Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Thursday, 12 April 2012

Có một địa danh mà người ta đã từng ca ngợi là “chốn bồng lai tiên cảnh” với phong cảnh thiên nhiên hữu tình, núi non trùng điệp, hang động độc đáo... Đó là khu thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa Đền Trúc - Ngũ Động Thi Sơn.

< Đứng ở sân Đền có thể thấy được con sông Đáy hiền hoà.

Nằm cách trung tâm thành phố Phủ Lý (Hà Nam) 8 km theo quốc lộ 21A là Đền Trúc - Ngũ Động Thi Sơn (thuộc thôn Quyển Sơn, xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng). Đền Trúc nằm ven sông Đáy, dưới chân núi Cấm (hay còn gọi là núi Cuốn Sơn). Nơi đây không chỉ nổi tiếng về cảnh đẹp mà còn có lễ hội hát dặm giàu ý nghĩa, tôn vinh Anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt.

< Núi ở đền Trúc nhìn từ xa trông giống hình con voi.

Tương truyền xưa kia nơi đây bạt ngàn trúc mọc. Năm 1089, đoàn chiến thuyền của Lý Thường Kiệt khi chinh phạt phương Nam đi qua thôn Quyển Sơn, bỗng một trận gió lớn ào ào thổi tới, bẻ gãy cả cột buồm rồi cuốn lá cờ lớn của đoàn quân lên đỉnh núi.

< Lối vào rợp một màu xanh của Trúc, một cảnh đẹp hút hồn du khách tham quan.

Lý Thường Kiệt bèn cho thuyền dừng lại, cùng quân sĩ lên bờ sửa lễ tế trời đất cầu đại thắng. Lần đó, thắng lớn trở về, Lý Thường Kiệt đã cùng đoàn quân lên đây làm lễ tạ ơn, khao thưởng ba quân và mở hội cho dân làng mừng chiến thắng.

< Sân Đền luôn là nơi để tập luyện những câu hát dặm từ mấy trăm năm nay.

Sự kiện lá cờ bị gió cuốn đã khiến Lý Thường Kiệt đặt tên cho ngọn núi là Cuốn Sơn. Về sau, để tưởng nhớ công lao của vị tướng tài, dân làng Cuốn Sơn đã lập đền thờ Lý Thường Kiệt ở chính nơi ông đã mở hội đền thờ, đó chính là Đền Trúc bây giờ.

< Hàng ngày du khách đến hàng hương, đi lễ tại Đền Trúc.

Lễ hội Đền Trúc được mở vào dịp đầu xuân hàng năm từ mùng 10 tháng giêng đến mùng 6 tháng 2 âm lịch. Nét nổi bật nhất của lễ hội là trò hát dặm gồm 30 tiết mục với hơn 1.000 câu thơ tương truyền do Lý Thường Kiệt sáng tác…

< Biểu tượng con voi của đoàn quân Lý Thường Kiệt năm xưa.

Đến bây giờ lọai hình hát dặm cũng chỉ có ở nơi đây, và câu hát dặm cũng được các nghệ nhân nơi đây mang đi giới thiệu tới 16 quốc gia trên thế giới.

< Những hang động được nối thông thiên với nhau trong lòng núi.

Cạnh Đền Trúc là núi Cuốn Sơn rộng hơn 10 ha, trong lòng núi là Ngũ Động Sơn gồm 5 động liên hoàn kéo dài hàng trăm mét, ăn sâu vào lòng núi.

< Những hòn đá cổ, thạch nhũ đa dạng đẹp hút hồn tại các hang động.

Động đầu tiên không rộng lắm, trông tựa giống như hàm ếch. Cảnh trí ở đây rất đặc biệt:
Lúc bình minh ánh sáng rực rỡ rọi vào phản chiếu những sắc màu lung linh trên vách động, buổi trưa nắng lọt qua những khe lá trước động tạo thành màu xanh nhạt và buổi chiều là màu tím huyền ảo bởi ánh hoàng hôn.

< Đường lên bàn cờ tiên trên đỉnh núi Cấm.

Từ động này, một ngách nhỏ sẽ dẫn du khách đến các động tiếp theo. Trong các động vô số thạch nhũ khác nhau về hình dạng, kích thước. Có thạch nhũ mọc nhô lên từ mặt đất, từ vách động hay trần động rũ xuống.

Màu sắc nhũ, độ bóng, độ xốp của các nhũ rất đa dạng. Những hồn đá cổ, những nhũ đá mới ẩn sâu trong bóng tối khi có ánh sáng rọi vào do hơi nước phản chiếu ngời lên long lanh như châu ngọc…

< Sư tử đá...
< ... và đại bàng đá được xem là báu vật linh thiêng của hang động.

Không những thế nếu leo lên được đỉnh núi Cấm sẽ được chiêm ngưỡng bàn cờ tiên bằng đá. Tương truyền rằng, vào những đêm trăng sáng, thần tiên thường về đây mở hội, uống rượu, chơi cờ và ngắm cảnh trần thế. Gần bàn cờ tiên là một vũng vuông lõm sâu thường được gọi là huyệt Đế Vương.

Cùng với Chùa Bà Đanh, Bát cảnh Sơn… Đền Trúc - Ngũ Động Thi Sơn là một điểm du lịch lý thú, hấp dẫn du khách.

Du lịch, GO! - Theo Dantri
Người M’nông được các nhà nghiên cứu trong nước và ngoài nước chú tâm nghiên cứu bởi họ được coi là một tộc người bản địa, cư trú lâu đời tại vùng đất Nam Tây Nguyên (hay còn gọi là cao nguyên M’nông). Nền văn hóa của dân tộc này còn bảo lưu nhiều yếu tố cổ Đông Nam Á lục địa.

< Người M'nông thờ nhiều vị thần, trong đó Thần lửa mang lại may mắn và sự êm ấm cho các thành viên trong gia đình.

Người M’nông là tộc người còn tồn tại niềm tin và tín ngưỡng đa thần. Họ tin có sự ngự trị của thế lực siêu nhiên chi phối cuộc sống của con người và là yếu tố hình thành những phong tục, tập quán của dân tộc.

Người M’nông tin rằng thần linh trú ngụ khắp nơi: Thần ông bà tổ tiên phù hộ cho gia đình; thần đá bếp giữ lửa ấm, nấu ăn; thần rừng (Bõ Krõng) nuôi chim thú cung cấp lương thực cho người; thần núi (Yôk Nor); thần vũng nước sâu (Dak klõng); thần đầu suối, đầu thác (Tu diăng liăng têh) giữ nguồn nước cho làng; thần lúa và thần hoa màu cho vụ mùa bội thu, cây cối tươi tốt; thần sét ở trên trời sẵn sàng trừng phạt nếu người làm điều xấu như loạn luân; thần đất nắm hết mọi vấn đề xảy ra trên mặt đất; thần Nguăch Ngual là thần chăm voi, khi bắt voi rừng về nuôi hoặc bắn voi rừng phải cúng đủ lễ cho thần Nguăch Ngual; Phan (tin hồn người chết).

Người M’nông tin một con người có hai linh hồn: linh hồn con trâu ở trên trời, và linh hồn con nhện ở trên đất, ma quỷ muốn hại cho người chết chỉ cần bắt hồn trâu trên trời làm thịt là người ở dưới này sẽ chết, hoặc muốn cho người ốm đau chỉ cần bắt hồn con nhện đem nhốt. Hồn trâu chết, hồn nhện còn sống thì người chưa chết, cả hồn trâu và hồn nhện chết người mới chết.

Đồng bào cũng tin có thần chiêng, ché. Nhà nào có hồn chiêng ché ở cùng thì nhà đó mua được nhiều chiêng ché. Trên không trung bao la có ngự trị của thần mặt trời soi sáng bon làng.

Trong xã hội M’nông, người già, già làng (cua ranh bon) được coi trọng. Chủ làng xem dân bản như con cháu trong nhà, bảo vệ quyền lợi chính đáng của mỗi người dân.

Ông ta là người ngay thẳng không nghiêng về phía nào, khi có kẻ xấu bên ngoài gây hấn làm cho dân bản oan ức, tổn hại thì chủ làng sẵn sàng đứng ra bênh vực, bảo vệ và tổ chức đánh trả hoặc bắt phạt xứng đáng. Mọi thành viên trong cộng đồng đều tuân thủ luật tục (duôih).

Những việc tranh chấp, mâu thuẫn giữa các gia đình, dòng tộc, hàng xóm, giữa làng này với làng khác cũng đều giải quyết theo luật tục và người đứng ra phân xử phải công minh, am hiểu phong tục, tập quán và luật tục đứng ra xử phạt, dàn xếp, hòa giải giữa hai bên gọi là bu nuih phat duôih. Người M’nông có tinh thần cộng đồng, tương thân tương ái rất cao. Luật tục qui định các thành viên trong cộng đồng phải giúp đỡ nhau trong sản xuất nương rẫy, làm nhà cửa, chia sẻ trong gian khó, hoạn nạn. Khi tổ chức lễ hội, cúng kiếng thường mời nhau đến ăn uống. Săn được chim, thú lớn, đánh bắt được tôm cá nhiều đều phải phân chia theo bình quân đầu người trong bon để cho bà con, anh em cũng hưởng.

Từ niềm tin, tín ngưỡng đa thần, đồng bào có nhiều hình thức kiêng cữ phức tạp và nhiều nghi lễ, lễ hội cúng bái, ngưỡng vọng thần linh, cầu mong giúp đỡ cho cuộc sống của con người, cộng đồng. Hệ thống nghi lễ, lễ hội của dân tộc M’nông phản ánh rõ thế giới quan sơ khai về thiên nhiên và xã hội. Lễ nghi liên quan đến con người diễn ra theo chu kỳ vòng đời người, từ khi mang thai, sinh ra, lớn lên, trưởng thành, về già cho đến khi từ giã cuộc đời. Lễ hội vòng đời người mang tính nhân văn cao đẹp, đặc biệt là lễ trưởng thành, lễ cưới, lễ chúc phúc, lễ mừng thọ…

Trong lễ cưới, hai bên gia đình nam nữ phải tổ chức kể gia phả (ro giao) để tránh trường hợp lấy nhau cận huyết thống. Là cư dân sinh sống chủ yếu bằng nghề canh tác nương rẫy, trồng lúa nên lễ hội nông nghiệp cũng bám theo chu kỳ sinh trưởng của cây lúa rẫy. Những nghi lễ cúng bái, xin phép thần linh trong phát rẫy, tra hạt, gieo trồng, cầu mong cây lúa lên tốt tươi, trổ đòng chắc hạt, trĩu bông cho vụ mùa bội thu. Họ tin rằng nhờ cúng bái nên thần lúa, mẹ lúa phù hộ, chẳng những cho lúa gạo, hoa màu để ăn mà còn mang đến sự bình an, khỏe mạnh cho gia đình.

Trước khi đem hạt giống ra rẫy trồng tỉa phải cúng tưới lúa (tõ ba). Khi lúa vào kho, đồng bào rước hồn lúa (huênh ba) về nhà và cúng ăn mừng lúa mới. Năm nào được mùa thu được trăm gùi lúa, đồng bào sẽ “ăn trâu” để cúng tạ thần linh qua lễ hội tâm ngết.

Người M'nông cúng lửa

Với người Mnông, bếp lửa còn là nơi gắn kết các thành viên trong gia đình, cộng đồng; bếp lửa còn là một vị thần mang lại nhiều may mắn cho các thành viên trong gia đình.

Mỗi khi trong buôn làng có nhà nào dựng xong nhà mới, muốn dọn về ở thì việc đầu tiên là phải tổ chức nghi lễ làm bếp và nhóm lửa. Việc làm bếp của đồng bào Mnông khá công phu và tỉ mỉ. Bếp thường được làm theo hình vuông đặt phía bên phải hoặc giữa nhà, độ lớn, nhỏ tuỳ thuộc vào căn nhà rộng hay hẹp.

Trước khi đặt bếp, chủ nhà phải làm lễ cúng xin tổ tiên và các đấng thần linh cho phép được vào nhà mới. Thực hiện lễ cúng phải là người có uy tín nhất trong làng, là người nhóm lửa và bếp lửa của gia đình mới này sẽ được giữ cháy liên tục trong vòng 1 ngày 1 đêm với ước nguyện sẽ xua đuổi tà ma, thú dữ và mọi điều xui xẻo.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ báo Đắk Lắk, Danviet, internet
Nói đến sản phẩm đặc sắc của các làng nghề truyền thống ở Huế, có lẽ nón lá được nhiều người biết đến hơn cả.

Bởi hàng trăm năm nay, nón lá không chỉ là vật dụng thân thiết che nắng, che mưa gắn bó với đời sống hàng ngày của mỗi người dân Huế, mà hơn thế nó đã trở thành một đặc sản văn hóa “nón bài thơ” gắn với hình tượng của người con gái Huế. “Gió cầu vương áo nàng thôn nữ/Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ...”(Đông Hồ).

Nghề làm nón lá hình thành và phát triển ở Huế từ hàng trăm năm nay, với rất nhiều làng nón nổi tiếng như: Dạ Lê, Phú Cam, Đốc Sơ, Triều Tây, Kim Long, Sịa...

Ngày nay nghề làm nón lá tuy không thịnh vượng như xưa, nhưng vẫn còn đó những làng nghề, những người thợ tài hoa âm thầm gắn bó với nghề chằm nón. Mỗi năm các làng nghề làm nón ở Huế cho ra thị trường hàng triệu chiếc nón, không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ tại chỗ, mà còn là món quà lưu niệm đặc sắc cho du khách bốn phương mỗi khi đến Huế.

Nón lá Huế, đặc biệt là nón bài thơ được nhiều du khách ưa chuộng bởi sự thanh thoát nhẹ nhàng, như không còn là chiếc nón đơn thuần mà là một tác phẩm nghệ thuật thực sự. Để có được chiếc nón ưng ý đưa ra thị trường, các nghệ nhân làm nón Huế phải trải qua nhiều công đoạn tỷ mỷ lắm, công đoạn nào cũng đòi hỏi sự cần mẫn khéo léo của đôi tay người thợ. Từ chọn khung, uốn vành, lợp lá, cắt hoa văn, rồi đến chằm hoàn thiện chiếc nón và cuối cùng là đánh bóng bảo quản, đưa ra thị trường.

Vì thế, trong các làng nghề làm nón, sự phân công lao động được thể hiện rất cụ thể, thợ làm khung, thợ chuốt vành, thợ chằm nón...mỗi người một việc rất chuyên nghiệp. Làm khung chuốt vành là công đoạn đầu tiên quyết định độ khum, độ tròn, hình dáng, kích cỡ của chiếc nón. Khung nón được làm bằng gỗ nhẹ, có mái cong đều với nhiều kích cỡ, thường khung nón được làm một lần dùng vài chục năm, nếu không có sự thay đổi mẫu mã theo nhu cầu thị trường. Vành nón được làm bằng thân cây lồ ô, cây mưng có rất nhiều ở Thừa Thiên -Huế, được chẻ, chuốt tròn thanh thoát, mỗi chiếc nón từ 15 - 16 vành, mà xưa nay nhiều người vẫn ví như “16 vành trăng”.

Lá làm nón ở Huế cũng là loại lá nón bình thường, nhưng được tuyển lựa xử lý qua nhiều khâu, hấp, sấy, phơi sương, ủi phẳng sao cho mặt lá giữ được màu trắng xanh mới đạt tiêu chuẩn. Tiếp đến là công đoạn lợp lá, đặt hoa văn, biểu tượng giữa hai lớp lá sao cho cân đối hài hòa trong không gian của chiếc nón, để khi  soi lên trước ánh trời các hoa văn biểu tượng hiện rõ cân đối. Biểu tượng ẩn hiện trong nón lá bài thơ thường là hình ảnh Cầu Trường Tiền, Núi Ngự Bình, Ngọ Môn, Phu Văn Lâu, Cầu Ngói Thanh Toàn...

Đi kèm theo các biểu tượng là một số câu thơ nổi tiếng viết về Huế được cắt bằng giấy bóng ngũ sắc, nên càng nổi bật giữa nền xanh trắng của lá nón. Chằm lá vào vành là công đoạn quan trọng nhất, đòi hỏi người thợ phải có sự cần mẫn khéo léo để đường kim, mũi cước thẳng, đều mềm mại theo độ cong của vành nón. Công đoạn này thường do người phụ nữ thực hiện, vì thế ở các làng nón, con gái được dạy nghề rất sớm, 14 - 15 tuổi đã thành thạo nghề. Nón lá sau khi hoàn tất được quét một lớp dầu bóng bằng nhựa thông pha cồn để tăng độ bóng, độ bền, chống thấm nước rồi mới đưa ra chợ bán.

Chợ Huế nào hầu như cũng có hàng nón, từ các chợ lớn như Đông Ba, An Cựu, Bến Ngự... đến các chợ nhỏ như Sịa, Phò Trạch ở đâu cũng có thể mua được chiếc nón lá Huế. Đặc biệt chợ Dạ Lê là chợ chuyên bán nón được duy trì từ hàng trăm năm nay, là đầu mối lớn để nón Huế vào Nam, ra Bắc.

Hiện nay, du lịch đang phát triển mạnh ở Huế, nón lá trở thành mặt hàng lưu niệm mang nét văn hóa đặc sắc của Huế được du khách ưa chuộng. Rất nhiều du khách đã về tận các làng nón để được tận mắt chứng kiến và tham gia vào các công đoạn của nghề làm nón. Không ít người đã thực sự bất ngờ và thích thú khi được người thợ nón lưu ảnh, tên của mình trên chiếc nón bài thơ mang về làm kỷ niệm.

Chị Nguyễn Thị Thúy- một nghệ nhân làm nón nổi tiếng ở làng nón Phú Cam, Người đã từng được mời sang Nhật Bản biểu diễn và triển lãm nghề làm nón Huế, cho biết: Không ngờ nón Huế mình lại được nhiều người biết và ưa thích như thế, cứ mỗi lần chằm nón biểu diễn cho du khách xem là tui tự hào lắm...

Quả thật, trên đường phố Huế, tôi đã gặp không ít nữ du khách nước ngoài rất duyên dáng với chiếc nón Huế, không thua kém gì con gái Huế, cho nên nhiều người cho rằng nón bài thơ là một nét duyên của Huế. Chính vì vậy, nón bài thơ Huế cũng là một kênh quảng bá hình ảnh Huế rộng rãi mà hiệu quả nhất trong số các sản phẩm làng nghề truyền thống Huế hiện nay.

Cầm chiếc nón lên, ta không chỉ bắt gặp Huế trên từng đường kim, mũi cước của người thợ nón Huế, mà còn gặp cả chiều sâu văn hóa Huế qua hình ảnh biểu tượng của Huế, qua những câu thơ đi cùng năm tháng với Huế “...con sông dùng dằng con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu...”(Thu Bồn). Hay “...Sông Hương hoa rượu ta đến uống/ Ta tỉnh đền đài ngã nghiêng say...”(Nguyễn Trọng Tạo)...

Dẫu bây giờ, trên đường phố Huế, nón lá không còn rợp bóng như ngày xưa mỗi buổi tan trường, nhưng nó đã trở thành một nét văn hóa, một nét duyên không thể thiếu trong đời sống văn hóa Huế, đặc biệt là đối với người phụ nữ Huế.

Nón lá có ở ba miền nhưng với Huế thì chiếc nón lá đã thể hiện được nét đẹp của cả một vùng văn hóa và đã trở thành biểu trưng cho vẻ đẹp, sự dịu dàng, thanh mảnh, duyên dáng của người phụ nữ Huế. Dù xuất hiện ở đâu, chiếc nón Huế vẫn mang đậm hồn quê, vẫn mang đậm hương đồng, gió nội của những làng nghề truyền thống, nơi đã sản sinh ra nó. Nón lá Huế từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác của các nghệ sĩ Huế và của những người yêu Huế.

Nón lá Việt Nam

Du lịch, GO! - Theo tạp chí Quê Hương, ảnh internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống