Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Tuesday, 27 March 2012


La Défense (trong tiếng Pháp có nghĩa là « phòng thủ »), nghe cái tên thôi đã khiến ta liên tưởng tới một khu phố quân sự kiểu dạng lầu năm góc Pentagone của Mỹ. Nhưng không, trên thực tế đây là khu phố tài chính lớn nhất Châu Âu, một dạng Wall Street hay Manhattan của Pháp.  Vậy tại sao nó lại có tên là la Défense ? Tên có nguồn gốc từ một bức tượng của nhà điêu khắc Louis Ernest Barrias và có tên là  « la Défense de Paris ». Được tạc vào năm 1883, mục đích của tác phẩm nghệ thuật này là để tưởng nhớ những chiến binh đã hết mình bảo vệ thủ đô trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ năm 1870. 


 Ban đầu, khu phố La Défense chỉ là một khu công nghiệp tồi tàn với vài xưởng sản xuất ôtô, một khu phố ổ chuột và những nông trại. Bắt đầu từ năm 1958 dưới thời Charles de Gaulle, chính phủ mới bắt đầu quan tâm đến việc quy hoạch miền đông Paris và biến La Défense thành một khu phố hiện đại.  

Trung tâm công nghệ thông tin CNIT là tòa nhà đầu tiên được xây dựng tại khu phố này. Khánh thành vào năm 1958, đây là công trình có mái vòm rộng nhất thế giới và rất đa năng : bên trong có phòng hội thảo, nhà hàng, văn phòng và thậm chí là một khách sạn cao cấp.

  Nằm trên vị trí chiến lược nơi có nhiều trụ sở của các tập đoàn lớn, La Défense được coi là khu phố kinh doanh lớn nhất Châu Âu về diện tích cũng như số lượng trụ sở các tập đoàn lớn. Có đến hơn 1500 doanh nghiệp chọn đây làm đại bản doanh và 15 trong số top 50 tập đoàn hàng đầu thế giới đang đóng quân ở đây. 


Hàng loạt nhà cao tầng chọc trời được xây dựng lên để làm văn phòng. Lịch sử của khu phố gắn liền với số mệnh của các tòa nhà này, có những tòa đang trong quá trình xây dựng, một số tòa thì sẽ phải phá đi xây lại.
Chính vì đây là nơi tập trung các trụ sở chính của các công ty lớn, các công ty này đã cho khởi công xây dựng một đại bản doanh theo phong cách của riêng mình và mục đích là để xây một tòa nhà sao cho đáng đồng tiền bát gạo, độc đáo về kiến trúc để bắt mắt người đi bộ. 


Có vẻ như khuynh hướng chạy đua về chiều cao các tòa nhà cao tầng sẽ còn tiếp diễn trong những năm tới. Có khoảng 8 dự án xây dựng sẽ kết thúc vào 2013-2016. Trong số các dự án này, phải kể đến tòa nhà Hermitage Plaza (323m), tòa Generali (318m), tòa Phare (300m), AIR2 (220m), First (231m)

La Grande Arche được xây dựng vào năm 1989 có hình thù giống một bao diêm khổng lồ. Để xây được nó, người ta cần hàng nghìn tấn thép, thủy tinh và cẩm thạch trắng



Thursday, 22 March 2012


Tôi quyết định đi Budapest là do lời giới thiệu của một người bạn Pháp vừa đi weekend ở đó về. Cậu ta nói với tôi : « này, đi chỗ đó vui lắm đấy. Có cả một khu tắm nước khoáng nóng ! ». Nghe đã thấy hấp dẫn rồi, ở giữa thủ đô mà lại có nguồn nước khoáng nóng à ? Thế là tôi quyết định đi. Với lại tôi cũng đã từng nghe nói qua Budapest như là « viện ngọc sáng của sông Danube », nghe cái tên kêu phết. Dù gì thì Budapest cũng có một vị thế nhất định trong Châu Âu , cũng từng là thủ đô của đế chế Áo-Hung chứ không phải là một thành phố vớ vẩn đâu.

Điểm sáng nhất : bể tắm nước khoáng nóng
Trong tất cả các quyển hướng dẫn du lịch như Lonely Planete, Budapest luôn được coi như thành phố vô địch trên thế giới về số lượng phòng tắm nước khoáng với nhiệt độ từ 21°C đến 78°C. Vì thế nên đến đây mà không ngâm mình ở đâu đó thì coi như chưa đến Budapest. Tất cả các khách sạn thậm chí là 2 sao cũng được trang bị dịch vụ spa hoặc dịch vụ chăm sóc sức khỏe từ nước khoáng hoặc ít nhất một bể tắm. Cái đó không có ở bất cứ nơi đâu vì bình thường phải từ 4 sao trở lên thì khách sạn mới được trang bị bể spa (theo tiêu chuẩn thông thường). Trong 2 ngày ở Budapest, tôi đi tắm ở 2 bể nổi tiếng nhất của thủ đô : Szechenyi (bể ngoài trời) và Gellert (bể trong nhà). Hai bể này có những đặc điểm khá khác nhau : nếu như Szechenyi dành cho người dân công chúng thì Gellert có vẻ như thượng lưu hơn. 

Lối kiến trúc của Szechenyi thiên về La Mã và Hy Lạp cổ và được xây dựng vào năm 1879. Tại đây thì có thể dễ dàng gặp người dân Budapest hơn, chắc là do giá vé vào cửa rẻ hơn.
Vào buổi chiều, có rất nhiều người Hungary về hưu đến đây vừa ngâm mình vừa so tài cờ vua
Gellert nằm ngay trung tâm thành phố nên thuận tiện cho đi lại hơn là Szechenyi và lối kiến trúc thì thiên về dòng Belle Epoque (1870-1914), rất tao nhã.


Budapest, thành phố di sản của Unesco
Budapest không chỉ sở hữu những bể nước khoáng nóng mà còn là cả một quần thể kiến trúc tráng lệ. Tôi rất thích sự pha trộn giữa kiến trúc và lối sống nơi đây : những tòa nhà tráng lệ sơn màu vàng thổ (giống mấy tòa nhà kiến trúc Pháp cổ ở Hà Nội, như dinh chủ tịch gần lăng bác chẳng hạn), những quán café sách nhộn nhịp hay những quán trọ nơi người ta lui tới để nghe nhạc Zigan vào xế chiều. Và tôi cũng rất thích cái cảm giác khác biệt khi đi từ Buda sang Pest. À quên, cũng phải nói là thành phố Budapest là sự hợp nhất của hai phần thành phố bị sông Danube chia ra : Buda («khu phố cổ ») và Pest (« khu phố mới »). Nếu như bên Buda tràn đầy vẻ trung cổ thì bên Pest lối kiến trúc Art Nouveau có mặt ở khắp nơi.

Khu phố cổ Buda
Khu đồi Buda là biểu tượng của lòng kiên định dân tộc Hungary chống lại giặc ngoại xâm.Lịch sử của Buda gắn liền với số mệnh của hoàng gia Hungary, từ những giai đoạn đỉnh cao (XIV-XV), giai đoạn kháng chiến trường kỳ chống ngoại xâm Thổ Nhĩ Kỳ và Mông Cổ (XV) và giai đoạn đỉnh điểm thứ 2 (XVI) khi mà Budapest trở thành một trong những trung tâm quan trọng nhất của dòng nghệ thuật Phục Hưng Châu Âu. Nhưng thật không may mắn là Hungary một lần nữa bị giặc Thổ xâm lược và chịu quy phục trong vòng vài trăm năm và rất nhiều công trình kiến trúc cổ bị phá hủy. Phải chờ đến thế kỷ XVIII, Budapest mới trở lại thời hoàng kim khi đế chế Áo-Hung ra đời. Cũng tại thời điểm đó, thủ đô bắt đầu được bổ sung thêm nhiều tòa nhà theo dòng kiến trúc barốc và classic


Lâu đài hoàng gia, nơi ở của tất cả các vị vua Hungary. Công trình kiến trúc này bị phá đi rồi xây dựng lại rất nhiều lần do những cuộc xâm lăng của giặc Thổ Nhĩ Kỳ và Mông Cổ. Gần đây nhất, khu vực còn là nạn nhân của những cuộc tàn phá bằng bom của phát xít Đức và hồng quân Liên Xô. Phải mất hơn 20 năm, toàn bộ quần thể kiến trúc lâu đài mới được hoàn trả phần nào vẻ đẹp xưa kia. 


Xung quanh lâu đài hoàng gia là một loạt dãy phố với những ngôi nhà biệt thự xây theo dòng kiến trúc barốc nhiều màu.


Nhà thờ Matthias được đặt tên theo vị vua Matthias tại vị vào thế kỷ XV. Khi người Thổ xâm chiếm Hungary, chúng chiếm luôn cả khu lâu đài. Nhà thờ lúc bấy giờ bị biến thành chuồng ngựa. 
 Nhưng khi chúng bị đánh đuổi đi, cả thành phố cũng như nhà thờ trở lại theo đạo Thiên chúa giáo. Theo truyền thuyết kể lại, trong trận đánh then chốt chống lại quân Thổ, người ta thấy Đức mẹ Mari hiện ra trước mắt chúng báo hiệu chiến thắng cho người Hungary. 


Ngư phủ có vẻ bề ngoài khá giống Disneyland. Trước kia, xung quanh lâu đài có rất nhiều ngư dân và họ đã góp công sức không nhỏ trong công cuộc bảo vệ khu vực và công trình này được xây dựng vào đầu thế kỷ 20 để ghi công họ.
  7 ngọn chòi canh tượng trưng cho 7 trưởng bộ tộc Hungary, những người đã lãnh đạo và đưa dân tộc Hungary chuyển đến sống ở lưu vực sông Danube vào thế kỷ IX. 
Budapest có tất cả 7 con cầu bắc qua sông Danube nhưng cầu treo này là cầu cổ nhất, được xây dựng vào năm 1849. Đây được coi là biểu tượng của sự hợp nhất giữa Buda và Pest xưa kia là hai khu vực đối thủ của nhau.
Lịch sử con cầu này cũng rất đặc biệt. Một vị bá tước tên là Szechenyi muốn xây một con cầu để có thể qua bên kia sông tham dự lễ an táng người bố ruột của mình. Ông giao trách nghiệm thiết kế cho kiến trúc sư người Scotland William Terney Clark. Có thể đó là nguyên nhân vì sao cầu này có vẻ bề ngoài khá giống cầu treo của London.
 Đài tưởng niệm những vị anh hùng được xây vào năm 1896 nhân dịp kỷ niệm tròn 1000 năm dân tộc Hungary chuyển đến sinh sống trong lưu vực sông Danube. Các bức tượng miêu tả những trưởng bộ tộc đã từng dẫn dắt dân tộc Hungary đến đây năm 896. 

 Tòa nhà quốc hội có dáng vẻ bề ngoài khá giống với tòa nhà Westminster của London. Cũng phải thôi vì cả hai công trình kiến trúc đều được xây dựng vào cuối thế kỷ 19 khi mà dòng kiến trúc neo- gôtích đang rất thịnh hành. 

Hễ có một thành phố nào có bề dày lịch sử là có một con sông lớn chảy qua, quả thật không sai. Và hễ có một con sông là có dịch vụ du ngoạn trên sông. Thế nên tôi cũng nhảy lên một chiếc tàu đậu bên bờ sông Danube và hòa mình vào dòng người khách du lịch tứ xứ.

Wednesday, 21 March 2012


Người Việt Nam có cơm còn người Rumani có món mamaliga, một loại bột ngô pha trộn với nhiều thành phần khác. Có nguồn gốc ở nông thôn, món này thường là thức ăn dành cho gia đình nghèo tại những vùng hẻo lánh và được dùng để thay cho bánh mì và thường ăn kèm với các món khác. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, mamaliga có khuynh hướng trở thành một món ăn đắt tiền được phục vụ trong các nhà hàng cao cấp. Nhưng mà…cách đây hơn một nghìn năm, ở Châu Âu thì làm gì có bột ngô ? Như vậy tức là nguyên liệu làm món mamaliga chắc chắn xuất xứ ngoài Châu Âu. 


Không khó để nhận thấy rằng bắp ngô được du nhập vào Châu Âu vào thế kỷ 16, sau khi người Tây Ban Nha tìm ra Châu Mỹ rồi chở từ đó về.  Người Châu Âu nhận ra rằng muốn trồng được ngô thì phải tìm ra một vùng đất có độ ẩm và nóng hợp lý và dòng sông Danube chính là câu trả lời cho loại ngũ cốc này. Theo một nhà sử học Hungary, bắp ngô được du nhập vào Rumani vào khoảng thế kỷ 17 và bột ngô nhanh chóng trở thành một nguồn lương thực chủ đạo cho người dân nơi đây khi mà nạn đói hoành hành khắp Châu Âu vào thế kỷ 17-18. Sự hiện diện của món mamaliga từ bột ngô được xác nhận chính thức vào năm 1873 bởi một quyển từ điển của Pháp mang tên Larousse. Trong đó có ghi rõ định nghĩa của món này : « Mamaliga = một loại súp bột ngô, trong các thung lũng dọc theo sông Danube ». 


Theo truyền thống rumani, mamaliga được chuẩn bị giống như nấu cháo của Việt Nam. Người ta cho bột ngô vào trong nước đun sôi và dùng một chiếc que bằng gỗ để quấy đều. Khi đặc dần, mamaliga nhiều khi có độ đông cứng nhất định đến mức cứng như bánh bao và có thể cắt ra thành từng lát được. Do mamaliga dễ dính vào bề mặt kim loại nên không thể dùng dao để cắt được, người Rumani dùng một sợi dây mỏng như dây chỉ và cắt xoẹt một cái. 


Nhiều gia đình Rumani trộn mamaliga vào một bát sữa nóng hoặc thậm chí cho vào chảo rán lên.   Khi tôi đi du lịch bên Rumani, mamaliga được ăn mọi lúc từ bữa sáng đến bữa tối y hệt như cơm của mình vậy. 

bữa sáng, mamaliga ăn kèm với trứng ốp lếp. Mamaliga có hình dạng giống như bánh rán
Bữa trưa, ăn kèm với thịt bò xào. Mamaliga lại có hình dạng giống cục phomát

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống