Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Showing posts with label Thổ Nhĩ Kỳ. Show all posts
Showing posts with label Thổ Nhĩ Kỳ. Show all posts

Tuesday 15 January 2013

Hành trình khám phá vùng Cappadocia : Phần 1 | Phần 2 | Phần 3 | Phần 4

Monday 8 October 2012


Nếu như nhìn trên bản đồ, vùng núi Nemrut nằm rất xa vùng Cappadocia và trên lý thuyết không được liệt vào những kỳ quan trực thuộc Cappadocia. Tuy nhiên, hầu như bất cứ công ty du lịch nào cũng bán tour 2 ngày 1 đêm đến đây vì giao thông thuận tiện. Ngay vào sáng hôm sau, tôi đến điểm hẹn với cậu hướng dẫn viên và chúng tôi tiến hành một cuộc viễn chinh về phía đông. Tuyến đường mà chúng tôi đi thuộc hệ thống con đường tơ lụa xưa kia.  Ngày nay, không còn nhiều di tích liên quan đế một thời hoàng kim của con đường huyền thoại này, chỉ còn lại đúng một caravanserai có tên là Karatay, một kiểu trạm dừng chân đặc trưng kiểu Thổ vào những thế kỷ 13-14. Vậy cụ thể caravanserai là gì ? Để giải thích được cái này, nhất thiết phải nói đến lịch sử phát triển của con đường tơ lụa. 


 Không cần đi quá sâu vào chi tiết, con đường tơ lụa là một hệ thống các con đường giao lưu thương mại nối dài suốt từ Châu Á (Trung Quốc, Ấn Độ) thông qua Trung Đông (Irak, Iran, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ, Jordan) để đến vùng Địa Trung Hải. Do Thổ Nhĩ Kỳ nằm ngay chính giữa trung  gian giữa Châu Âu và Châu Á nên hệ thống các con đường thương mại của quốc gia này chiếm vị trí tối quan trọng. Nói là “tơ lụa” nhưng mặt hàng trao đổi giữa Đông và Tây không chỉ có tơ lụa mà còn vô số các mặt hàng khác nữa. Để có thể vận chuyển các mặt hàng xa xỉ từ Trung Quốc xa xôi hàng vạn dặm để đến được Địa Trung Hải là một quãng đường rất dài và các thương nhân nhất thiết phải chia cắt thành nhiều đoạn đường nhỏ để nghỉ ngơi. Nhưng trên những quãng đường nghỉ ngơi đó thì họ gặp biết bao trắc trở và nguy hiểm, không gặp bọn trấn lột cướp bóc thì cũng gặp ốm đau dọc đường. Và đó là lý do vì sao cần phải có một hệ thống các trạm nghỉ ngơi dọc đường kiểu như caravanserail. Hệ thống những trạm nghỉ này phát triển rất phồn thịnh từ thế kỷ 10 sau CN.

 Để đảm bảo sự an toàn cao nhất, các thương nhân đi qua Trung Đông thường đi theo phái đoàn. Thêm nữa, họ luôn vận chuyển bằng lạc đà, một loài vật rất sẵn ở Trung Đông. Trong tiếng ả rập, việc vận chuyển bằng lạc đà được gọi là kervan, chuyển hóa thành tiếng Anh có nghĩa là “caravan”. Như vậy, caravanserailcó thể dịch là nơi tạm chứa lạc đà qua đêm vì bản thân từ serail trong tiếng Thổ là cung điện. Khi mà nhu cầu an ninh trên các tuyến đường tơ lụa ngày càng cao thì việc bảo vệ các caravanserail là việc tất yếu. Do đó, từ chỉ là một nơi dừng chân đơn giản, một số caravanserail được nâng cấp thành một pháo đài thực thụ và hệ thống tường thành phòng thủ khá kiên cố. Và do cả vùng Trung Đông thời trung cổ là các lãnh thổ Hồi giáo nên caravanserail cũng kiêm luôn là nơi cầu nguyện dành cho các thương nhân quá giang.  


Đạo Hồi có ảnh hưởng nhất định đến cấu trúc của một caravanserail. Cấu tạo theo hình vuông, nhất thiết phải có một khu sảnh ngoài trời ngay ở chính giữa, giống như cấu trúc của các nhà thờ Hồi giáo mà ta thường gặp. Thông thường ở giữa sảnh có một giếng nước nhỏ để các tín đồ rửa ráy trước khi vào cầu nguyện nhưng cái này thì ngày nay không còn nữa. Xung quanh sảnh trung tâm là hệ thống các phòng ngủ, kho chứa hàng, nhà tắm. Do vùng Cappadocia có nguồn gốc núi lửa nên các khối đá dùng để xây dựng tường bao bọc caravanserail Karatay cũng được mang từ đó. 


Trên bề mặt tường, có khá nhiều hình ảnh mang tính biểu tượng đặc trưng cho xuất xứ của các thương nhân đã từng đặt chân đến đây. Con voi là biểu tượng cho Trung Quốc và điều đó chứng tỏ thương nhân Trung Quốc đã từng đặt chân đến đây vào khoảng thế kỷ 13-14 


Theo các nhà sử học, xưa kia hệ thống các caravanserail trên lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ dày đặc. Trung bình cứ 40-50km là lại có một trạm caravanserail và các thương nhân phải mất gần một ngày di chuyển bằng lạc đà từ trạm này đến trạm khác. Nhưng khi người Châu Âu tìm ra Châu Mỹ, họ tìm đường những con đường khác có thể đến được Trung Quốc hoặc Ấn Độ. Vì nguyên nhân đó, con đường tơ lụa bằng đường bộ không được trọng dụng nữa và các trạm caravanserail mất đi tầm quan trọng của chúng. Ngay từ thế kỷ 15 sau CN, phần lớn không được sử dụng nữa và rơi vào quên lãng. Karatay là một trong những số ít di sản caravanserail nguyên vẹn nhất, đặc biệt là với chiếc cổng vào đồ sộ và nghệ thuật trạm khắc trên đá rất tinh vi. Caravanserail Karatay xưa kia là một nút giao quan trọng nối trung gian giữa Irak, Iran phía đông và Cappadocia, và tất nhiên khi đến được Cappadocia thì có thể đến được Istanbul hoặc đi sát bờ biển Địa Trung Hải. 

Trên bản đồ Thổ Nhĩ Kỳ, người ta ghi là Karatayhan. Vậy chữ han thêm vào phía sau có nghĩa là gì? Cái này thì lại phải sử dụng lịch sử để giải thích. Một caravanserail bình thường thì chỉ danh cho những người theo đạo Hồi. Trong khi đó, han là hệ thống các gian phòng xây bổ sung thêm bên cạnh caravanserail để đón tiếp những thương nhân không theo đạo Hồi. Chỉ có những caravanserail nằm ở vị trí nút giao quan trọng như Karatay thì mới có thể đạt đến tầm cỡ quốc tể để xây thêm những gian phòng như vậy. Nhìn những gì trơ trọi ngày nay, thật khó có thể tưởng tượng được rằng Kataray trước kia lại là một trung tâm thương mại sầm uất. Rời Karatay, chúng tôi nghỉ qua đêm tại ngôi làng Adiyaman cách đó không xa. 

Ngày hôm sau là một buổi sáng khá bận rộn của tôi vì phải dậy rất sớm để có thể đón bình minh trên đỉnh núi Nemrut và tham quan một di tích khiến cho ngọn núi này trở lên nổi tiếng : lăng tẩm của vua Antichus Theos.


Để lên đến đỉnh núi ở độ cao hơn 2000m, không quá khó cho chúng tôi vì có đường rải nhựa và chỉ việc đi ô tô lên tầm 1900m rồi từ đó đi bộ tầm 30 phút để leo lên đỉnh. Sau 30 phút, chúng tôi lên được đỉnh núi Nemrut vào đúng lúc mặt trời mọc. Những ánh nắng đầu tiên rọi vào quần thế lăng mộ của vua Antichus Theos.


Được công nhận là di sản văn hóa thế giới bởi Unesco, đặc thù của quần thể lăng mộ ở đây là những pho tượng cỡ lớn (tầm 8-9m) được đúc mô phỏng theo khuôn mặt của vua Antichus Theos và những vị thần Hy Lạp cũng như Ba Tư, tất cả được làm vào thế kỷ thứ nhất trước CN. Ngủ quên trong vòng gần 2000 năm, một nhà kiến trúc sư người Đức tình cờ khám phả ra địa danh này vào cuối thế kỷ 19 khi đang thực hiện nhiệm vụ mở đường giao thông. Và thế là những bí mật đằng sau các pho tượng khổng lồ được đưa ra ánh sáng vào giữa thế kỷ 20. 


 Theo các nhà khảo cổ học, vị vua Antichus là vua của xứ Commagene, một vương quốc chư hầu của đế chế La Mã. Vì chịu nhiều ảnh hưởng của nền văn hóa Hy Lạp cổ đại, tất cả các vị vua của xứ này sau khi chết đều được tôn làm thần thánh. Đó là lý do vì sao lại có tượng của vua Antichus được xếp ngang hàng với các vị thần khác (thần mặt trời, thần zớt, thần chiến tranh…). 


Vương quốc Commagene xưa kia là một vùng đất màu mỡ do có một nhánh của con sông Euphrate chảy qua (con sông chính bắt nguồn từ bên Irak). Nhưng những gì còn lại 2000 năm sau đó chỉ là một vùng đất cằn cỗi với ánh nắng trói trang. Nguồn nước gần nhất cũng cách đây tầm 40km và đó là một công trình đập thủy điện Ataturk. Con sông Euphrate đã được chỉnh phủ Thổ khống chế và quy hoạch. Tại đây, không còn nước, chỉ còn lại những thảo nguyên khô cằn và lác đác vài đàn dê gầy rơ xương. 


Trong quá trình đi ôtô xuống núi, tôi thăm được một số di tích lịch sử khá thú vị cho phép tôi hiểu rộng hơn về đế chế La Mã. Thật vậy, tôi luôn biết rằng biên giới La Mã xưa kia thật là rộng lớn với rất nhiều đòn lính cũng như thị trấn được xây dựng ở những biên cương xa xôi, nơi tận cùng của đế chế. Nếu như ở bên Syria tôi được biết đến thành phố Palmyre thì ở Thổ Nhĩ Kỳ, tôi được biết đến đỉnh núi Nemrut. Tại đây, tôi bắt gặp một cột đá với tượng một con đại bàng nằm trên đỉnh, có tên latinh là Karakus Tumulus

bộ phim này miêu tả rất rõ tầm quan trọng của việc giữ được con đại bàng bằng vàng, được coi như lá cờ của mỗi một quân đoàn lê dương La Mã và cũng là uy quyền của Rome
 Đây đích thực là di sản 100% La Mã. Đại bàng là biểu tượng của chiến thắng cũng như quyền lực quân sự của người La Mã. Chỉ cần xem các bộ phim Holywood như « The 9th legion », « the centurion » hay « Eagle » cũng đủ thấy tầm cuan trọng của sự có mặt của con chim linh thiêng này. Nó được cắm ở đâu tức là Rome có mặt ở đó. Như vậy, có thể nói rằng vương quốc Commagene với tư cách là chư hầu của đế chế La Mã đã chịu ít nhiều ảnh hưởng văn hóa và kiến trúc của nền văn minh này. Đến được đỉnh núi Nemrut, tôi có một cảm giác rất khó tả, cảm giác của một số hiếm người may mắn tham quan được cái gọi là biên giới tận cùng của nền văn minh La Mã. Rời núi Nemrut, chúng tôi chuyển hướng về phía tây để hướng tới một địa danh cũng thuộc dạng sừng sỏ về thâm niên lịch sử : Harran. Nếu như nhìn lại hành trình suốt từ đầu đến giờ, tôi thấy có một điểm rât thú vị : tôi có cảm giác như càng đi về sau thì tôi càng đi ngược lại chiều kim đồng hồ của lịch sử. Nếu như vùng Cappadocia chủ yếu liên quan đến thế kỷ 10-13 thì núi Nemrut liên quan đến thời kỳ La Mã. Và đến Harran, tôi quay ngược hẳn đến năm 2000 trước CN! Vậy địa danh Harran vào thời điểm ấy hình thù giống cái gì? 


Đây là một trong những thị trấn thương mại phát triển sớm nhất trong lịch sử con người tại vùng Trung Đông. Có thể nói là xấp xỉ nền văn minh Ai Cập. Nhiều người còn cho rằng Harran chính là nơi Abraham (một nhân vật trong truyền thuyết kinh thánh Do Thái và là ông tổ của dân tộc Israel) sinh sống trước khi di chuyển lập nghiệp ở lãnh thổ Israel bây giờ. Theo tiếng Syria cổ, Harran có xuất xứ từ harranu có nghĩa là “con đường”, có vẻ như tương ứng với vị trí địa lý của nó bởi Harran nằm trên trục đường dẫn từ xứ sở Ba Tư sang Thổ Nhĩ Kỳ. Harran ngay từ thế kỷ 16 trước CN đã là thủ đô của một vương quốc hùng mạnh và là đối thủ đáng gờm của nền văn minh Ai Cập nhưng sau đó thì suy yếu và rơi vào tay nhiều vương quốc có thế lực xung quanh. 


Xung quanh thị trấn Harran nguyên thủy là hệ thống tường thành phòng thủ với tổng chiều dài khoảng 4km và cao khoảng 12m. Điều này cho thấy rằng xưa kia Harran phải có một tầm quan trọng như thế nào thì mới phải xây hệ thống tường thành như vậy. Những cuộc khai quật gần đây cho thấy Harran được quy hoạch theo kiểu hình ê-líp với 6 cổng thành và tường thành được xây bằng đá. Và  có thêm cả một hệ thống kênh hào phòng thủ xung quanh nữa. Đó là câu chuyện của cách đây vài ngàn năm. 


Đến thế kỷ 12 sau CN, một số tài liệu do các thương nhân ảrập kể lại rằng Harran cũng như môi trường xung quanh vẫn là cả một lưu vực màu mỡ, nhiều cây cối xanh tươi và hệ thống kênh ngạch chằng chịt. Nhưng hạn hán liên miên đã làm thay đổi mọi thứ. Ngày nay, khí hậu khô cằn của vùng Trung Đông đã làm cho nguồn nước dồi dào xưa kia biến mất, cỏ cây xanh tươi không còn nữa mà thay vào đó là một vùng đất cằn cỗi. Trong số 4km tường thành thì chỉ còn lại 1km ở tình trạng phế tích. 


Khi mà người Ảrập tiến hành cuộc chinh phạt truyền bá đạo Hồi vào thế kỷ thứ 7 sau CN, Harran nằm trong số những nạn nhân đầu tiên. Các nhà sử học cho rằng nhà thờ Hồi giáo ở đây có thể là công trình sớm nhất trong lịch sử Trung Đông, được xây dựng vào thế kỷ 8 sau CN. Và thậm chí, những giả thuyết gần nhất còn khẳng định rằng đây là nơi có trường đại học Hồi giáo đầu tiên trên thế giới. Vào giai đoạn thế kỷ 9-12 sau CN, Harran là trung tâm nghiên cứu đạo Hồi cũng như khoa học lớn nhất Trung Đông. Thế nhưng cuộc chinh phạt của người Mông Cổ vào thế kỷ 13 dưới thời Thành Cát Tư Hãn đã hủy diệt tất cả những gì nằm trên đườn chúng đi qua, trong đó có Harran. Phần lớn các công trình kiến trúc bị phá sập và trường đại học Hồi giáo cũng như nhà thờ Hồi giáo chịu chung số phận. 


Trên phương diện kiến trúc, Harran ngày nay nổi tiếng với các ngôi nhà hình nón xây từ đất nung và rơm. Tất cả đều được xây vào đầu thế kỷ 19 sau CN, trên nền móng là những phế tích của Harran nguyên thủy 4000 năm trước. 


Ngày nay thì không còn nhiều người sinh sống trong những ngôi nhà này nữa, họ cho xây những căn nhà cấp bốn theo chiều hướng hiện đại và được lắp đặt hệ thống điện nước. Cá nhân tôi thì thấy mấy ngôi nhà đó cực xấu, làm mất cảnh quan chung của Harran những cũng hiểu rằng người dân cần điện nước như một nhu cầu tất yếu của cuộc sống.



 Thêm nữa, việc ở lại trong những ngôi nhà hình nón truyền thống không phải là dễ dàng vì chi phí trùng tu sửa chữa theo đúng cách truyền thống rất đắt đỏ. Đâu phải ai cũng có thể tìm được đất nung trộn với rơm để lấp các vết nứt lỗ hổng. Dùng mái lợp tôn và xi măng thì vừa rẻ lại vừa sẵn, tội gì không xây một ngôi nhà mới cho xong việc. Tình trạng này thì phổ biến ở nhiều nơi tôi đến, ở Marốc, Ai Cập hay chính làng cổ Đường Lâm hay Cự Đà ở Việt Nam.


Rời xa thị trấn Harran, tôi tiếp tục hành trình đi ngược thời gian với việc khám phá thị trấn Sanliurfa, cách Harran tầm 50km. Người địa phương thì chỉ gọi tắt là Urfa và trong thời kỳ thập tự chinh thế kỷ 12 sau CN, nó còn có tên là Edessa, một trong 4 vương quốc thiên chúa giáo ngay giữa lòng Trung Đông đầy ắp Hồi giáo. Nhưng hãy trở về lâu hơn, ở thời điểm 2000 năm trước CN, Sanliurfa được cho là nơi sinh ra của Abraham, ông tổ của dân tộc Do Thái theo truyền thuyết kinh thánh của họ. Truyền thuyết kể rằng có một vị thần tên là Nemrod mơ thấy một ngày nào đó mình sẽ bị lật đổ bởi một nhà tiên tri sắp sửa sinh ra. Hoảng sợ, vị thần này truy tìm và tiêu diệt tất cả các phụ nữ đang mang thai hoặc những tràng trai trẻ. Người mẹ đẻ của Abraham cất giấu con trai trong một cái hang và nuôi dưỡng ở trong đó trong một thời gian dài. Khi trưởng thành, Abraham tiến hành một cuộc âm mưu lật đổ Nemrod nhưng không thành công và bị ném từ trên vực thẳm. Và để chắc ăn, Nemrod còn chuẩn bị cả lửa và gỗ ở dưới đó để khi Abraham ngã xuống thì sẽ bị đốt thiêu rụi. Nhưng lạ thay, thượng đế đã cứu sống ông, biến lửa thành nước suối và gỗ thành cá. Điều đó lý giải tại sao ngày nay tại Sanliurfa có một con sông chảy uốn khúc quanh cái động được cho là nơi sinh ra Abraham. Và thêm nữa, có rất nhiều cá chép ở dưới sông. 


Trước năm 1963, thị trấn chỉ có tên Urfa. Nhưng sau đó, người Thổ bổ sung thêm chữ Sanli, trong tiếng Thổ có nghĩa là “huy hoàng”. Sanliufa được cho là nơi cực kỳ linh thiêng bởi những truyền thuyết nói trên và trở thành một trong những địa danh hành hương nổi tiếng nhất Trung Đông. Một điểm khá thú vị mà tôi nhận thấy là xuyên suốt các giai đoạn lịch sử, Sanliurfa luôn là một địa danh được sùng bái bởi cả 3 tôn giáo : Do Thái, Thiên Chúa và Hồi. Nếu như đây là vùng đất sinh ra ông tổ của đạo Do Thái, nó cũng là nơi sinh sống của những cộng đồng Thiên Chúa giáo đầu tiên dưới thời La Mã và cuối cùng đây là một địa phận quan trọng của Hồi giáo sau khi ngưởi ảrập xâm chiếm thị trấn năm 639. 


Ngày nay, mặc dù thị trấn Saniurfa nói riêng và Thổ Nhĩ Kỳ nói chung là vùng đất Hồi giáo, không ai có thể phủ nhận đây là  vùng đất của lòng tin tôn giáo, không phân biệt đó là đạo gì. Kể từ năm 2007, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ kết hợp với trường đại học Havard của Mỹ để xay dựng một hành trình hành hương dành cho những ai sùng bái Abraham (chủ yếu là người Thiên chúa giáo và Do Thái). Hành trình này đi từ Harran, qua Sanliurfa, qua biên giới Syria để đến Alep, Damascus, qua biên giới Jordan để đến Amman rồi đâm xuống Israel để tiến thẳng đến Jerusalem. Người ta đặt cho nó cái tên “hành trình của Abraham” bới nó mô phỏng đúng theo các bước đi trong suốt cuộc đời của ông. 


Rời Sanliurfa, chúng tôi quay trở về Goreme và kết thúc hành trình quay ngược chiều kim đồng hồ lịch sử. Và khi đến Goreme rồi cũng đồng nghĩa với việc kết thúc hành trình khám phá vùng Cappadocia của tôi. Chính nhờ những kiến thức rất phong phú tích lũy được trong chuyến đi này mà tôi đã có những nền tảng vững chắc để tìm hiểu sâu hơn lịch sử con đường tơ lụa cũng như các giai đoạn lịch  sử khác (La Mã, thập tự chinh) tại các quốc gia lân cận như Syria, Jordan, Ai Cập. Hơn một tuần ở Cappadocia là một phân khúc trong chuyến đi phượt hơn một tháng của tôi ở Trung Đông. Sau khi trở về Goreme, tôi bắt một chuyến xe ô tô liên tuyến để vượt biên giới sang đất nước Syria với những ngạc nhiên mới.

Có thể các bạn sẽ hỏi tại sao lại làm một lèo cả 4 quốc gia Trung Đông (Thổ Nhĩ Kỳ, Syria, Jordan, Ai Cập)? Bởi vì đó là phong cách du lịch của tôi. Đối với tôi, để tìm hiểu một cách đúng mực một quốc gia nào đó thì phải so sánh quan hệ của nó với môi trường xung quanh. Hiểu Thổ Nhĩ Kỳ thì phải hiểu cả quan hệ của đất nước này với Syria hay các quốc gia khác trên phương diện lịch sử. Cả 4 quốc gia kể trên đều là những vùng đất cực kỳ quan trọng trong lịch sử phát triển của loài người ở Trung Đông. Hiểu được cả một khối như thế là chìa khóa giúp ta hiểu cả Trung Đông, một vùng đất theo tôi là chịu nhiều thiệt thòi về mặt hình ảnh bời những xung đột liên miên về chính trị trong suốt thế kỷ qua. Tôi quyết định xẻ dọc Trung Đông đê minh chứng cho một điều mà tôi luôn tâm niệm : không có quốc gia nào xấu hay tốt. Tất cả chỉ là do cách sắp đặt hay nhìn nhận ở một khía cạnh nào đó. Hệ thống truyền thông như tivi, báo và đặc biệt là dưới con mắt của phương Tây đã phần nào làm biến dạng bộ mặt thật của Trung Đông. Và để tìm ra được bộ mặt thật đó, tôi vác balô đi thẳng vảo cái được gọi là hang ổ của đạo Hồi. Tôi tự kiểm điểm bản thân đã có những thành kiến không tốt về các quốc gia đạo Hồi nhưng chuyến đi này đã giúp tôi hiểu rõ hơn về đạo này và từ đó trở nên vị tha hơn đối với nhiều phong tục tập quán được cho là ấu trĩ, bảo thủ  và bạo lực.

Wednesday 3 October 2012



Ngay bên cạnh Red Valley là Pasabag Valley và thông thường thì người ta ngủ đêm tại một ngôi làng tại đó để hôm sau đi khám phá tiếp. Tuy nhiên, tôi lại chọn quay về Goreme để rồi hôm sau lại mất công quốc bộ 5km quay lại. Đúng là dại. Pasabag là một trong những nơi tiêu biểu cho phong cảnh của Cappadocia với những cột đá fairy chimney nằm giữa những thửa ruộng nho. Cũng chính vì sự hiện diện của nho làm rượu mà nó có tên là Pasabag, trong tiếng Thổ có nghĩa là “vườn nho của Pacha”.   


Ngoài tên Pasabag Valley, thung lũng này còn có tên Monks Valley. Tại sao lại cái tên này?  Có thể là do các nhóm cột đá có dáng vẻ giống như những nhà tu sĩ mặc áo chụp mũ thời trung cổ nên người địa phương mới đặt tên như vậy. Thêm nữa, khu vực xung quanh Pasabag xưa kia là nơi có một cộng đồng thiên chúa giáo sinh sống và phát triển rất mạnh.  Cũng giống như ở Goreme, ở đây có rất nhiều fairy chimney nhưng đặc thù của chúng là có hình dáng giống như những cây nấm khổng lồ và tất cả đều được người dân đào khoét bên trong để tạo thành nhà ở. Ngày nay, không còn ai ở đây nữa nên tất cả đều bị bỏ hoang. 


Từ thung lũng Pasabag, chỉ đi thêm khoảng 1km nữa là tôi đến được Zelve Valley, nổi tiếng với quần thể các tu viện đào sâu trong núi đá. Nhìn từ xa, Zelve Valley là những vách đá có hình giống như vó ngựa với hệ thống các bậc thang và vòm khoét sâu bên trong. Xưa kia, đây là nơi cộng đồng thiên chúa giáo sinh sống và nó mạnh đến mức Zelve là cả một thị trấn phồn thịnh chứ không phải là một làng mạc nghèo nàn như bây giờ. Thực ra thì cấu tạo các tu viện này cũng không có nhiều khác biệt so với các tu viện mà tôi đã thăm ở Goreme Open Air Museum nhưng nó giúp tôi mường tượng ra số lượng tu viện ở đây nhiều đến chừng nào. Thực đúng là xứ sở ngàn lẻ một tu viện! Khu vực này cũng nằm ngay gần một con đường dải nhựa nên hiển nhiên xe du lịch sẽ ùn ùn kéo đến giống như ở Goreme hay Ushisar. Lúc tôi đến đây thì cũng rơi vào tầm giữa trưa, chắc là lúc các đoàn du lịch đi ăn trưa nên không có nhiều người đến thăm. 

dưới cái nắng 38°C, trước khi  nhảy vào khám phá Zelve Valley, tôi tạm ngồi nghỉ nhâm nhi một ly trà Thổ

 Tôi cảm thấy thán phục sự sùng đạo của những người tu hành nơi đây. Cả cuộc đời của họ chỉ sống thu hẹp trong cộng đồng, ngày nào cũng lặp đi lặp lại mấy động tác ăn,ngủ,trồng trọt và cầu nguyện cho đến khi qua đời.  Và điều đó làm tôi thấu hiểu hơn được phần nào các bài học trên giảng đường đại học. Thật vậy, không giấu gì các bạn, tôi theo học khoa học xã hội nhân văn bên Pháp trong vòng 2 năm học đại cương. Trong chương trình học có rất nhiều giờ học liên quan đến lịch sử phát triển một số tôn giáo chính trong đó có thiên chúa giáo. Tôi được học sơ qua sự hình thành và phát triển của các tu viện cũng như các cộng đồng sống tuân theo một dòng Thánh nào đó và được biết qua sự khổ công tu luyện của họ. Nhưng trăm nghe không bằng một thấy, hành trình khám phá của tôi ở Cappadocia và sau này ở Syria và Ai Cập đã giúp tôi tích lũy thêm những hiểu biết phong phú hơn về thiên chúa giáo. 



 Tại quần thế tu viện Zelve, các tu sĩ tu luyện theo dòng thánh Saint Simeon, một vị thánh có đặc trưng là giành cả cuộc đời sống trên một mỏm đá cao chót vót hứng chịu mưa gió ở trên đó như một sự thiêu thân vì đạo. Ừa mà tại sao ông ta phải khổ thế nhỉ ? Ông thánh Simeon này thực ra cũng giống như nhiều tu sĩ ẩn dật khác ở Trung Đông, muốn bắt chước theo chúa Jesus, phải sống khổ thì mới đắc đạo. Noi theo phương pháp tu hành của Saint Simeon, các tu sĩ ở đây cũng tự xây cho mình một gian phòng cầu nguyện bằng cách khoét một lỗ nằm ở đỉnh các cột đá cao chót vót. 

phòng ăn chung của các tu sĩ.

 Thăm các vết tích ở Zelve, tôi chợt nhận ra rằng các bức vẽ bằng màu nước trên bề mặt tường có những vết xước rất đặc biệt được tạo ra từ các vật dụng sắc nhọn . Điều đó làm tôi nhớ lại một số thông tin tôi tìm được trước khi đến Cappadocia. Các vết xước này không phải là do thiên nhiên tạo ra mà là do con người và chính xác hơn, chúng được tạo ra dưới thời Ottoman. 


Vào thời điểm ấy, Ottoman là một đế chế theo đạo Hồi. Tuy rằng những thần dân theo đạo thiên chúa giáo được tự do tín ngưỡng, vẫn có một số đạo luật của đạo Hồi được áp đặt. Và tiêu biểu trong số đó là cách thể hiện tôn giáo thông qua nghệ thuật vẽ tranh. Theo tín ngưỡng của đạo Hồi, những con mắt là biểu tượng cho con mắt của quỷ sa tăng, không phải là điều lành. Thêm nữa, người hồi giáo rất sợ rằng khi người thường nhìn thẳng vào mắt của những tác phẩm tranh thì họ sẽ cảm nhận được sự linh thiêng của chúa jesus và sẽ chuyển đi quy theo đạo thiên chúa giáo. Người Hồi giáo sợ con chiên của họ phản đạo đi theo thiên chúa giáo vốn dĩ là một tôn giáo kẻ thù không đội trời chung. Vì thế, nhất thiết phải hủy tất cả những đôi mắt có trên khuôn mặt người trên các bức vẽ thiên chúa giáo. Đó là lý do vì sao tôi thấy các vết xước đều nhằm trúng mặt của chúa jesus hay đức mẹ đồng trinh hay bất cứ khuôn mặt người nào
 


Khi mà đế chế Ottoman tan rã vào đầu thế kỷ 19, cộng đồng thiên chúa giáo ở Zelve nói riêng và Cappadocia nói chung còn chịu thêm vài biến động xấu nữa. Vào năm 1924, sau một hiệp định thống nhất giữa hai người láng giềng Thổ và Hy Lạp, những người theo đạo thiên chúa giáo (được coi là thiểu số ở Thổ) bị ép buộc phải rời khỏi đây, chấm dứt một thời gian dài chung sống trong hòa bình giữa hai cộng đồng thiên chúa giáo và hồi giáo trong khu vực. Bản thân những người dân theo đạo hồi ở đây cũng không thể sống ở Zelve lâu dài. Vào những năm 1950, nguy cơ sói mòn sạt lở đất ngày càng trở nên nghiêm trọng ở Zelve và toàn bộ dân cư phải sơ tán sang khu mới với cái tên Yeni Zelve (Zelve mới). Còn khu Zelve cũ (hay Zelve Valley ngày nay) chỉ còn là một ngôi làng bỏ hoang. 




 Zelve Valley là điểm sáng nhất trong ngày và sau đó, tôi tìm đường quay trở lại Goreme. Trên đường về, tôi đi qua một ngôi làng mang tên Cavusin. Tôi nán lại thăm ngôi làng này một chút vì rất ấn tượng với bức tường đá khổng lồ được sử dụng làm khu cư trú của người dân. Rất độc đáo ! 


Nhìn từ dưới lên, ta có cảm giác như do bị đục khoét nhiều lỗ quá nên bức tường đá dường như sắp sập xuống đến nơi. Và trên thực tế đúng là như vậy. Lo sợ nguy cơ sạt lở đó, người dân địa phương quyết định từ bỏ những ngôi nhà trong các lỗ đó và chuyển xuống xây nhà ngay dưới chân bức tường. 


 Từ Cavusin, có một khúc đường mòn dẫn ra đại lộ rải đường nhựa và tôi cứ men theo con đường đó để trở về Goreme. Chiều dài của con đường này cũng phải tầm 4km và tôi bắt gặp khá nhiều xe du lịch 45 chỗ đi qua, chắc là để đến thung lũng Zelve. Trong lúc đi bộ thì tôi tình cờ thấy một chiếc xe chủ động dừng lại cho tôi đi nhờ. Tốt quá, đang mỏi chân! Hai người lái xe là khách du lịch thuê xe tự lái để khám phá loanh quanh. Sau một hồi nói chuyện, tôi phát hiện ra ngay âm nói tiếng Anh của họ đặc chất Pháp. Và thế là cuộc nói chuyện giữa tôi chuyển từ Anh sang Pháp. Hai nữ du hành gia Pháp cho tôi đỗ xuống giữa trung tâm Goreme. 

Để tổng kết lại khoảng thời gian 5 ngày đầu tiên ở vùng Cappadocia, có thể nói rằng việc khám phá các thung lũng xung quanh Goreme không gặp quá nhiều khó khăn vì khoảng cách cũng chỉ tầm 10km đổ lại và với đôi chân quen đi bộ thì đối với tôi điều đó không có gì là khó. Tuy nhiên, thăm hết những gì lân cận Goreme thì chỉ là 70% của vùng Cappadocia. Tôi bắt đầu lan tỏa ra đi khám phá những vùng xa hơn. Điểm mà tôi muốn đến thăm là thung lũng Ihlara Valley cách Goreme tầm 80km. Vấn đề nan giải ở đây là không có nhiều phương tiện công cộng giúp tôi có thể đến đây. Phương pháp duy nhất là bắt xe khách nhưng để đến được Ihlara Valley thì phải chuyển đến 3 tuyến và mất toi cả ngày. Vì thế, tôi đã không ngần ngại lựa chọn việc mua tour của một công ty du lịch địa phương nằm ở Goreme. Ngay gần bến xe của Goreme là một loạt các văn phòng nhỏ nằm san sát nhau và họ đều offer cùng một loại tour đến Ihlara Valley và giá thì cũng xấp xỉ nhau, tầm 35$. Lịch trình của tour cũng không tệ lắm, ngoài Ihlara Valley thì tôi còn được thăm làng Derinkuryu nằm sâu dưới lòng đất nhưng lí do chính để tôi mua tour này chẳng qua là để bám càng chiếc xe con của họ để có thể đến được Ihlara Valley và đi hiking ở đó. Thế thôi.


Theo như những thông tin tôi thu thập được, làng Derinkuyu rất nổi tiếng và hầu như tất cả các day trip từ Goreme đều phải thăm làng này. Vậy cái gì làm nó nổi tiểng ? Đó là vì đây là cả một hệ thống làng mạc nằm dưới lòng đất giống như địa đạo Củ Chi. Trong tiếng Thổ, derinkuyucó nghĩa là « cái giếng sâu ». Vì sao người ta lại đào sâu xuống lòng đất và sống ẩn dật chui lủi trong những điều kiện khó thở ? Có lẽ phải giải thích nguồn gốc từ những thế kỷ đầu sau khi chúa Jesus qua đời. Vùng Cappadocia vào những thế kỷ 2-3 là nơi có cộng đồng Thiên chúa giáo rất mạnh. 


Tuy nhiên, hồi ấy đạo này bị đế chế La Mã đàn áp thẳng tay do họ lo sợ sự cạnh tranh với lòng tin vào các vị thần thánh Hy-La. Bất cứ môn đồ nào của Thiên chúa giáo bị bắt là đều bị đem đi hành hình. Để trốn tránh sự truy lùng của quân La Mã, những người dân thường theo đạo Thiên Chúa phải đào sâu xuống lòng đất và chế tạo nhà ở dưới đó. Ban đầu thì chỉ lèo tèo một vài hộ gia đình làm hệ thống đường ngầm như vậy nhưng rồi dần dần các hộ liên kết với nhau, đào thêm đường hầm để nối nhà này với nhà kia và dần dần trở thành một thị trấn dưới lòng đất. Khuynh hướng xây dựng cả một hệ thống như vậy được nhất mạnh hơn khi mà người dân Cappadocia phải hứng chịu nhiều đợt tấn công từ các quốc gia ảrập bên cạnh. Thật vậy, vào khoảng thế kỷ thứ 7, rộ lên một làn sóng bành trướng của đạo Hồi với vô số các cuộc tấn công quy mô lớn của người Ảrập. 


Tuy nhiên, Thổ Nhĩ Kỳ nói chung và vùng Cappadocia nói riêng là lãnh thổ của đế chế Byzantine hùng mạnh nên người Ảrập không làm mưa làm gió được giống như ở những khu vực khác tại Bắc Phi. Do đó, trong vòng nhiều thế kỷ, người Ảrập chỉ có thể tạm bằng lòng với những cuộc tấn công nhỏ định kỳ hàng năm từ tháng 5 đến tháng 6 với mục đích cố định biên giới của thế giới Hồi giáo tại Thổ Nhĩ Kỳ. 


Đây chính là thời kỳ người dân vùng Cappadocia phải xây nhiều làng mạc dưới lòng đất giống như địa đạo Củ Chi để tránh những cuộc tấn công của người Ảrập. Ngày nay có khoảng 40 chục làng mạc dưới lòng đất nằm rải rác ở Cappadocia nhưng Derinkuyu có quy mô rộng nhất và có sức chứa tới 10.000 người. Do ở sâu dưới lòng đất, nhiệt độ luôn ở mức 15°C và khá khô ráo, rất thích hợp để bảo quản lương thực. Tại vùng Cappadocia, người ta ước tính một sản lượng khoai tây hàng năm là 30.000 tấn và tất cả đều được cất ở dưới lòng đất như thế này.


 Thời điểm tôi đến đây, chỉ có 10% diện tích của Derinkuyu được mở cho du khách đến thăm nên khó có thể mường tượng cụ thể quy mô thật của nó. Theo các thông số kỹ thuật, thị trấn này được đào sâu đến 85m so với mặt đất với hệ thống 8 tầng hầm. Theo các chuyên gia sử học, mục đích xây những thị trấn dưới lòng đất như Derinkuyu chỉ là một giải pháp tình thế nhằm tránh khỏi sự truy quét của người ảrập. Tuy nhiên, người dân địa phương không lường trước được rằng giải pháp « tạm thời » đó lại dai dẳng kéo dài đến hơn 1 thiên niên kỷ !  

Đến được Ihlara Valley thì cũng đã gần trưa. Trước khi book tour này, tôi đã trao đổi với văn phòng du lịch và chúng tôi đã thống nhất với nhau rằng khi đến Ihlara, tôi sẽ tách đoàn ra và tự đi hiking một mình rồi hẹn gặp nhau tại cửa ra của thung lũng này. Tại sao tôi lại quyết định như vậy ? Thung lũng Ihlara dài tổng cộng 16km và khu vực có thể đi hiking và có được góc nhìn đẹp nhất thì chỉ gói gọn trong 5km nhưng khu vực này lại không nằm trong chương trình tham quan của văn phòng du lịch. Công ty này chỉ cho đi thăm lèo tèo vài cái tu viện nằm trong vách đá và đi cưỡi ngựa xem hoa dưới đáy thung lũng khoảng 2km và hết vị. Trong khi đó, tôi thì đã thăm cả một đống tu viện trước đó và cái tôi cần ở thung lũng Ihlara là leo lên đỉnh vực thẳm để có cái nhìn toàn cảnh. Đến bây giờ nghĩ lại, tôi phải công nhận đó là một quyết định khá mạo hiểm nhưng hoàn toàn đáng đồng tiền bát gạo. 


 Khác hẳn với tất cả những gì tôi khám phá từ trước đó ở Cappadocia, thung lũng Ihlara được bao phủ bởi màu xanh của cây cối. Không phải là những cột đá hình cây nấm hay những tảng đá hình thù kỳ dị mà thay vào đó là một đại vực canyon thứ thiệt. Đây là nơi duy nhất tôi thấy có nhiều màu xanh đến thế. Cũng đúng thôi, dọc theo thung lũng dài 16km này là một con sông nhỏ chảy dưới đáy thung lũng và với sự hiện diện của một nguồn nước thường trực như vậy thì cây cối sẽ có điều kiện mọc tươi tốt. 


 Tôi đi theo đoàn tour tầm 1km rồi sau đó quyết định tách đoàn theo những thỏa thuận ban đầu với cậu hướng dẫn viên và bắt đầu chuyến khám phá một mình. Hướng chảy của con sông dưới đáy đại vực này giúp tôi xác định hướng đi khá dễ dàng. Theo lý thuyết, tôi cứ việc đi men theo nó thì kiểu gì cũng sẽ tìm đến đường ra tại một ngôi làng tên Selime, nơi tôi sẽ gặp lại nhóm khách theo tour và cậu hướng dẫn viên để tất cả cùng nhau lên xe trở về Goreme. Tuy nhiên, thực tế có một chút khác biệt so với kế hoạch ban đầu. Do trong suốt 1-2km đầu tiên tôi chỉ toàn gặp những du khách đi men theo sông, điều đó làm tôi hơi bực mình và tôi quyết định không men theo bờ sông nữa mà lại đi lách sang một con đường mòn dẫn tôi một lèo lên mép của đại vực ở độ cao 150m. 


 Đến được đó thì tôi hoàn toàn thỏa mãn vì chỉ có một mình mình đối mặt với thiên nhiên hùng vĩ. Tuy nhiên, một vấn đề bắt đầu hiện ra : làm thế nào để tìm đường xuống lại dưới đáy đại vực, gặp lại con sông và đi đến Selime như điểm hẹn. Thực ra, nếu tôi có đủ thời gian thì việc ấy không quá khó nhưng vấn đề là ở chỗ cậu hướng dẫn viên chỉ cho tôi đúng 2h để đi hết 5km dọc theo con sông. Trong khi đó thì tôi lại đi lòng vòng hơn 8km lên đến tận đỉnh rồi lọ mọ đi xuống mất rất nhiều thời gian. 


 Phải chờ đến lúc còn khoảng 30mn so với giờ hẹn thì tôi mới tìm thấy con đường ven sông nhưng vẫn còn cách Selime đến…4km. Có chạy thục mạng thì cũng chẳng thể đến đúng hẹn khi mà đường thì gồ ghề nhiều bụi cây. Chạy mãi trong tuyệt vọng, tôi nghĩ rằng có lẽ đoàn sẽ đợi quá lâu và bỏ mình về. Xác định trước tinh thần đó, tôi quyết định không chạy thục mạng nữa và tính đến tình huống xấu nhất là nghỉ đêm tại một nhà dân nào đó rồi hôm sau bắt xe dolmus quay trở về Goreme. 


Nhưng chính trong lúc tuyệt vọng đó thì phép màu lại xảy ra. Tôi tự nhiên nhìn thấy một ngôi làng nho nho, trông rưa rứa như làng Selime. Với một chút từ vựng Thổ học được, tôi bập bẹ hỏi một ông nông dân. Đúng là Selime ! Tìm được Selime, tôi bỗng tìm lại được một tia hy vọng và chạy thục mạng đến một bến xe nơi các xe du lịch thường đậu. Và thât tuyệt vời khi tôi thấy thấp thoáng bóng dáng những người cùng đoàn và cậu hướng dẫn viên đang cầm cờ. Tôi cứ ngỡ rằng hay là họ phải chờ mình quá lâu và đang phải chờ những câu đại loại như : « sao cậu đi đâu mà lâu thế ? Chúng tôi cứ chờ mãi tưởng cậu bị lạc ». 

làng Selime là điểm thoát khỏi thung lũng Ihlara Valley, nơi hầu hết các xe du lịch đón khách trở về Goreme
 Nhưng không, hóa ra bản thân họ cũng chỉ đến điểm hẹn được tầm 15 phút và chỉ phải đợi tôi hơn 10 phút thôi.  Vậy là suy cho cùng, tôi vẫn kịp nhập hội để trở về Goreme. Trên đường đi, mọi người hỏi tôi khá nhiều về những gì tôi trải nghiệm khi tách đoàn trong vòng 2 tiếng đồng hồ. Tôi trao đổi khá nhiều với cậu hướng dẫn viên về không hết lời khen ngợi vẻ đẹp hùng vĩ của thung lũng Ihlara và cậu ta vui mừng ra mặt. Chúng tôi có trao đổi thêm chút ít về những gì còn lại đáng để thăm ở vùng Cappadocia và tôi cũng được biết cậu này là hướng dẫn viên quốc gia nên thông thạo nhiều vùng khác ngoài Cappadocia. Chúng tôi có trao đổi sơ qua về một vùng núi tên Nemrut, cũng nằm trong kế hoạch của tôi. Nhưng chính nhờ cuộc nói chuyện này, tôi đã nảy ra ý định đi theo tour do chính cậu hướng dẫn viên này đảm nhận, thay vì mua tour thông qua một văn phòng ở Goreme. Có vẻ như giá mà cậu ta đưa ra rẻ hơn tầm 10$. OK, duyệt ! Và thế là lại thêm hai ngày viễn chinh phía đông của Thổ Nhĩ Kỳ.




  
<<<<CÒN TIẾP>>>>


Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống