Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Saturday, 2 July 2011

Chùa Phật Tích nằm trên sườn nam núi Phật Tích (còn gọi núi Lạn Kha, non Tiên) thuộc xã Phật Tích, huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Ngay từ những thế kỷ đầu công nguyên, xã Phật Tích đã nằm trong địa bàn diễn ra cuộc gặp gỡ giữa Phật giáo Ấn Độ và tín ngưỡng dân gian Việt cổ. Trên cơ sở đó hình thành trung tâm Phật giáo đầu tiên của đất nước (trung tâm Dâu - Luy Lâu). Và nhà sư Ấn Độ Khâu-đà-la đã về đây dựng chùa và truyền đạo. Nhưng phải đến đời Lý (1010-1225) thì chùa Phật Tích mới được xây dựng với qui mô lớn. Chùa Phật Tích được triều Lý ưu ái đặc biệt bởi nó nằm trong vùng văn hóa lâu đời của xứ Kinh Bắc, quê hương của vua Lý.

Theo tài liệu cổ thì chùa Phật Tích được khởi dựng vào năm Thái Bình thứ tư (1057) với nhiều tòa ngang dãy dọc. Năm 1066, vua Lý Thánh Tông lại cho xây dựng một cây tháp cao.

Sau khi tháp đổ mới lộ ra ở trong đó bức tượng Phật A-di-đà bằng đá xanh nguyên khối được dát ngoài bằng vàng. Để ghi nhận sự xuất hiện kỳ diệu của bức tượng này, làng đổi tên là Phật Tích và dời cả lên trên sườn núi.

Vì Phật Tích là một trung tâm Phật giáo nổi tiếng và là nơi cảnh quan tươi đẹp lại gắn với hàng loạt những câu chuyện huyền thoại, nên các vua Lý và sau này là các vua Trần thường xuyên lui tới thăm viếng.

Năm 1071, Lý Thánh Tông đi du ngoạn khắp vùng Phật Tích và viết chữ "Phật" dài tới 5 mét, sai khắc vào đá đặt trên sườn núi. Trong buổi đầu xây dựng chùa Phật Tích, bà Ỷ Lan có vai trò đặc biệt quan trọng. Để ghi nhận công lao của bà, ở thôn Vĩnh Phú lập đền thờ bà gọi là đền bà Tấm.

Sang thời Trần, Phật Tích vẫn là ngôi chùa lớn, một đại danh thắng. Thời bấy giờ vua Trần Nhân Tông đã cho xây tại chùa một thư viện lớn và cung Bảo Hoa. Sau khi khánh thành, vua Trần Nhân Tông đã sáng tác tập thơ "Bảo Hoa dư bút" dày tới 8 quyển. Vua Trần Nghệ Tông đã lấy Phật Tích làm nơi tổ chức cuộc thi Thái học sinh (thi Tiến sỹ). Đời vua Lê Hiển Tông (1740-1786), một đại yến hội đã được mở ở đây.

Trải qua thời gian, chùa Phật Tích bị tàn phá nặng nề. Vào thời Lê, năm 1686, chùa được xây dựng lại với quy mô rất lớn và đổi tên là Vạn Phúc tự. Bia đá còn ghi lại cảnh chùa thật huy hoàng: "Trên đỉnh núi mở ra một tòa nhà đá, bên trong sáng như ngọc lưu ly. Điện ấy đã rộng lại to, sáng sủa lại kín. Trên bậc thềm đằng trước có bày mười con thú lớn bằng đá, phía sau có Ao Rồng, gác cao vẽ chim phượng và sao Ngưu, sao Đẩu sáng lấp lánh, đầu rồng và tay rồng với tới trời sao".

< Đại Phật tượng đang được dựng.

Chùa được kiến trúc theo kiểu "nội công ngoại quốc", sân chùa là cả một vườn hoa mẫu đơn rực rỡ. Bên phải chùa là Miếu thờ Đức chúa tức bà Trần Thị Ngọc Am là đệ nhất cung tần của chúa Trịnh Tráng tu ở chùa này. Bà chẳng những có công lớn trùng tu chùa mà còn bỏ tiền cùng dân 13 thôn dựng đình. Bên trái chùa chính là nhà tổ đệ nhất thờ Chuyết chuyết Lý Thiên Tộ. Ông mất tại đây năm 1644 thọ 55 tuổi, hiện nay chùa còn giữ được pho tượng của Chuyết công đã kết hỏa lúc đang ngồi thiền. Phía sau chùa là khu vườn tháp gồm 39 ngọn xây bằng gạch và bằng đá (nay còn 34 ngọn).

Nhưng rồi vẻ huy hoàng và sự thịnh vượng của chùa Phật Tích cũng chỉ tồn tại sau đó được gần 300 năm. Kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ và chùa bị tàn phá, hư hỏng nhiều. Khi hòa bình lập lại (1954) đến nay, chùa Phật Tích được khôi phục dần. Năm 1959, Bộ Văn hóa cho tái tạo lại 3 gian chùa nhỏ làm nơi đặt pho tượng A di đà bằng đá quý giá. Tháng 4 năm 1962, Nhà nước công nhận chùa Phật Tích là di tích lịch sử - văn hóa. Sau đó nhân dân trồng phía sau chùa một khu rừng với trên một vạn cây thông và cây bạch đàn, và trồng ở trước cửa chùa vườn cây ăn quả. Cho tới nay, chùa Phật Tích có 7 gian tiền đường để dùng vào việc đón tiếp khách, 5 gian bảo thờ Phật, đức A di đà cùng các vị tam thế, 8 gian nhà Tổ, và 7 gian nhà thờ Mẫu.

Chùa Phật Tích, một công trình văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, cho đến nay vẫn còn giữ được nhiều di vật cổ quý giá. Bức tượng Phật A di đà bằng đá xanh ngồi trên tòa sen cao 1,87 m, một tác phẩm điêu khắc đặc sắc của nền mỹ thuật nước nhà nói chung và nghệ thuật tạc tượng nói riêng. Tượng người chim đánh trống, một nhân vật thần thoại, thể hiện ước mơ thoát tục và khát vọng vươn tới của con người. Đặc biệt, phía trước chùa Phật Tích có một hàng thú 10 con: tê giác, trâu, voi, sư tử, ngựa... to lớn. Tất cả các di vật cổ bằng đá nói trên đều là những tác phẩm nghệ thuật tài hoa của các nghệ nhân dựng chùa buổi đầu tiên với những nét rất đặc trưng cho thời Lý.

Nằm trên sườn núi, xung quanh là rừng thông và vườn cây trái, chùa Phật Tích mang những nét huyền bí và thật thơ mộng. Chùa lại là một trung tâm Phật giáo thịnh vượng, là công trình văn hóa quý quá và đặc biệt là nằm trong vùng văn hiến Kinh Bắc lâu đời nên chùa Phật Tích đã thu hút được bà con trong vùng và du khách thập phương.

Du lịch, GO! - Theo báo Thái Nguyên
Ăn trầu là một thói quen lâu đời của người Việt. Trong giao tiếp miếng trầu là đầu câu chuyện, trong nghi lễ, giỗ chạp trầu là thứ không thể thiếu, trầu là món quà của người đi xa mang về tặng người thân. Miếng trầu làm mọi người gần gũi với nhau hơn, cởi mở với nhau hơn. Với người lạ, miếng trầu để làm quen, kết bạn, với người quen, miếng trầu là tri ân, tri kỷ. Trầu là vật để chàng trai cô gái trao nhau lời ước hẹn.

Trầu này trầu quế, trầu hồi
Trầu loan, trầu phượng, trầu tôi, trầu mình
Trầu này trầu tính, trầu tình’
Trầu nhân, trầu nghĩa, trầu mình với ta
.
Trầu quen thuộc với người Việt nên ở khắp các làng quê nhà nào cũng trồng trầu và cau, vừa làm nhà cửa thêm đẹp vừa tiện cho việc ăn trầu. Miếng trầu nhỏ bé nhưng hội tụ rất nhiều yếu tố, đủ hương, đủ vị.

Một miếng trầu bao gồm một lá trầu quệt ít vôi tôi trắng ngần, têm gọn gàng, tỉa hình cánh phượng, cuốn ăn cùng lát vỏ đỏ au và miếng cau bổ sáu. Nếu đứng riêng rẽ, đó chỉ là cây, là lá, là đá . Nhưng khi hợp lại, chúng hoà quyện, cộng sinh vào nhau, được ấp ủ trong môi miệng con người thì tất cả bỗng biến đổi, trở nên đằm thắm, rực rỡ hơn. Khi ăn, ban đầu miếng trầu mang vị chát, hơi đắng nhưng dễ chịu và có cung bậc được tạo ra bởi sự tươi ngọt từ phần mềm của cau, vị bùi của vỏ và vị nồng nàn của vôi. Tất cả những hương vị và sự hòa quyện đó khiến người ăn có cảm giác lâng lâng gần như say rượu, say nước chè xanh hay say thuốc lào.

Trầu cau còn là thứ đi cầu sự nghi lễ, từ việc tế tự, tang ma cưới xin, việc gì cũng lấy miếng trầu làm trọng. Trong các đám hỏi, nhà gái thường nhận của nhà trai cả buồng cau để chia phần báo hỷ cho họ hàng.

Với các liền anh, liền chị quan họ, mời trầu là một nghi lễ quan trọng của buổi gặp gỡ. Miếng trầu têm cánh phượng đựng trong coi sơn son, cách mời trầu trang nhã, mời đi mời lại chủ và khách nhường nhau rồi cùng ăn, khi mời còn hát đối đáp cho miếng trầu thêm ý nghĩa

Gặp nhau ăn một miếng trầu
Gọi là nghĩa cũ về sau mà chào
Miếng trầu đã nặng là bao
Muốn cho đông liễu tây đào là hơn

Tục lệ ăn trầu mãi mang đậm nét bản sắc dân tộc và tính nhân văn trong cuộc sống của dân tộc Việt Nam. Và đặc biệt, điều đáng tự hào hơn đó là trải qua bao đổi thay, nhiều giá trị văn hóa đã mai một do sự tác động của cuộc sống đô thị song trong tập tục cưới hỏi của người Việt, miếng trầu vẫn giữ nguyên giá trị và được con cháu nâng niu, gìn giữ.

Du lịch, GO! - Theo báo Thái Nguyên
Thác Khuôn Tát cách T.P Thái Nguyên gần 70km, là một trong những địa chỉ hấp dẫn du khách khi đến với Thủ đô gió ngàn ATK Định Hóa.
Thác còn có tên gọi là thác Bảy tầng thuộc xóm Tỉn Keo, xã Phú Đình, Định Hóa. Nơi đây có cảnh đẹp thơ mộng, nằm giữa núi rừng hoang sơ và yên tĩnh, bốn bề có nhiều cây cổ thụ. Tại nơi này nước từ 7 tầng thác cao đổ xuống tung bọt trắng xoá, phía dưới tạo thành dòng suối trong xanh uốn lượn chảy róc rách ngày đêm.

Theo truyền thuyết ngày xưa khi chim muông, thú rừng còn hay đến thác uống nước vào những hôm trời trong xanh, mây trắng chờn vờn trên đỉnh núi có một bầy tiên nữ thường xuống thác nô đùa. Từ trên đỉnh đèo De có thể nhìn thấy 7 tầng thiên tạo của thác. Độ cao từ đỉnh xuống chân thác trên 20m, tầng thác trên cùng đẹp nhất, cao khoảng 12m, rộng 15m. Các tầng thác còn lại phía trên cao chênh lệch trên dưới 2 đến 3m và chiều rộng thu nhỏ dần lên đỉnh thác.

< Trên đỉnh thác nhìn xuống.

" Con về đường núi đèo De
Bên này Rục Rã bên kia Tân Trào
Thác Khuôn nước đổ ào ào
Chim reo trong lá xôn xao núi Hồng.."
(Mùa xuân trên đèo De - Tác giả Ma Trường Nguyên).

Từ trên đỉnh Đèo De cao vút, có thể nhìn xuống Thác Khuôn Tát- Thác bảy tầng thiên tạo, như  một bậc thang nhà sàn, nguồn nước trong vắt đổ ào ào quanh năm. Độ cao tính từ đỉnh thác xuống chân thác trên 20m. Tầng dưới cùng đẹp nhất, cao khoảng 12m, rộng 15m, các tầng còn lại phía trên cao chênh lệch nhau trên dưới 2 đến 3m và chiều rộng thu nhỏ dần lên đỉnh thác.

Du khách có thể leo lên các tầng thác, mỗi tầng đều có bóng cây toả mát, phía dưới từng tầng, nước đổ xuống tạo thành bồn tắm, có nhiều tảng đá bằng phẳng...

Chân Thác Khuôn Tát nước dội xuống thành bồn tắm thiên tạo, chỗ nước sâu nhất chừng 2 đến 3m, nông dần ra phía ngoài tạo thành con suối róc rách trải dài qua khe đá, bờ cây thoáng đãng. Suối Khuôn Tát chảy ngoài thác độ 100m là bãi cát, sỏi nhỏ và đá tự nhiên nằm giữa dòng chảy như: hình cá voi, hình con rùa, con trâu đầm... Hai bên suối là bãi cỏ bằng phẳng xanh tươi rất thuận lợi cho việc cắm trại, dựng lều lán nghỉ ngơi, vui chơi cho các đoàn khách du lịch đông người.

Đến Khuôn Tát, du khách có thể leo lên các tầng thác, mỗi tầng đều có bóng cây tỏa mát, phía duới mỗi tầng nước đổ xuống tạo thành bồn tắm, xung quanh bồn có nhiều tảng đá bằng phẳng, sau khi tắm mát du khách có thể lên đó phơi nắng, hít thở không khí trong lành của thiên nhiên, ngắm cảnh sơn thủy hữu tình.

Suối Khuôn Tát chảy thấp dần xuống thung lũng, cách chân thác ra phía ngoài 100m là bãi cát sỏi nhỏ và đá tự nhiên nằm giữa dòng chảy với nhiều hình thù: Hình con rùa, hình mâm xôi, hình quả trứng… hai bên suối là bãi cỏ bằng phẳng, xanh tươi thích hợp cho việc cắm trại, vui chơi cho các đoàn khách đông người.

Thắng cảnh Thác Khuôn Tát, một bức tranh thiên nhiên sơn thuỷ, hữu tình không chỉ của Thái Nguyên mà còn nổi tiếng khắp vùng Việt Bắc đã được xếp hạng danh thắng cấp quốc gia năm 2002.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ Thainguyen.gov, báo Thainguyen, Cunxauxi 360...

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống