Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Saturday, 3 September 2011

Đuổi lợn không chỉ là trò chơi dân gian mà còn là một tục lệ mổ lợn tế thần ở một số địa phương thuộc vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Vào dịp lễ hội làng hàng năm, hàng giáp phân công mỗi xóm nuôi một con lợn cúng thần.

Lợn nuôi được vỗ béo là lợn đực, giống chạy nhanh, khỏe. Đến ngày hội làng, lợn được tắm rửa sạch sẽ, đưa ra hàng giáp để chọn bốn con to khoẻ nhất. Nơi được chọn để thi đấu thường là ở sân đình có đóng cọc và rào chắn xung quanh. Sau khi làm lễ tế thần, trai làng tham gia trò chơi, luân phiên nhau từng người một, vào trong sân đuổi bắt lợn. Khi bắt đầu cuộc chơi, trọng tài gióng ba hồi trống báo hiệu, người đầu tiên bước vào sân trong tiếng trống cái thúc ngũ liên và người xem đứng xung quanh hàng rào reo hò.



Lợn nghe trống và tiếng reo hoảng sợ chạy nháo nhào trong sân rộng, người chơi đuổi theo nó đã khó nhưng phải làm sao tóm được thật nhanh hai chân sau để vật ngửa lợn ra mà trói lại càng khó hơn nên người chơi phải có mưu mẹo, lừa miếng, vừa đỡ tốn sức, vừa không mất thời gian. Có người đuổi mãi không bắt được lợn, phải nhường phiên cho người khác. Cuộc thi kéo dài đến lúc bốn trai làng bắt được đủ bốn con lợn.

Có khi, đến tận lúc trời tối mà chưa bắt hết lợn, dân làng phải treo đèn, đốt nến, có khi đến hết đêm mới bắt được đủ bốn con lợn. Bốn người bắt được lợn đều đoạt giải thưởng, vừa được vinh dự ngồi ăn cỗ làng ở chiếu nhất, vừa có phần thưởng đem về. Người nào bắt được lợn trong thời gian ngắn nhất, dành giải nhất được làng giành riêng một thủ lợn rước về nhà .

Du lịch, GO! - Theo báo Nam Định, internet
Lăng Ông Bà Chiểu (Tp. Hồ Chí Minh) là nơi chôn cất Tả quân Lê Văn Duyệt, vị Tổng trấn thành Gia Định ở thế kỷ 19,được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia.

< Mái  Lăng, một trong những nét đặc trưng trong tổng thể kiến trúc công trình Lăng Ông.

Đây không chỉ là khu di tích kiến trúc có giá trị nghệ thuật mang đậm nét văn hóa truyền thống Việt Nam mà còn là niềm tự hào của người dân Nam bộ.
Lăng Ông Bà Chiểu hay còn gọi là Lăng Ông, là cách gọi phổ biến của người dân địa phương đối với miếu Thượng Công, nơi thờ Đức Thượng Công, danh xưng dân gian phong cho Tả quân Lê Văn Duyệt.

< Di tích Lăng Ông với nét đẹp uy nghiêm, cổ kính.

Lăng nằm ngay khu vực ngã ba Bà Chiểu, xưa thuộc làng Hoà Bình, tỉnh Gia Định, nên nhắc đến Lăng Ông thường đi đôi với địa danh Bà Chiểu.

< Tượng Tả quân Lê Văn Duyệt đúc bằng đồng nguyên chất dựa trên mẫu chân dung của ông in trên tờ giấy bạc 100 đồng lưu hành tại Sài Gòn năm 1966.

Ngày nay, khu lăng mộ với diện tích còn lại khoảng 18.500 m2 toạ lạc uy nghi giữa giao điểm của bốn con đường thuộc khu vực quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh. Xung quanh có thêm khuôn viên thoáng đãng, xanh mát mở ra một không gian sinh hoạt công cộng lý tưởng dành cho người dân.


< Trung điện - nơi bài trí các đồ thờ tự, thể hiện uy quyền và phẩm hàm của Tả quân Lê Văn Duyệt.

Cổng lăng trổ ra bốn hướng, phía Nam là cổng lớn Tam Quan nổi tiếng với 4 chữ Hán “Thượng Công Miếu” khắc nổi ở bên trên. Cổng lớn này một thời được chọn làm hình ảnh biểu tượng của đất Sài Gòn - Gia Định.

< Giếng cổ được phát hiện trong quá trình tu bổ lại khuôn viên bao quanh Lăng Ông.

Lăng nằm trên một gò đất cao hình lưng rùa, được cho là vị thế “đắc địa”. Theo quan niệm địa lí Đông phương học, nơi được chọn đặt âm phần của quan Tổng trấn nằm vào long mạch, hợp với “địa linh nhân kiệt”, vì thế sẽ mang lại tài lộc, sự an lạc đời đời cho dân chúng cư ngụ trong vùng.

< Lê Công Bi Đình, tên gọi văn bia ca tụng công đức của Tả quân Lê Văn Duyệt đối với triều đình và nhân dân.

Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt được xây cất vào năm 1832 ngay sau khi ông qua đời. Năm Tự Đức thứ 2 (1849), nhà vua cho thực hiện một cuộc trùng tu lớn, lập thêm miếu thờ, cấp đất tu sửa cả khu hoàn chỉnh như ngày nay.

Gần hai thế kỷ trôi qua với nhiều lần tu sửa và tôn tạo, quần thể Lăng Ông được gìn giữ bao gồm cả miếu thờ Ông lẫn lăng mộ, nơi mà bá tánh quen gọi là mộ “song hồn”, vì bên cạnh mộ ông có thêm mộ bà Đỗ Thị Phận, vị chánh thất phu nhân của Tả quân. Cách xa nơi ông bà nằm vẫn còn mộ hai cô hầu cũng được liệt vào hàng cổ tích. Ngôi mộ song hồn xây theo hình nửa quả trứng lật úp nằm trên hai tấm liếp, đây là phần kiến trúc cổ kính nhất của toàn cảnh Lăng Ông.
< Ngà voi và xương hàm cá Ông ở khu trung điện của miếu thờ.

Khu miếu thờ thoạt nhìn giống một ngôi chùa Trung Hoa, nhưng thực tế miếu được dựng theo cấu trúc đình Nam Bộ, khung nhà ba gian bao gồm tiền điện, trung điện và chánh điện, mỗi gian điện thờ cách nhau bằng một sân thiên tỉnh (giếng trời). Đối xứng hai bên trục nhà chính là hai dãy Đông lang và Tây lang. Công trình mang dấu ấn của kiến trúc triều đình Nguyễn ở Huế với những vật liệu như gỗ gạch, vôi vữa… Vật liệu cũng như kĩ thuật kết cấu đều kế thừa kiến trúc cổ truyền Việt Nam, đồng thời có sự cách tân tạo nên độ vững vàng, hài hoà, thích ứng với khí hậu nhiệt đới phương Nam.
< Tục phóng sinh cầu phúc vào ngày Rằm hàng tháng tại Lăng Ông.

Bộ mái nhà hai tầng đồ sộ của miếu là điểm nhấn đặc sắc trong tổng thể kiến trúc với những mái được thiết kế theo lối "trùng thiềm điệp ốc" (mái chồng lên mái) gợi nên hình ảnh những chiếc thuyền rồng cheo leo. Bên cạnh đó, kĩ thuật chạm khắc gỗ, khắc đá, chạm thủng qua kim loại, khảm sành sứ đậm chất Huế… cũng nói lên đặc tính của loại hình kiến trúc cung đình Huế thời bấy giờ.

<Thắp nén hương tưởng nhớ tới Tả quân Lê Văn Duyệt.

Nhờ vào tài năng điêu luyện của các nghệ nhân Việt Nam mà đồ án trang trí tại đây trở nên rất sinh động, gần gũi với cuộc sống dân gian. Những hoa văn trang trí khu lăng mộ vừa mang ý nghĩa phản ánh hiện thực vừa biểu lộ niềm tin và ngụ ý chúc phúc.
< Sinh hoạt tín ngưỡng của người dân Sài Gòn tại Lăng Ông.

Tả quân Lê Văn Duyệt lúc sinh thời là bậc kì tài quân sự, ông là nhà chính trị song toàn, một trong những khai quốc công thần của triều Nguyễn. Ở cương vị Tổng trấn, Lê Văn Duyệt đã đóng góp công trạng rất lớn vào việc bảo vệ và phát triển bờ cõi phía Nam của Tổ quốc. Những quyết sách cách tân táo bạo tuy mâu thuẫn với quan điểm của triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ nhưng lại cho thấy ông là người có tầm nhìn xa trông rộng, nhất là qua phát kiến và chỉ huy đào kênh Vĩnh Tế, con kênh mang tầm chiến lược quan trọng vào bật nhất ở đồng bằng sông Cửu Long, đưa nền kinh tế vùng “đặc khu” ngày càng đạt đến sự thịnh vượng.

< Khuôn viên rộng lớn của Lăng Ông với nhiều cây xanh là nơi khởi nguồn sáng tác cho nhiều nghệ sĩ.

Từ lâu hình tượng Tả quân Lê Văn Duyệt đã đi vào tâm thức của người dân Gia Định và miền Nam nước Việt. Dân gian coi ông như một vị thần nên các nghi thức tưởng nhớ ông đã trở thành hoạt động tín ngưỡng dân gian. Vì thế, hàng năm, dân chúng vẫn thường tổ chức ngày lễ giỗ Đức Thượng Công và lễ khai ấn đầu năm để tưởng nhớ đến công lao của ông.

Cho đến nay, lịch sử tuy vẫn có những góc nhìn khác nhau về cuộc đời Lê Văn Duyệt, nhưng công lao của ông trong việc tạo dựng nên một vùng thành Gia Định tấp nập và hưng thịnh thuở xưa thì ai ai cũng phải kính nể. Trải qua bao nhiêu thăng trầm của thời cuộc, “Thượng Công miếu” vẫn sừng sững uy nghiêm minh chứng cho một thời kì mở cõi hào hùng của dân tộc.

Du lịch, GO! - Theo BAVN
Bạch Dinh nằm ở phía Nam núi Lớn, trên pháo đài thành Phước Thắng cổ xưa của thành phố biển Vũng Tàu xinh đẹp. Pháo đài Phước Thắng là nơi nổ phát súng đầu tiên (1859) vào hạm đội Pháp khi chúng xâm lược Nam kỳ, một chiến tích oanh liệt của quân và dân Vũng Tàu trong buổi đầu kháng Pháp.

Sau khi bình định xong xứ Nam kỳ (1898), viên toàn quyền Pháp ở Đông Dương lúc bấy giờ là Paul Doumer cho san bằng pháo đài nơi đây để xây biệt thự Villa Blanche – nghĩa Hán Việt trùng với sắc dáng bên ngoài của nó nên người dân địa phương gọi là Bạch Dinh, tức biệt thự trắng. Bạch Dinh xây dựng xong, được dùng làm nơi nghỉ mát và hội họp cho toàn quyền Pháp ở Đông Dương và quan chức cao cấp của Mỹ sau này. Đặc biệt, từ năm 1906 – 1917, vị vua yêu nước Thành Thái bị thực dân Pháp giam lỏng tại đây nên còn có tên là dinh ông Thượng.

Để xây dựng Bạch Dinh uy nghiêm và lộng lẫy, chính quyền thực dân lúc bấy giờ đã cưỡng bức 800 tù nhân lao động khổ sai trong suốt 10 năm ròng.

Bạch Dinh mang dáng dấp kiến trúc châu Âu cuối thế kỷ 19, cao 19m, rộng 15m, dài 28m, gồm 3 tầng: Tầng hầm làm nơi nấu nướng; tầng trệt vừa làm nơi khánh tiết vừa dùng bày trí một số hiện vật cổ xưa như: Song bình bách điểu chầu phụng, bộ tràng kỷ hoàng gia có ghi niên đại Khải Định 1921, cặp ngà voi châu Phi dài 170cm… Tầng lầu thoáng hơn dành cho việc nghỉ ngơi.

Hơn 100 năm qua bên ngoài biệt thự chỉ quét một màu vôi trắng, mái ngói đỏ tươi. Các mảng viền được trang trí bằng nguyên liệu chính là sứ men màu trông sinh động và mỹ thuật. Từ đôi chim công đang nhảy múa đến gương mặt phụ nữ châu Âu trông thánh thiện như những nữ thần. Ấn tượng hơn cả có lẽ là 8 bức tượng chân dung tạc các vị thần Hy Lạp thời cổ đại, từ gương mặt, mắt, mũi đến sắc thái đều biểu hiện rõ ràng, sắc nét và tinh tế. Trải qua hơn một thế kỷ, biết bao thử thách của thời gian nhưng lối kiến trúc của Bạch Dinh vẫn giữ nguyên tính sang trọng, hài hòa và uy nghiêm hiếm thấy.

Hiện nay, Bạch Dinh được dùng làm nơi trưng bày nhiều hiện vật có giá trị như: đồ gốm sứ đời Khang Hy vớt được từ xác con tàu cổ bị đắm tại khu vực Hòn Cau (Côn Đảo) vào đầu những năm 1990, hai khẩu đại bác, mười khẩu thần công (có xuất xứ từ Pháp và Italia vào thế kỷ 10), song bình bách điểu chầu phụng, bộ tràng kỷ hoàng gia có ghi niên đại Khải Định 1921, cặp ngà voi châu Phi dài 170cm…

Đường lên Bạch Dinh có 2 lối, một đường uốn lượn dưới rừng cây giá tỵ, dành cho ô tô. Đường dành cho đi bộ phải qua 146 bậc tam cấp giữa 2 hàng hoa sứ cao niên. Toàn bộ khu lâm viên Bạch Dinh rộng 6ha, một nửa trồng giá tỵ, một nửa trồng hoa sứ. Vào mùa này, trên cành hoa sứ nở từng chùm, dưới đất hoa sứ rụng ngập cả lối đi. Du khách đến đây như lạc vào rừng hoa, mùi hương thoang thoảng làm dịu lòng người. Hoa sứ ở đây có nhiều màu: Loại hoa màu đỏ, loại trắng pha sắc vàng, loại màu hồng, màu trắng, màu vàng nhạt…

Bạch Dinh là thắng cảnh nổi tiếng của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, được công nhận là di tích kiến trúc và danh thắng quốc gia năm 1992. Hiện nay, nơi đây được dùng làm bảo tàng, trưng bày đồ gốm sứ đời Khang Hy vớt được từ xác con tàu cổ đắm tại khu vực Hòn Cau (Côn Đảo) vào đầu những năm 1990 cùng với súng thần công và nhiều hiện vật có giá trị văn hóa và lịch sử khác.

Giờ đây du khách đến Bạch Dinh, không chỉ để thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, hay chiêm ngưỡng lối kiến trúc độc đáo của châu Âu cận đại, mà còn để hiểu thêm về lịch sử của Bạch Dinh cũng chính là một phần lịch sử của dân tộc.

Du lịch, GO! - Theo báo Dulich, internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống