Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Tuesday, 20 September 2011

Trên mảnh đất còn nghèo khó này, vẫn còn lưu giữ nhiều những ngôi nhà rường cổ, tồn tại qua nắng mưa và nghèo khó một cách kỳ diệu.

Nằm giáp ranh giữa hai tỉnh Thừa Thiên - Huế và Quảng Trị, cách thành phố Huế khoảng 40km về phía Bắc, làng cổ Phước Tích nép mình bên bờ sông Ô Lâu rêu phong cổ kính như một bảo tàng sống động của văn hóa làng quê Việt được lưu giữ nguyên vẹn qua hàng trăm năm nay.
Theo phả hệ của các dòng họ, làng Phước Tích được lập năm 1470, thời Hồng Đức với nghề truyền thống đặc trưng của làng là làm gốm. Từ mấy trăm năm trước, sản phẩm gốm tiến cung của Phước Tích đã nổi tiếng cả nước, đem lại cho người dân Phước Tích cuộc sống sung túc khá giả.

Nhờ vậy, các công trình kiến trúc văn hóa, dân sinh của làng từ đình làng, đền, miếu, nhà cửa được xây dựng kiên cố theo lối kiến trúc nhà vườn đặc trưng của vùng đất Thuận Hóa xưa.


Những ngôi nhà cổ

Đến với Phước Tích ngày nay, ta như lạc vào không gian xanh của những khu vườn và những cây cổ thụ nhuốm màu cổ tích. Cây thị đầu làng theo kể lại đã gần 1.000 năm tuổi, chu vi gốc hai người ôm không xuể, hay như cây hoàng lan trên 100 năm tuổi trước ngôi nhà của mẹ Tràng vẫn nở hoa đúng mùa thơm ngát cả vùng quê.

Rồi những cây mai, tùng, mít, bồ quân, trần bì, bàng, bẹ… cổ thụ đổ bóng xuống làng đã hàng trăm năm nay vẫn được người dân giữ gìn như tài sản vô giá của cộng đồng dân cư Phước Tích.

Nép mình dưới những bóng cây cổ thụ là một quần thể nhà rường cổ với mật độ dày đặc hơn cả Cố đô Huế.

Cả làng có 117 ngôi nhà thì có đến 37 ngôi nhà rường có tuổi trên 100 năm, cùng 12 nhà thờ họ, các đền miếu còn nguyên vẹn. Có 12 ngôi nhà rường thuộc loại đặc biệt quý hiếm, có tuổi thọ từ 150 - 200 năm, cột gỗ đen bóng thời gian, vì kèo, xuyên, trếng, hoành phi, bản khoa, cửa đố… chạm trổ tinh xảo không thua kém các công trình kiến trúc gỗ trong Hoàng cung triều Nguyễn.

Tiêu biểu trong số những ngôi nhà cổ như ngôi nhà rường của ông Hồ Đình Lan, xưa từng làm tri huyện. Từ cổng vào là bình phong, bể cạn thiết kế theo lối trấn phong. Hơn 100 năm tuổi mà hàng cửa cột bằng gỗ mít còn bóng loáng. Giữa nhà còn bức hoành phi của vua Duy Tân (1909 - 1916) ghi công vị quan thanh liêm. Nhà ông Hồ Văn Tế liền đó cũng đã có tuổi thọ 150 năm, qua mấy đời người vẫn giữ nguyên vẹn nếp xưa nhà cũ, tường ngói rêu phong. Hay như ngôi nhà của cụ Trương Công Bậc đã 200 tuổi, kiến trúc kiểu ba gian hai trái, mái lợp ngói liệt đã thâm nâu, tường gạch rêu phong. Hàng cửa bản khoa sậm đen. Sân rộng, trước nhà rộng thênh thang lót gạch Bát Tràng…

Hầu hết những ngôi nhà rường ở Phước Tích đều gắn với những khu vườn rộng chừng 1.000 - 1.500m2, xanh um cổ thụ, nhà nhà cách nhau một hàng chè tàu cắt xén thắng tắp, tạo nên một không gian xanh gần gũi mà cổ kính lạ lùng.

Trong những ngôi nhà rường cổ kính ấy, ta như thấy thời gian như lắng đọng trên những vật dụng có từ hàng trăm năm trước. Đó là những chiếc bình vôi mà miệng bình đã dày cao theo tầng nấc thời gian, rồi mâm uống rượu, mâm ăn bằng gỗ, các loại hũ, lọ đựng mắm muối, lu đựng nước do các lò gốm của làng sản xuất cách đây đã vài trăm năm vẫn được giữ gìn và hàng ngày, vẫn đồng hành cùng người dân như là trầm tích của thời gian, nhắc nhớ thời hoàng kim nghề gốm của làng.

Làng khoa bảng

Không chỉ nổi danh với nghề gốm tiến cung từ hàng trăm năm trước, Phước Tích cũng đã nổi tiếng là làng học, con em của làng thế hệ này nối tiếp thế hệ khác học hành tử tế, nhiều người đỗ đạt cao. Chỉ tính trong triều đại nhà Nguyễn(1802 - 1945) ở Kinh đô Huế, làng đã có 19 người đỗ cử nhân, tiến sỹ làm quan trong triều.

Phước Tích cũng là quê độc nhất ở Miền Trung xây Đền thờ Khổng Tử từ mấy trăm năm trước nhằm tôn vinh sự hiếu học, khuyến khích con cháu trong làng chuyên cần theo nghiệp bút nghiên. Chẳng thế mà hầu như ở Phước Tích từ xưa đến nay, hầu như không có ai mù chữ, một điều xưa nay hiếm đối với một làng quê heo hút như Phước Tích.

Nghề rèn, nghề gốm cổ

Ngày nay, nghề gốm của làng chỉ còn là di sản của quá khứ, đời sống kinh tế không còn thời hoàng kim xưa, nhưng nền tảng hiếu học của làng lại được chắp cánh bay xa. Điều này giải thích vì sao, hiện tại ở làng phần đông là người già, con trẻ nhưng ai cũng tường tận lịch sử của làng như bài học đầu tiên trong đời. Chính điều này đã làm ngỡ ngàng các nhà nghiên cứu và du khách khi tận mắt chứng kiến lối ứng xử hết sức văn hóa của người dân Phước Tích đối với di sản của ông cha.

Dấu tích các lò gốm xưa vẫn được giữ gìn, dân làng còn dành riêng một cồn đất gọi là cồn Trèng để cất giữ những mảnh gốm cũ như một Bảo tàng truyền thống của làng.

Địa chỉ du lịch hấp dẫn

Có thể nói, Phước Tích còn giữ gìn gần như nguyên vẹn vẻ đẹp nguyên sơ của đời sống sinh hoạt gắn liền phong cảnh hữu tình thôn quê, không gian kiến trúc cổ nhà rường, đền, chùa, miếu cổ, nghề gốm truyền thống… xứng đáng là một làng văn hóa di sản đặc sắc của Miền Trung và cả nước.

Giáo sư - Kiến trúc sư Hoành Đạo Kính, Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam đã phải thốt lên khi về Phước Tích “…Tôi thật sự sửng sốt khi bắt gặp một ngôi làng Việt cổ ở vùng đất không phải là cổ xưa của người Việt. Trên mảnh đất này, có quá nhiều những ngôi nhà rường cổ vẫn tồn tại qua nắng mưa và nghèo khó một cách kỳ diệu. Sự phát hiện này được ví như việc tìm ra một Hội An “bị quên lãng” vào những năm 80 thế kỷ XX…”

Quả thật, từ khi được đánh thức “vén bức màn quên lãng” trong lớp bụi thời gian(từ năm 2003) đến nay, Phước Tích đã trở thành một điểm tham quan du lịch hấp dẫn của đông đảo du khách trong và ngoài nước. Đã góp mặt trong các kỳ Festival Huế với thương hiệu “Hương xưa làng cổ”. Từ đó đến nay rất nhiều dự án nghiên cứu bảo tồn làng cổ Phước Tích đã được thực hiện. Đặc biệt trong hai ngày 17 - 18/8/2011 vừa qua, Dự án “Phát huy vai trò của cộng đồng trong phát triển bền vững thông qua du lịch di sản” do cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) hỗ trợ đã được thực hiện tại Phước Tích, với nhiều hoạt động văn hóa, du lịch, tọa đàm… nhằm tìm giải pháp phát triển du lịch, cải thiện đời sống người dân, góp phần bảo tồn và phát triển bền vững làng cổ.

Với những nỗ lực bảo tồn gìn giữ của người dân Phước Tích, cũng như các cấp ngành chức năng ở TT - Huế và bạn bè quốc tế, làng cổ Phước Tích đang trở thành một địa chỉ văn hóa du lịch hấp dẫn, một bảo tàng sống động của lịch sử văn hóa làng quê đặc sắc của Việt Nam.

Du lịch, GO! -  Theo VOV, internet
Mường Hum nổi tiếng với những con suối đẹp, những ngọn núi nhấp nhô vây quanh một thung lũng là trung tâm của 8 xã thuộc huyện Bát Xát (Lào Cai). Để đến được nơi đây, du khách phải vượt qua những con dốc ngoằn ngoèo, những con đèo được gọi là "cổng trời”. Khi đến được Mường Hum, ai nấy đều như cảm thấy rơi tõm vào một không gian đặc sắc.

Mường Hum hội tụ chủ yếu các dân tộc Dao đỏ, Mông, Giáy, Hán, Hà Nhì... Con gái Giáy nơi đây nổi tiếng đẹp. Vào mỗi phiên chợ chính (ngày chủ nhật), người dân trong vùng đổ về đây buôn bán, mua sắm rất đông. Những cô gái xúng xính váy áo, tay cầm điện thoại bấm "tít tít” rất thành thục. Họ nói dẻo và có duyên. Nếu ai cần, họ sẵn sàng làm một hướng dẫn viên, đưa về bản họ tham quan mà không cần bất cứ một đồng lệ phí nào. Sự thân thiện và nhiệt tình đã làm nên cuộc sống đầy bản sắc của con người nơi đây.

< Cầu Mường Hum.

Ba năm trước, trong hành trình về vùng cao Y Tý, tôi đã ở lại Mường Hum vài ngày và thăm thú các bản làng. Nụ cười của những em bé, những cụ già đã để lại trong tôi nhiều ấn tượng.

Anh bạn tôi là dân phượt "chính hãng” đã nói thế này: "Tôi đi vùng cao nhiều, nếu đến Lào Cai mà bỏ qua chợ Mường Hum thì cũng thật đáng tiếc.

Hàng hóa ở đây ngày càng đa dạng, khi đường xá được cải thiện. Rất nhiều món ăn để du khách lựa chọn. Riêng tôi thích nhất món lợn cắp nách. Ngày thường, ai đến đây cũng thích ngắm cảnh Mường Hum sơn thủy hữu tình, còn vào ngày chợ phiên cảnh bắt mắt du khách nhất là đoạn suối ven chợ.

Bên bờ suối, bầy ngựa đợi chủ vào chợ với đủ sắc lông, thỉnh thoảng chúng cất tiếng hí vang khiến bức tranh sơn cước càng thêm sinh động, rất hiếm thấy ở nơi khác...”

Chợ Mường Hum nằm dưới thung lũng nhỏ, kề bên là suối nước trong vắt. Đối với bà con dân tộc trong vùng, đi chợ không chỉ để mua bán.

Chợ phiên còn là nơi thư giãn, hẹn hò của nhiều nam thanh nữ tú. Người ta đến đây để ngắm và để được mọi người chiêm ngưỡng.

Các thiếu nữ Dao ăn mặc thật đẹp và rất cầu kỳ: khăn đội đầu màu đỏ, gấp nếp xuống tận tai. Các thiếu nữ Mông váy hoa sặc sỡ, lại đội thêm mái tóc giả bằng len sợi nhuộm màu trông giống như một bông hoa biết đi, lung linh khoe sắc.

Tôi không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh vật mà còn thấy cuộc sống con người nơi đây thật yên bình, vui tươi và mong muốn có dịp được trở lại nơi này.

Mường Hum chỉ cách Bản Vược - trung tâm huyện lỵ cũ của huyện Bát Xát 24 km nhưng khá biệt lập với bên ngoài, bởi địa bàn xã nằm lọt trong thung lũng, bốn phía vây quanh là núi. Trải qua nhiều biến động lịch sử,

Mường Hum vẫn luôn giữ vai trò thủ phủ vùng Tây Bắc của tỉnh Lào Cai. Hiện nay Mường Hum còn lại dấu tích những biệt thự cổ, những đồn bốt từ thời phong kiến cho đến cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Nơi đây còn có những con suối đẹp, đặc biệt là suối Mường Hum đã từng đi vào thơ ca, nhạc họa. Suối Mường Hum là tên gọi chung cho dòng chảy hợp lưu từ Piềng Láo và Nậm Pung Hồ chảy về.

Dòng suối và tình yêu cuộc sống của cư dân bản địa là nguồn cảm hứng dạt dào cho nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ viết nên ca khúc Suối Mường Hum còn chảy mãi nổi tiếng qua mấy chục năm.

Nhiều đoàn khách đến với Mường Hum vẫn bị hút hồn bởi những khu ruộng bậc thang và những đồi chè xanh mướt mát. Thêm nữa, họ còn bất ngờ vì nơi đây vẫn còn giữ được các cánh rừng nguyên sinh.

Rừng tạo nên dáng vẻ thâm u huyền tích, giữ cho không khí trong lành, cho suối nguồn còn chảy mãi, cho mỗi nếp nhà dưới núi cao vách đứng được an lành, không bị tàn phá bởi những cơn giận dữ của thiên nhiên. Đó thực sự là điều mà rất nhiều nơi không thể nào lấy lại được, bởi rừng đã bị con người xâm hại.

Tỉnh Lào Cai cũng xác định Mường Hum là vùng đất không những giàu tiềm năng kinh tế, mà còn chất chứa tài nguyên nhân văn, phù hợp cho chiến lược phát triển kinh tế du lịch. Khu vực này có nhiều địa điểm đáng đưa vào chương trình tham quan, tìm hiểu lịch sử, phong tục tập quán, bản sắc văn hóa dân tộc. Đơn giản nhất là loại hình du lịch tham quan chợ phiên, tìm hiểu nghệ thuật ẩm thực và du ngoạn tắm suối Mường Hum.

Nhìn một cách tổng thể, du lịch Mường Hum vẫn chưa thể so sánh với những khu du lịch làng bản khác của Lào Cai như Tả Van, Tả Phìn... Bởi dẫu sao, nơi đây kinh tế vẫn còn chậm phát triển và chưa được đầu tư xứng đáng.

Nhưng có người đánh giá, Mường Hum giống như một nàng công chúa ngủ quên trong rừng. Nếu được quan tâm, thì vẻ thơ mộng của núi rừng nơi đây sẽ là điểm đến lý tưởng của hàng ngàn du khách mỗi năm, giúp cho kinh tế trong khu vực có điều kiện phát triển.

Du lịch, GO! -  Theo báo Đại Đoàn Kết, ảnh internet
Khởi nguồn từ biên giới Việt Trung trên dãy Kiều Liên Ti cao 2.144m của tỉnh Hà Giang, sông Chảy chảy theo hướng từ đông sang tây, từ Hoàng Su Phì qua Xín Mần đến Mường Khương rồi hợp lưu với sông Lô ở huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ.

Tại ranh giới của 2 xã Bảo Nhai và Cốc Ly của huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai, sông Chảy mang vẻ đẹp thơ mộng như gợi nhắc về một miền cổ tích xa xăm.

Du lịch sông Chảy gắn với khám phá thiên nhiên của Lào Cai từ lâu đã là một sản phẩm khá nổi bật và được nhiều du khách nước ngoài chọn lựa.

Tour hiện nay dành cho du khách là xe ô tô đưa tới tham quan chợ Cốc Ly, sau đó đi bộ chừng 2km, qua đập thủy điện Bắc Hà, xuống cây cầu đường bộ Cốc Ly mới bắc qua sông Chảy. Tại chân cầu, có nhiều thuyền du lịch đã đợi sẵn.

Thuyền ở đây thuộc một số hợp tác xã vận tải đường sông, có trụ sở tại thị tứ Bảo Nhai. Thuyền nào cũng có biển đăng kiểm, có áo, có phao cứu sinh, tài công có giấy phép điều khiển phương tiện đường sông phù hợp và rất nhiệt tình, hành trình từ Bảo Nhai đến hang Tiên mất khoảng hơn một giờ đồng hồ.

Du khách lên thuyền xuôi dòng sông Chảy là xuôi theo dòng cổ tích. Từ xa xưa, dòng sông này đã được dân gian truyền tụng là dòng sông dành cho các vị tiên trên trời xuống tắm và thưởng ngoạn trần gian.
Trên thuyền, chúng tôi được chiêm ngưỡng cảnh đẹp của sông nước, của núi rừng vùng cao hai bên bờ, vào mùa nước cạn nên đôi chỗ nhìn rõ cả sỏi dưới đáy sông. Một vài đoạn, thậm chí thuyền còn phải lựa dòng, vừa tránh dòng nước, vừa tránh mắc cạn.

Cảnh vật hai bên sông là những bản làng, những ngọn núi đá lô nhô. Khe hang Tiên trước mặt, vách núi có hình con hổ đang vươn mình, con hổ với những sọc vàng đen, hùng vĩ và ấn tượng. Đi sâu vào khe sông Chảy, hai bên bờ, vách đá với muôn hình vạn trạng, cây cối xanh um, nước chảy tí tách nhỏ xuống sông như cơn mưa rào nhẹ. Gờ đá trước cửa hang uốn lượn theo những hình thù kỳ lạ, trông rất hấp dẫn.

Dòng sông Chảy có chỗ thắt lại tạo thành dòng sâu, hiền hòa, len lỏi giữa hai bờ vách thành dựng đứng. Hai bên là cánh rừng nguyên sinh, phủ lên cảnh quan một miền khí hậu trong lành, mát mẻ. Những dòng suối nhỏ từ trên cao đổ xuống như dải lụa, mờ ảo, lất phất như mưa bay. Dòng nước như người thợ điêu khắc lành nghề đục vào vách đá tạo nên những đài sen nổi, những nhũ đá muôn hình vạn dạng. Kia là chú voi đang cúi đầu uống nước, đây là con đại bàng cất cánh bay lên…

Nước từ những tán cây nhỏ xuống như mưa, thuyền chúng tôi như đi dưới một cơn mưa rào nhè nhẹ, dấu tích của tiên giới như các vòm thạch nhũ, những thác nước trong vắt và hang Tiên kỳ ảo ngay mép nước.
Hai bên sông là thảm thực vật mướt xanh, những chi lưu tiếp nước cho dòng chảy, và thắng cảnh hang Tiên không chỉ là nơi dừng chân khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên huyền bí, mà còn là địa chỉ khảo cổ rất có giá trị.

Trong mùa cạn thì lòng sông lộ sẽ ra những bãi cát, bãi sỏi rộng, nhiều bãi cách bờ bằng một lạch sông nhỏ. Thuyền trôi ngược dòng chừng hơn một tiếng đồng hồ, bác lái thuyền chỉ tay và bảo:

Đến nơi rồi! Trước mặt chúng tôi là vách núi cao, cây cối um tùm. Thuyền đáp vào một bãi cát nhỏ nằm ven chân núi. Chúng tôi rời thuyền và leo lên những vách đá để vào hang.

Trước mặt là cửa hang to, rộng, cao hơn mặt bãi cát chừng 7 - 8 mét. Hang Tiên khá rộng, có sức chứa cả trăm người, chúng tôi có cảm giác như lạc vào một mê cung kỳ vĩ do thiên nhiên ban tặng với những nhũ đá muôn màu và hình thù kỳ thú trên những vách đá trong lòng hang.

Qua hang Tiên, thuyền trôi êm đềm vài cây số là tới địa phận làng Trung Đô - ngôi làng từng là nơi luyện quân, tập hợp nghĩa binh của An Tây Vương - Gia Quốc công Vũ Công Mật, cùng tướng quân bản địa Hoàng Vần Thùng, ngày nay là một trong những địa chỉ văn hóa tâm linh nổi bật của Bắc Hà.

Tới Trung Đô, du khách được tìm hiểu quá khứ hào hùng của một thời dựng nước và giữ nước, được thưởng ngoạn những tiết mục múa cổ truyền của người Tày địa phương.

Những giá trị đó kết nối một dòng sông và triền văn hóa, tạo nên sức hấp dẫn lớn. Nếu như Bắc Hà quan tâm hơn đến việc dựng một số điểm dừng chân hợp lý và có thuyết minh viên tâm huyết, thì chắc chắn du khách muốn trải nghiệm dòng sông cổ tích này sẽ ngày càng đông.

Du lịch, GO! -  Tổng hợp

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống