đỉnh Sugiton có nhiều đoạn quanh co và rất hẹp, chỉ rộng khoảng nửa mét và các bước chân rất trơn đòi hỏi phải rất cẩn thận
Tại những nơi như thế này, thường chỉ có dân yêu du lịch mạo hiểm hoặc là người địa phương. Hôm tôi đi thì có gặp 2 nhóm người Pháp, cũng từ các tỉnh lân cận đến

 Có những chỗ rất hẹp và được trang bị sẵn thang leo và dây xích sắt. Tuy nhiên cũng phải sử dụng găng tay và giầy  đặc biệt cho leo núi. Có lẽ vì nguy hiểm như vậy nên ít người ló mặt ở khu này hơn. 

Chỉ có những ai đủ dũng cảm thì mới thử sức với calanque Sugiton, trong đó có một đồng chí bốn mắt Việt Nam. Nhưng khi lên được đỉnh rồi thì miễn chê. Tại đây, có thể có được cái nhìn toàn cảnh dải calanque quanh co dọc theo bờ biển. 

 Thất tuyệt vời ! Những tảng đá vôi trắng muốt pha lẫn với màu cây thông và màu xanh turquoise của biển. 
Sau calanque Sugiton là calanque Morgiou, có lẽ là lớn nhất trong khu vực. Sườn thung lũng khá là sâu. Thi trấn Morgiou nằm tận dưới đáy thung lũng rất đặc trưng kiểu cách Địa Trung Hải bởi đây đã từng là làng chài cá. 



Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống