Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Thursday, 12 April 2012

Nói đến sản phẩm đặc sắc của các làng nghề truyền thống ở Huế, có lẽ nón lá được nhiều người biết đến hơn cả.

Bởi hàng trăm năm nay, nón lá không chỉ là vật dụng thân thiết che nắng, che mưa gắn bó với đời sống hàng ngày của mỗi người dân Huế, mà hơn thế nó đã trở thành một đặc sản văn hóa “nón bài thơ” gắn với hình tượng của người con gái Huế. “Gió cầu vương áo nàng thôn nữ/Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ...”(Đông Hồ).

Nghề làm nón lá hình thành và phát triển ở Huế từ hàng trăm năm nay, với rất nhiều làng nón nổi tiếng như: Dạ Lê, Phú Cam, Đốc Sơ, Triều Tây, Kim Long, Sịa...

Ngày nay nghề làm nón lá tuy không thịnh vượng như xưa, nhưng vẫn còn đó những làng nghề, những người thợ tài hoa âm thầm gắn bó với nghề chằm nón. Mỗi năm các làng nghề làm nón ở Huế cho ra thị trường hàng triệu chiếc nón, không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ tại chỗ, mà còn là món quà lưu niệm đặc sắc cho du khách bốn phương mỗi khi đến Huế.

Nón lá Huế, đặc biệt là nón bài thơ được nhiều du khách ưa chuộng bởi sự thanh thoát nhẹ nhàng, như không còn là chiếc nón đơn thuần mà là một tác phẩm nghệ thuật thực sự. Để có được chiếc nón ưng ý đưa ra thị trường, các nghệ nhân làm nón Huế phải trải qua nhiều công đoạn tỷ mỷ lắm, công đoạn nào cũng đòi hỏi sự cần mẫn khéo léo của đôi tay người thợ. Từ chọn khung, uốn vành, lợp lá, cắt hoa văn, rồi đến chằm hoàn thiện chiếc nón và cuối cùng là đánh bóng bảo quản, đưa ra thị trường.

Vì thế, trong các làng nghề làm nón, sự phân công lao động được thể hiện rất cụ thể, thợ làm khung, thợ chuốt vành, thợ chằm nón...mỗi người một việc rất chuyên nghiệp. Làm khung chuốt vành là công đoạn đầu tiên quyết định độ khum, độ tròn, hình dáng, kích cỡ của chiếc nón. Khung nón được làm bằng gỗ nhẹ, có mái cong đều với nhiều kích cỡ, thường khung nón được làm một lần dùng vài chục năm, nếu không có sự thay đổi mẫu mã theo nhu cầu thị trường. Vành nón được làm bằng thân cây lồ ô, cây mưng có rất nhiều ở Thừa Thiên -Huế, được chẻ, chuốt tròn thanh thoát, mỗi chiếc nón từ 15 - 16 vành, mà xưa nay nhiều người vẫn ví như “16 vành trăng”.

Lá làm nón ở Huế cũng là loại lá nón bình thường, nhưng được tuyển lựa xử lý qua nhiều khâu, hấp, sấy, phơi sương, ủi phẳng sao cho mặt lá giữ được màu trắng xanh mới đạt tiêu chuẩn. Tiếp đến là công đoạn lợp lá, đặt hoa văn, biểu tượng giữa hai lớp lá sao cho cân đối hài hòa trong không gian của chiếc nón, để khi  soi lên trước ánh trời các hoa văn biểu tượng hiện rõ cân đối. Biểu tượng ẩn hiện trong nón lá bài thơ thường là hình ảnh Cầu Trường Tiền, Núi Ngự Bình, Ngọ Môn, Phu Văn Lâu, Cầu Ngói Thanh Toàn...

Đi kèm theo các biểu tượng là một số câu thơ nổi tiếng viết về Huế được cắt bằng giấy bóng ngũ sắc, nên càng nổi bật giữa nền xanh trắng của lá nón. Chằm lá vào vành là công đoạn quan trọng nhất, đòi hỏi người thợ phải có sự cần mẫn khéo léo để đường kim, mũi cước thẳng, đều mềm mại theo độ cong của vành nón. Công đoạn này thường do người phụ nữ thực hiện, vì thế ở các làng nón, con gái được dạy nghề rất sớm, 14 - 15 tuổi đã thành thạo nghề. Nón lá sau khi hoàn tất được quét một lớp dầu bóng bằng nhựa thông pha cồn để tăng độ bóng, độ bền, chống thấm nước rồi mới đưa ra chợ bán.

Chợ Huế nào hầu như cũng có hàng nón, từ các chợ lớn như Đông Ba, An Cựu, Bến Ngự... đến các chợ nhỏ như Sịa, Phò Trạch ở đâu cũng có thể mua được chiếc nón lá Huế. Đặc biệt chợ Dạ Lê là chợ chuyên bán nón được duy trì từ hàng trăm năm nay, là đầu mối lớn để nón Huế vào Nam, ra Bắc.

Hiện nay, du lịch đang phát triển mạnh ở Huế, nón lá trở thành mặt hàng lưu niệm mang nét văn hóa đặc sắc của Huế được du khách ưa chuộng. Rất nhiều du khách đã về tận các làng nón để được tận mắt chứng kiến và tham gia vào các công đoạn của nghề làm nón. Không ít người đã thực sự bất ngờ và thích thú khi được người thợ nón lưu ảnh, tên của mình trên chiếc nón bài thơ mang về làm kỷ niệm.

Chị Nguyễn Thị Thúy- một nghệ nhân làm nón nổi tiếng ở làng nón Phú Cam, Người đã từng được mời sang Nhật Bản biểu diễn và triển lãm nghề làm nón Huế, cho biết: Không ngờ nón Huế mình lại được nhiều người biết và ưa thích như thế, cứ mỗi lần chằm nón biểu diễn cho du khách xem là tui tự hào lắm...

Quả thật, trên đường phố Huế, tôi đã gặp không ít nữ du khách nước ngoài rất duyên dáng với chiếc nón Huế, không thua kém gì con gái Huế, cho nên nhiều người cho rằng nón bài thơ là một nét duyên của Huế. Chính vì vậy, nón bài thơ Huế cũng là một kênh quảng bá hình ảnh Huế rộng rãi mà hiệu quả nhất trong số các sản phẩm làng nghề truyền thống Huế hiện nay.

Cầm chiếc nón lên, ta không chỉ bắt gặp Huế trên từng đường kim, mũi cước của người thợ nón Huế, mà còn gặp cả chiều sâu văn hóa Huế qua hình ảnh biểu tượng của Huế, qua những câu thơ đi cùng năm tháng với Huế “...con sông dùng dằng con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu...”(Thu Bồn). Hay “...Sông Hương hoa rượu ta đến uống/ Ta tỉnh đền đài ngã nghiêng say...”(Nguyễn Trọng Tạo)...

Dẫu bây giờ, trên đường phố Huế, nón lá không còn rợp bóng như ngày xưa mỗi buổi tan trường, nhưng nó đã trở thành một nét văn hóa, một nét duyên không thể thiếu trong đời sống văn hóa Huế, đặc biệt là đối với người phụ nữ Huế.

Nón lá có ở ba miền nhưng với Huế thì chiếc nón lá đã thể hiện được nét đẹp của cả một vùng văn hóa và đã trở thành biểu trưng cho vẻ đẹp, sự dịu dàng, thanh mảnh, duyên dáng của người phụ nữ Huế. Dù xuất hiện ở đâu, chiếc nón Huế vẫn mang đậm hồn quê, vẫn mang đậm hương đồng, gió nội của những làng nghề truyền thống, nơi đã sản sinh ra nó. Nón lá Huế từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác của các nghệ sĩ Huế và của những người yêu Huế.

Nón lá Việt Nam

Du lịch, GO! - Theo tạp chí Quê Hương, ảnh internet
Từ chuyến đi Đà Nẵng - Thạnh Mỹ - Khâm Đức... đã về đến nay, cứ săm soi ảnh là mình lại tiếc nuối điều này: Bãi Chuối và đỉnh mũi Hải Vân - nơi muốn đến nhưng bọn mình đã không đến được!

< Từ cua tử thần 1 trên đèo Hải Vân (phía Đà Nẵng) nhìn vào: đường như thế này.

Một nơi không dấu chân người (ngoại trừ những người khai phá đường, người  tử nạn và người cứu hộ) thì chắc chắn sẽ vô cùng đẹp đến mức đầy đủ nhất của cụm từ "hoang sơ" đến tận cùng.

< Bãi Chuối nhìn từ toa xe lửa Bắc Nam. Một "đống" hình trên Google Panoramio nhưng đã có ai đến được chưa?

Tại sao vậy nhỉ, đường có xấu thật nhưng mình cho rằng không quá sức tệ - cũng còn tương đối chạy xe được kia mà?
Hãy cứ trông các phượt gia nhà forum Phượt.com > lắm lúc bùn đất ngập cả nửa bánh xe nhưng người ta vẫn đến đích được kia mà?
< Đoạn chạy xe một mình do "nửa kia" thấy đường xốc quá, xuống đi bộ...

Bọn mình cũng từng chạy những đoạn đường đất phát khủng còn khiếp hơn khúc đường này nhưng vẫn vượt qua được nhưng đến đây tại sao lại chần chừ rồi... quay ra nhỉ?
< Nhưng vào khúc trong, đường bằng phẳng hơn. Đúng ra bọn mình lại phải tiếp tục đèo nhau mà đi nữa chứ?

"Nổi ám ảnh" (xem comment ở đây) chỉ có trong tim bà xã lúc ấy và "nửa kia" không hề nói ra cho đến lúc về nhà, còn tính mình thì giỏi chịu cực - Lúc vào lối mòn này cũng không đói (vì qua bữa tại Lăng Cô rồi), nước uống thì có đầy đủ, vậy mà...
< Đỉnh núi Hải Vân, cao hơn đỉnh đèo nhiều. Hình như do vị thế này nên mây thường quy tụ lại trên đèo - ưu tiên hơn trên đỉnh núi.

Thật tình mình không lý giải được ngoài việc bà xã cứ cho là có một thế lực siêu nhiên nào đó đã sai khiến mình nhục chí, trở ra - Riêng mình thì không tin điều này, cho là dị đoan.
< Đoạn trong như thế này. Chả hiểu nghĩ sao lại không đi, hic...

Đành! đàng nào cũng đã về rồi. Chắc chắn là nếu có một chuyến đến Đà Nẵng lần 2, ghé đèo Hải Vân lần nữa thì mình sẽ không bao giờ để vuột mất cơ hội đến bãi Chuối, đến những đỉnh cao của mũi Hải Vân và khám phá những bãi đá phía nam kỳ bí tại chốn này.
< Nhìn tít phía xa là làng Hòa Vân và bãi Lê Hùng...
Cái chấm trong ảnh là chú bọ rùa đang bay.

Nếu các bạn có địp đi cung đường này, nếu thích tô điểm chuyến đi bằng một cuộc phiêu lưu mạo hiểm nhỏ thì bạn hãy thử một lần. Mình chắc chắn một điều là những nơi kể trên tại mũi Hải Vân cực kỳ hoang sơ, hiếm dấu chân người. Tìm thông tin trước trên net thì không hề có đâu vì chả ai đến cả ngoại trừ những người khởi công ủi đường, và 2 trong số đó đã tử nạn khiến con đường "du lịch" mũi Hải Vân buộc phải bỏ hoang từ giữa năm 2009 đến nay.

< Bãi Chuối trong ảnh vệ tinh. Bạn có thể xem tại đây.

Không còn thi công, công việc dang dở nhưng vẫn còn đường, và đường thì như bạn thấy đó: đường đất đá khá gồ ghề. Nếu tính từ cua Tử Thần 1 vào đến bãi Chuối sẽ khoảng 6km. Tính từ cua Tử Thần đến bãi suối phía Nam khoảng 9km. từ cua Tử Thần đến đỉnh mũi Hải Vân cũng tương tự.
< Bãi Chuối trên Panoramio, xem đỡ buồn.

Vậy, vài thông tin mình nắm được có thể giúp bạn nào muốn đi có thể chuẩn bị trước tinh thần và vật chất:

- Đoạn dầu đường đất rộng nhưng càng về trong càng nhỏ dần, nhất là các đoạn băng rừng xuống các "đích": có thể cỏ cây đã mọc xâm lấn nhiều. Nên cẩn thận coi chừng rắn.
- Do đá và dốc nhiều nên cần chạy chậm theo những chổ bằng phẳng, không chở quá nặng - bị đá chém tét vỏ là toi đấy.

< Tra cứu bản đồ trước và trong khi đi thật cẩn thận để tránh bị lạc đường.

- Cần phải xem kỹ bản đồ Wikimapia (phóng lớn lên: bạn sẽ thấy rất rõ đường đi, các đường nhánh), nếu không có 3G xem trực tiếp thì nên chụp ảnh lại, ghi chú rõ... vì có rất nhiều ngách: dễ bị lạc đường.
- Nếu muốn có thêm nguồn thông tin thì có thể tìm gặp ông Nguyễn Bừa sống trên đỉnh đèo Hảo Vân. Ông là một trong những người leo xuống vực để tìm kiếm và đưa lên hai người xấu số tử nạn.

< Đường không quá khó, có khó là... tại ta.

- Chạy xe gắn máy: đến đoạn nào không thể chạy được nữa thì nên khóa xe và bỏ lại để đi bộ. Mình cho rằng hoàn toàn không có ai, không thể có chuyện "mất xe" được.
- Không đi một mình, nên đi ít nhất là 2 người để có gì thì hỗ trợ nhau. Từ 4 người đến... 14 người thì tuyệt vời: tới địa ngục cũng ok!
- Nên đi buổi sáng sớm để có thể trở ra vào giấc chiều tối.
< Trở ra, nhìn mây phủ trên đỉnh đèo Hải Vân giữa trưa...

- Đêm theo nước và thực phẩm, bét nhất đủ dùng cho một bữa vì... chả lẽ vào đến rồi lại quay ra thì phí "của Trời" cho: tắm táp và ngắm nghía cho thỏa chí phải một buổi là ít nhất.
- Bãi Chuối là đích đến tuyệt chiêu, nhưng mấy đích còn lại thì mình cho rằng cũng đẹp và "đã" không kém.

Mong rằng rồi cũng sẽ có nhóm bạn nào đến đó, khám phá mọi ngóc ngách trên đỉnh mũi Hải Vân, phần nhô ra biển. Bằng không thì bọn mình cũng sẽ đến đó vào lần sau - chắc chắn mình thề sẽ làm được.

Điền Gia Dũng - Du lịch, GO!

Wednesday, 11 April 2012

Ai sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Thành Nam (Nam Định) lại chẳng một lần say hương vị đậm đà, thơm ngậy của bánh cuốn làng Kênh. Những tấm bánh tráng mỏng tang, trắng trong ăn một lần nhớ mãi…

< Bánh cuốn làng Kênh nổi tiếng ngon, là món quà đặc sản của người dân Thành Nam từ xưa tới nay.

Làng Kênh nằm ở phía bắc thành phố Nam Định, thuộc xã Lộc Vượng, ngoại thành Nam Định. Từ Hà Nội du khách có thể về đây theo tuyến đường Pháp Vân - Cầu Giẽ - Phủ Lý - quốc lộ 21 - cầu vượt Nam Định rẽ trái để thưởng thức hương vị những tấm bánh cuốn làng Kênh.

Và cũng trên chuyến hành trình, bạn sẽ được thưởng ngoạn vẻ đẹp của di tích đền Trần, được tận hưởng không khí êm đềm tao nhã của thành Nam cổ kính…

< Công đoạn xay bột cổ truyền của người làng Kênh.

Thời xưa, những tấm bánh tráng mềm, mịn và mướt như lụa bạch ấy đã là thức quà quý để tiến vua, cụ tổ nghề còn được hoàng đế triều Trần sắc phong Thành Hoàng Làng. Hằng năm vào tháng 8 vua thường tổ chức mở lễ hội, mở khoa thi… Cả xã có bốn thôn, vua phân mỗi làng - thôn một nghề. Làng Kênh được giao làm bánh cuốn, chế biến các loại bánh phục vụ lễ hội.

Qua năm tháng số gia đình làm nghề bánh cuốn đã không còn nhiều như trước, nhưng hầu như các gia đình còn theo nghề vẫn giữ được chất lượng cổ truyền của bánh.

Thuở trước, người dân làng Kênh tráng bánh từ tờ mờ sáng và mang bánh đi bán tại các chợ nội thành, hoặc đi rong trên các con phố. Bây giờ khi xã hội phát triển, nhiều người có nhu cầu đi tìm cái ngon, cái đẹp, thì người dân làng Kênh lại tráng bánh tại nhà phục vụ khách du lịch gần xa để đảm bảo sự nóng sốt.

Bánh cuốn làng Kênh không có nhân thịt nhưng vẫn hấp dẫn người ăn ở màu trắng trong và mềm thơm của bánh. Người dân làng Kênh vẫn thường nói vui với nhau rằng “bánh cuốn làng Kênh như cô nàng đỏng đảnh” kể cũng không ngoa. Trong quá trình làm không cẩn thận một chút là cho dù tráng đúng kỹ thuật, bánh vẫn nhão và không ngon.

< Một lò tráng bánh ở làng Kênh.

Dụng cụ làm bánh cuốn đơn giản nhưng rất cầu kỳ. Gáo múc bột phải bằng ống nứa tép, que cất và sếu phải bằng tre, phía trong có lớp vải ôn. Vung nồi phải đạt được hai yêu cầu kỹ thuật là thấm nước và giữ nhiệt. Ngay cả lá chuối dùng để xếp bánh cũng kén lá chuối tây, nếu dùng lá chuối tiêu bánh sẽ bị đắng. Vỉ cói phải sạch và khô ráo, đậy trên một lớp lá cũng phải khô, nếu không bánh sẽ bị hỏng.

Một trong những bí quyết để có được những mẻ bánh ngon là chọn gạo ngon, hạt dài có màu trắng đục, lúc xay bột sẽ mịn và trắng. Trước đây người dân làng Kênh vẫn sử dụng gạo Mộc Tuyền để làm bánh, nhưng ngày nay được thay bằng gạo Năm Số. Gạo được ngâm kỹ trong khoảng 2 - 3 giờ trước khi xay, không nên ngâm quá lâu vì bánh sẽ bị nhão.

Người dân làng Kênh xưa và cho đến ngày nay vẫn xay bột bằng cối xay đá, vì nếu xay bằng máy bột sẽ không được mịn và khi tráng bánh dễ bị vón cục. Người xay bột thường phải xay thủ công, một tay quay cối, một tay múc từng gáo nước nhỏ đổ vào lòng cối. Theo nhịp tay, bột nước chảy từ từ theo cái nan tre từ miệng cối xuống chậu. Bột được xay nhuyễn nên mặt bánh cuốn mới được láng bóng, óng ả như vậy.

Khi tráng bánh bột thoa lên mặt lớp vải bảo ôn phải mỏng và đều, tay cầm dao xếu bánh phải hơi lỏng nhưng chắc tay. Sau mỗi lớp bánh tráng mỏng nóng hổi vừa ngả xuống, người phụ việc lại nhanh tay rắc một lớp hành đã phi thơm bóng mỡ. Mỗi lớp bánh mỏng mịn, vàng ngà điểm xuyết màu vàng của hành phi đã tạo nên nét hấp dẫn của bánh cuốn.

Bánh cuốn ngon không thể thiếu nước chấm, phải pha làm sao để nước chấm dậy mùi cà cuống. Pha nước chấm như thế nào lại là bí quyết riêng của mỗi gia đình. Theo đó, nước mắm ngon không thiên về vị nào mà phải cân bằng giữa vị mặn của nước mắm và vị ngọt của đường, vị chua của chanh và vị cay cay của ớt. Đặc biệt nước chấm không cho giấm, hương liệu bảo quản mà vẫn đảm bảo màu nâu, thơm mùi cà cuống.

Đưa tấm bánh mỏng tang lên miệng, hương thơm của bánh cùng cái giòn rụm của hành phi, mùi thơm của cà cuống mới khiến ta cảm nhận hết hương hồn của bánh cuốn làng Kênh...

Du lịch, GO! - Theo TTO, web Namdinh và nhiều nguồn khác.

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống