Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Saturday, 14 April 2012

Vườn Quốc Gia Pù Mát nằm ở Tây Nam Nghệ An với diệc tích 91.000 Km2, đây là vùng rừng với sinh cảnh chủ yếu là rừng ẩm nhiệt đới núi thấp với các loại cây gỗ và dây leo phát triển mạnh...

VQG Pù Mát nằm ở Tây Nam Nghệ An với diệc tích 91.000 Km2, đây là vùng rừng với sinh cảnh chủ yếu là rừng ẩm nhiệt đới núi thấp với các loại cây gỗ và dây leo phát triển mạnh. Đây cũng là vùng có đa dạng sinh học lớn nhất tại khu vực Bắc Trường Sơn.

Từ xưa đến nay vốn đã lưu truyền " Rừng thiêng nước độc", cũng đã nghe những câu chuyện rợn người về những chuyến tìm trầm, săn thú và xen lẫn những câu chuyện săn người.

Tò mò là cái điều đáng ghét nhất với 1 phượt thủ, những câu chuyện về núi rừng hoang vu đã nghe chán, nhìn cũng nhiều nhưng chưa thấy tận mắt bao giờ. Với một vài lý do cá nhân, có cái giấy phép cộng với cái thông tin là chưa ai trekking Pù Mát để đưa lên mạng cả, có chăng chỉ là những gã thợ săn sống cả cuộc đời trong rừng hay là những gã mà trong đầu chỉ là nghiên cứu với bảo tồn. ( các bác đừng nói điều gì ác nhé, nói thế là chửi em đấy).

Một tuần nóng bức càng làm cho ham muốn trỗi dậy, rục rịch làm thủ tục xin phép với những câu khuyên bảo " Mày điên à mà đi rừng".. ... ừ thì 10 thằng phượt thì 8 thằng chập, 1 thằng điên và nửa thằng bị vợ đuổi nên nói thế chẳng sao cả, và rồi thủ tục cũng xong.

Rủ rê lôi kéo được 4 lão phượt, kiếm 1 lão thợ săn mà nghe nói đã đi rừng từ khi 8 tuổi dẫn đường.
Chuyến đi dự kiến 6 ngày nên mọi công tác chuẩn bị rất chi tiết, mỗi balo mang gần 8kg, khá nặng với những gã này. Chúng tôi tiến vào rừng sâu qua cái nơi mà văn minh đâm sâu nhất vào rừng.

Đến chân thác kèm, ghé chụp đôi ba phát súng là chúng tôi tiến thẳng theo " Tiếng gọi nơi hoang dã", tranh thủ cảm nhận chút văn minh còn sót lại, chúng tôi lầm lũi cắt ngang con đường nhựa và tiến vào con đường mòn nhỏ xíu.

Ấn tượng đầu tiên là bẫy, bẫy và bẫy, những hàng bẫy cắt ngang cắt dọc những ngọn đồi, bám theo những con đường mòn nhỏ và che kín những bờ suối, những chiếc bẫy gần nhất chỉ cách con đường nhựa chừng 2m. Những gã trai HN tò mò, muốn thử cái cảm giác bị săn đuổi như thế nào, chỉ tiếc là gã còn phải đi 6 ngày nữa nếu không cũng bỏ chân thử cái cảm giác bị bẫy để " bị dính bẫy cũng là một trải nghiệm".

Chúng tôi đến cái đích đầu tiên là ngọn Thác Kèm, có vô số ảnh về Thác Kèm nhưng tớ biết là có rất ít ảnh về đỉnh thác và đây có lẽ là cái đầu tiên được đưa lên Phượt.

Thác kèm là tên gọi của dòng thác cao trên 100m, ngọn thác chính là nơi hợp lưu của 2 dòng suối, 1 dòng nhỏ xuất phát từ đỉnh cao nhất, chảy khoảng 20m thì nó gặp dòng thứ 2 hợp vào và cả 2 dòng suối đều đổ nước xuống 1 cái địa danh chung là Thác Kèm. Do địa thế hiểm trở nên chúng tôi chỉ đến được đỉnh cao nhất của thác mà không đến cái ngọn suối thứ 2.

4 thằng phượt với 4 mục đích khác nhau, 1 lão đi chỉ mong ảnh, 1 lão mong câu cá, 1 lão mong viết bài và lão cuối cùng chỉ đam mê những cánh bướm hoang dã, 1 bác thợ săn đi chỉ mong thỏa mãn trí tò mò là lý do gì mà lại có những gã trai thành phố bỏ những chăn ấm nệm êm, xe tay ga đi mát mặt để vào ngủ võng với tiếng muỗi rừng, đi cho chân tay tê cứng.

Xuất phát từ 8h sáng, đến 12h chúng tôi đến điểm nghỉ đầu tiên, giữ sức cho chuyến đi vượt đỉnh Bù Lở với địa danh " Dốc Cháy 1200" vào ngày mai.
Với sự giúp đỡ của bác thợ săn, khu trại được dựng lên sau 30 phút, chúng tôi nhanh chóng nhóm lửa nhằm đáp ứng cái nhu cầu của dạ dày, thực sự là rất đói sau chuyến đi mệt mỏi.

Ấn tượng đầu tiên là một chút cảm nhận về rừng ẩm nhiệt đới, chúng tôi đi sau thời gian nắng to hơn 10 ngày và đất rừng vẫn trơn như đổ mỡ, các tầng thực vật dày đặc đã chắn hết ánh sáng chiếu xuống mặt đất, ít nhất nắng trên 10 ngày mới mong đường có thể khô. Đấy là lý do làm cho chuyến đi này không như ý muốn.

Những cây gỗ ướt nhẹp là lý do chính để thử thách trình độ nhóm lửa của đoàn. Mất hơn 1 tiếng để nhóm cái bếp lửa, thực sự vất vả để có cái ăn. Nhưng rồi cái gì cũng thế, mãi rồi nó cũng xong, bữa ăn trưa với cá khô và thịt hộp, được cải thiện thêm bằng những món rau dọc đường

Những món rau, cây cỏ ăn được trong rừng rất nhiều, tại mâm cơm, với 1 cái nhoài người thì chúng tôi đã có những lá Chân Chim, lá Mì Chính để bổ sung vào bữa ăn thêm phần thịnh soạn. Bên cạnh đó cũng đã ăn thử 1 ít quả Nghệ Rừng, vị nó chua chua càng làm cơn đói thêm trầm trọng.

Xong bữa cơm trưa thì chúng tôi phải lo bữa tiếp theo , với phương châm là lấy thức ăn rừng là chính, 3 lão trai lại lao xuống suối kiếm cá cho bữa ăn chiều. Do có Thác Kèm chắn ngang nên tại thượng nguồn Khe Kèm không có các loài cá lớn, hầu hết là các loài cá nhỏ cỡ ngón tay.

Câu mãi, câu mãi cũng được ít cá, thế cũng đủ cho 1 bữa nhậu, ACE thông cảm đôi chút vì chuyến này gần như tận hưởng là chính nên không nhiều ảnh, bên cạnh đó do đây là ngày đầu tiên của chuyến đi, để tiết kiệm Pin nên chụp ít là tất nhiên.

Bên cạnh rau rừng, cá suối thì một món quan trọng khác cũng không thể không nói đến, chỉ tiếc là nó không mời mà đến: Vắt rừng.

Rồi điều không mong nhất cũng đến. Mưa rừng. Chỉ tiếc là mưa rừng nó không lãng mạn như bài hát, chỉ biết là nó ầm ầm và dai dẳng cả ngày cả đêm, xối ầm ầm qua các kẽ lá và rơi cả đêm trên những tấm tăng. Mưa đến ngay khi chúng tôi chuẩn bị đèn cho chuyến săn ếch và săn cá ban đêm. Mưa thì điều tốt nhất là ngồi 1 chỗ, ngay các bác thợ săn khi gặp mưa cũng phải " Nín".

Trong đêm mưa, nằm nghe những câu chuyện phiếm, hầu hết là những tự bạch của gã thợ săn, về những ký ức vui lẫn buồn. Những câu chuyện kể về những ngôi mộ chưa chục xác người nằm mãi ở rừng, những cái đầu lâu lăn lóc bên bờ suối, những chiếc võng mục dần làm rơi ra những mảnh xương, những phát súng không rõ từ đâu nhưng cũng đủ hạ 1 gã và làm những gã khác chạy toán loạn. Nhưng rồi sau những mất mát thì họ lại vào rừng vì kế sinh nhai.

Nói thêm một chút về những điều nguy hiểm nhất nơi này. Những nguy hiểm nhất với thợ săn và những người đi Cội (tìm trầm) chính là con người, những người được gọi cái tên chung là " Phỉ", chúng là những nhóm chuyên cướp hàng của những người đi rừng, cả về lý do chính trị lẫn kinh tế, họ hầu hết là người Mẹo (H'Mong), một số ít khác là tội phạm bỏ trốn hoặc đơn giản là toán này cướp hàng toán khác.

Hầu hết những người đi rừng đều có súng, AK hoặc CKC, nhẹ nhất cũng khẩu thể thao, do vậy nên việc giết 1 người rất dễ thực hiện. Những vụ bắn giết trong rừng mãi luôn là những câu chuyện của rừng hoặc là những ký ức kinh hoàng của những người may mắn sống sót trở về, gã thợ săn dẫn đường cũng bị bắn 2 lần và 2 lần gã đều may mắn.

Mưa cũng chính là nguyên nhân làm cho chuyến đi lỡ hẹn, khi mưa lớn thì tuyến đường trơn như đổ mỡ. Những con dốc cao lại trơn như đổ mỡ là chướng ngại không thể vượt qua, ngay cả với những gã đi rừng lâu năm nhất. Họ đã vậy thì chúng tôi sao tránh khỏi, trời đã mưa lớn thì ít nhất 1 tuần nữa đường mới có thể đi, thời gian không cho phép nên lựa chọn duy nhất là quay về.

Hạ hết những thứ cồng kềnh, bỏ sang túi của lão dẫn đường hầu hết những cái nặng, chúng tôi đành quay về và để lại lời hẹn vào mùa khô,một lời hứa với những đỉnh núi cao, những con dốc thẳng đứng và những con vắt đang chờ đợi. Chúng tôi phải quay về sau 2 ngày 1 đêm trong rừng già Pù Mát.

Tuy không thể hoàn thành chuyến đi với đoàn phượt nhưng tôi sẽ hoàn thành pic này với những chuyến đi riêng của mình, những chuyến đi săn lẫn những chuyến đi tuần tra chống săn trộm.
Bốn thành viên của đoàn, trừ ông thợ săn đang chờ ngoài thác. Mặc dù chuyến đi không trọn vẹn nhưng đối với tôi đó là một trải nghiệm đầu tiên trong đời thú vị khi trekking.Thôi đànhn hẹn Pù Mát dịp khác vì nhà mình cũng gần đây.

Du lịch, GO! - Trích Phuot.com
Ngày quay lại “miền biển ngọt”, miền biển mà tôi tự cho là ngọt. Có thể nhiều người thắc mắc, biển sao lại ngọt... 

Nhưng tôi cam đoan là như thế, nếu một lần bạn được đến nơi đây. Nơi có sự ngọt ngào của xứ dừa, của cánh đồng dưa hấu, của những nồi ốc mỡ, những mảnh lưới đầy cá ngát và ngọt nhất vẫn là tình cảm của anh.

Anh đã tâm sự với tôi. Dưới miền này, cái gì cũng thiếu, chỉ có tình cảm không bao giờ thiếu. Câu nói ấy làm tôi suy nghĩ trong suốt một đêm tại nơi đây. Và tự hứa với lòng mình, một ngày nào đó sẽ quay lại, và mang thêm những người bạn để cảm nhận được tình cảm của anh đối với 4 người chúng tôi trong chuyến đi lạc giữa một vùng xa lạ ngày ấy.

Nhật ký chuyến đi:

Cái ngày đầu tiên, đặt chân đến cũng là do duyên số. Cách đây  chưa đầy 2 tháng, chúng tôi đã cố tìm đến 1 vùng biển, nơi có khu bảo tồn thiên nhiên Thạnh Hải để đến với rừng ngập mặn, khu bảo tồn, tiện thể nơi đây cũng là 1 vùng đất thiêng, nơi tập kết mà người ta gọi là đường HCM trên biển.

< Con đường dẫn chúng tôi ra biển.

Cái duyên số không thể đến với rừng ngập mặn để tiến ra biển được, vì muốn đi phải băng qua 1 khu đầm lầy. Trong khi đó trời đã sẫm tối. (Người ta nói trong khu rừng ngập mặn này có rất nhiều rắn)

< Có đoạn phải khiêng xe như thế này.

Đoàn quyết định tìm chổ dừng chân và sẽ cắm trại trên biển. Đi loanh quanh từ 5h đến 8h tối mới tìm được bãi đáp mà trong lúc vừa tới cũng không biết mình đang ở trên biển.

Chạy hoài trong cánh đồng dưa hấu (lúc đó người ta trồng toàn dưa hấu) chạy đến khi, dưới bánh xe nghe tiếng tủm tủm của nước (theo cảm tính). Nhìn xa qua dải cát mới nghĩ là mình đang trên bờ biển. Cả đoàn coi như vừa mừng vừa lo. Mừng vì đã tìm được biển, lo vì nơi đây không 1 căn nhà, không một bóng người.

Anh Ku Kòy (trưởng đoàn) nói: Dù cho thế nào đi nữa nhất định phải ở đây. Không thể quay về được. (Nếu có quay về không biết tìm được đường ra không nữa). Đoàn quyết định chạy dọc bờ biển tìm nhà dân hoặc khu du lịch và xin cắm trại gần nhà dân cho an toàn.

Chạy 1 đoạn gặp ngay căn nhà hoang (Sau này nghe anh Điền kể lại là trước đây người ta làm du lịch, nhà hàng, sau đó bị biển đánh sập). Lúc này ai nấy cũng bủn rủn tay chân. Vừa lo, vừa sợ.

Quyết định chạy tiếp. Đi được thêm khoảng 2km thấy 1 căn nhà có ánh đèn. anh KuKoy chạy vào liên hệ. Nhưng vào chỉ thấy đèn sáng mà không có người. Thế là hồi hộp chạy ra, đi dọc bờ biển tiếp. Hy vọng sẽ tìm được khu du lịch khác hay nhà dân.

Đi thêm khoảng 1km nữa thì thấy 2 căn nhà sát nhau. Căn nhà mà chuyến đi vừa rồi lại đến. Đêm đó chúng tôi có 1 phen hú hồn. Khi bị lạc giữa cánh đồng dưa và 1 căn nhà hoang, 1 căn nhà có đèn mà không có người.

Gia đình anh Điền đón tiếp chúng tôi nhiệt tình như vốn những gì dân dã vẫn hay nói là Nghèo mà có tình.

< Chuẩn bị đồ nghề.

Buổi tối hôm đó, sau khi xin ngủ gần nhà, nhưng gia đình đã đồng ý và nói: “Nếu lỡ tới đây thì ngủ tại đây luôn”. Nhưng vốn cái tính thích “ăn bờ, ở bụi”, thích phiêu lưu chúng tôi mới đến được nơi này và xin ngủ ngoài bờ biển.

Anh lại lủi thủi vào rừng dương, vác rựa chặt cho 2 cây trụ, và chôn 2 cây trụ đó trên bãi cát, để chúng tôi có thể cột võng mà ngủ.

Đoàn chỉ có 4 người. Kau (tôi), anh Ku Kòy, chị Bằng Lăng và Quí. Anh Ku Kòy mang võng nên ngủ võng, còn lại 3 người ngủ lều mang sẵn. Tự nghĩ lại, có lẻ chúng tôi may mắn tìm được nhà anh Điền chứ không thì không biết sẽ lo sợ như thế nào.

Anh Điền mang vội vài trái dưa hấu vừa hái ngoài vườn mời chúng tôi và gọi 2 ông anh láng giềng gần đó ngồi nói chuyện và kể vì sao tới được đây. Sau đó 11h chúng tôi được tự do thỏa mái ngắm trăng, nghe sóng biển vỗ rì rào.

< Anh kéo lên cho chúng tôi gỡ.

Có trăng tròn, có gió, có sóng biển, được nằm đong đưa trên võng giữa một bãi cát. Cứ như mình đang nằm trên thiên đường.

Sáng hôm sau, tôi ngủ dậy sớm. Vì tôi đi chơi đâu cũng hay có cái tật tận hưởng nên thời gian ngủ ít. Cố dậy sớm tìm cho mình cảm giác bình minh nơi xứ lạ. Sau khi đánh thức đoàn dậy, đánh răng rửa mặt.

< Cá đối và cá ngát.

Ôi, bình minh ở đây đẹp và yên bình làm sao. Phản chiếu trên mặt biển như một bức tranh đẹp siêu lòng người khách lạ.

Anh Điền rủ chúng tôi đi kéo lưới, gỡ cá ngát, cá đối. Thế là đoàn có một phen được hú hí với biển, với lưới. Làm ngư dân thứ thiệt. Nào là kéo lưới, lượm ốc, đào còng. Tha hồ tung tăng, tạo dáng trên biển.

< Ốc mỡ.

Chính những con cá kéo được, vợ anh nấu một nồi canh cá ngát nấu bông thiên lý thiệt bự, cá đối thì chiên giòn để đãi cho chúng tôi. Đoàn có một bữa no nê hê hả với các món ăn dân dã dường như nơi nào cũng có nhưng không ngon như thế nào.

Khi chia tay anh mà lòng chợt buồn không biết là khi nào mới gặp lại anh. Như đã hứa với anh và với miền biển này là một ngày không xa sẽ ghé lại thăm anh.

Từ trong đáy lòng, tôi cảm thấy miền biển này rất ngọt dù nó không đẹp như biển Phan Thiết hay Nha Trang, nhưng nó có 1 vẻ đẹp rất khác, rất chân chất tình cảm.

Du lịch, GO! - Theo Kaurita - Yume
Có lẽ không ai còn nhớ thuở khai thiên lập địa, hồ Tây ngày nay có tên gọi là gì.
Cũng như Đại La-Thăng Long-Đông Đô-Bắc Thành-Hà Nội hay đối với Sông Cái-Nhị Thủy-Nhị Hà-Hồng Hà, trải qua các thời kỳ lịch sử, Hồ Tây cũng có những tên gọi khác nhau. Điều này phụ thuộc vào ý nghĩa văn hóa từng thời đại, cũng như ý chí chủ quan của con người, nên mỗi tên gọi ấy đều gắn với từng sự tích, từng câu chuyện dân gian.

Đầm Xác Cáo

Đầm Xác Cáo có lẽ là tên gọi xưa nhất của hồ Tây, gắn với sự tích con hồ ly tinh chín đuôi.
Sự tích kể rằng nơi đây ngày xưa là rừng rậm hoang vu và nhiều gò núi. Ở đó, có một con hồ ly tinh chuyên tác oai tác quái quấy nhiễu dân lành, nhưng việc diệt trừ hồ ly tinh được kể trong các câu chuyện dân gian cũng khác nhau.

< Hồ Dâm Đàm xưa.

Một chuyện cho rằng Lạc Long Quân vì thương xót con dân nên đã dâng nước biển dìm chết con cáo và tạo ra hồ nước. Một câu chuyện khác kể về Huyền Thiên cũng vì thương xót và nghe lời cầu khẩn của dân chúng mà diệt trừ con cáo. Sau khi con cáo bị tiêu diệt, một hồ nước đã được tạo ra. Từ đó, hồ có tên là đầm Xác Cáo.

Nguyễn Huy Lượng trong "Tụng Tây Hồ phú" có câu: "Trước bạch hồ nào ở đó làm hang/ Long vương hổ nên vùng đại trạch" là để nói về sự tích này.

Hồ Kim Ngưu

Hồ Kim Ngưu gắn với sự tích con trâu vàng. Song sự tích này cũng được kể lại khác nhau.
Một câu chuyện kể rằng, khi con trâu vàng nghe tiếng chuông của ông Khổng Lồ ngỡ là tiếng mẹ gọi, bèn chạy từ Trung Quốc sang đến bên quả chuông lớn. Nó cứ loay hoay tìm quanh quả chuông, rút cuộc làm đất lở khiến cả quả chuông và con trâu sụt xuống tạo thành một vực sâu. Về sau mưa làm ngập lụt tạo thành hồ, cả quả chuông lẫn con trâu vàng đều không vớt được.

Câu chuyện khác thì kể rằng ngày xưa ở núi Tiên Du có con trâu vàng bị một Pháp sư yểm bùa, vùng dậy chạy. Chạy mãi, chạy mãi qua mỗi nơi, bằng sức mạnh của mình, nó đều tạo ra các dấu tích.
Cuối cùng nó chạy tới đầu sông Tô gặp một hồ nước, nó nhao xuống bơi lội thỏa thích rồi ở luôn trong lòng như đứa con lưu lạc vừa tìm được mẹ. Từ đó, hồ Tây có tên là hồ Kim Ngưu và dân gian còn truyền tụng câu:

"Trâu vàng ẩn mãi giữa hồ,
Nước dù cạn vẫn mịt mù tăm hơi"

Lãng Bạc

Theo "Tây Hồ chí", thì sau khi dập tắt cuộc khởi nghĩa bi hùng của Hai Bà Trưng, Tướng quân Mã Viện với tư cách là kẻ thôn tính văn hóa đã gọi hồ Tây là Lãng Bạc với ý nghĩa hồ đầy sóng vỗ. Tên gọi này thể hiện ý nghĩa rõ nhất vào những ngày giông bão, mặt hồ rộng, sóng nước nổi lên ầm ầm, tạo ra một cảnh hồ hùng tráng và nên thơ.

Dâm Đàm

Dâm Đàm với ý nghĩa là đầm tràn đầy nước. Có lẽ ý nghĩa ấy muốn nói tới sự rộng lớn, mênh mang sóng nước của hồ Tây.

Tên gọi này cũng không biết chính xác được gọi trong thời gian nào, nhưng theo cố giáo sư Trần Quốc Vượng thì Dâm Đàm có tên thật từ thời Lý-Trần (thế kỷ X-XV) với huyền tích Lý Nhân Tông ngồi thuyền Mục Thận xem đánh cá, gặp sương mù, có thuyền tới gần, trên có hổ, Mục Thận quăng lưới bắt hổ, hóa ra đó là Thái sư Lê Văn Thịnh và ông cho rằng Dâm Đàm nghĩa là hồ mù sương.

Câu chuyện về vụ Thái sư Lê Văn Thịnh mưu hại Vua Lý Nhân Tông được các sách ghi chép khác nhau.

Sách "Việt điện u linh", truyện "Thái úy Trung duệ Vũ Lượng Công của Lý Tế Xuyên" (Thế kỷ XIII) có đoạn viết: "Vào thời Lý Nhân Tông, quan Thái sư Lê Văn Thịnh nuôi được một tên gia nô người Đại Lý, có thuật lạ đọc thần chú biến được thành hổ báo. Lê Văn Thịnh cố dỗ dành tên gia nô dạy pháp thuật cho mình, sau khi học được rồi thì Văn Thịnh lập mưu giết chết tên gia nô.”

Vụ án Đâm Đàm này là một câu chuyện hoang đường, đó chỉ có thể là một màn ngụy trang cho một sự tranh giành quyết liệt trong nội bộ triều đình nhà Lý vào cuối thế kỷ XI và sự thất thế dẫn đến việc buộc phải ra đi của Lê Văn Thịnh. Hoặc câu chuyện phản ánh mâu thuẫn về tôn giáo, tư tưởng xã hội của thời đại.

Lúc này, Nho giáo đang dần khẳng định vị trí của mình mà Lê Văn Thịnh là người khai khoa cho lịch sử khoa cử Nho giáo Việt Nam. Lê Văn Thịnh quê ở Bắc Ninh, ông đỗ đầu khoa Minh kinh bác học năm 1075, đời Lý Nhân Tông, ông từng làm chức Thị lang Bộ Binh.

Năm 1084, ông làm Chánh sứ đi sứ sang Tống, bằng tài ngoại giao, ông đòi lại được vùng đất Vật Dương, Vật Ác (Cao Bằng) từ triều đình phương Bắc. Vì công lao của ông đối với triều chính, Lê Văn Thịnh được phong Thái sư năm 1096.
Sử sách không thấy ghi mâu thuẫn triều chính của Lê Văn Thịnh nên khi vụ án Dâm Đàm xảy ra, ông bị xích sắt đóng cũi và bị đày lên thượng nguồn Sông Thao nhưng không bị giết vì Vua đã nghĩ đến công lao của ông.

Còn Mục Thận làm nghề chài lưới đánh bắt cá ở Dâm Đàm, nhờ có công cứu Vua Lý Nhân Tông nên được phong làm Đô uý và được ban đất quanh hồ làm thực ấp. Khi mất, ông được lập đền thờ ở làng Võng Thị, truy phong tước Thái úy Duệ Lượng Công.

"Đền Mục Lang hương lửa chẳng rời,
Tay lưới phép còn ghi công bắt hổ"
(Nguyễn Huy Lượng- "Tụng Tây Hồ phú")

Một vụ án đậm chất thần bí, hoang đường ma thuật phản ánh mâu thuẫn tôn giáo của một thời đại. Về sự việc này, Vua Tự Đức (1848-1883) có thơ vịnh:

"Yên ba cửa dĩ ký bình tung,
Tự liệu quân vương giải cấu phùng
Võng lý vô ngư hoàn hữu hổ
Tây Hồ hà loạn thiếu ngư long"

(Khói sóng đã lặng yên, việc cũ qua rồi, giúp nhà Vua, mà gỡ bỏ mối gặp gỡ. Trong lưới không có cá, chỉ có hổ. Lo gì hồ Tây thiếu cá)

Tây Hồ

Sử sách ghi rằng: “Đến năm 1573, để tránh tên húy của Vua Lê Thế Tông là Duy Đàm, người ta đổi là Tây Hồ.”
Cái tên Tây Hồ có từ đó, ngoài lý do trên, có lẽ việc đặt tên này nhằm sánh với phương Bắc, vì ở Trung Quốc cũng có Tây Hồ nổi tiếng ở Hàng Châu. Việc đặt tên các địa danh, sông hồ của Việt Nam theo Trung Quốc là chuyện bình thường.

Nhiều người giải thích rằng Tây Hồ nghĩa là hồ phía Tây kinh thành, e không hợp lý. Cũng như Hà Đông, nếu xem bản đồ Hà Nội, thì địa danh trên không đúng theo phương vị Đông và Tây.
Tây Hồ là cách đọc Hán Việt của hồ Tây, và hồ Tây đã trở thành cái tên gần gũi, lâu dài, nên thơ nhất đối với người Hà Nội cũng như nhân dân cả nước.

Đoài Hồ

Chúa Trịnh Tạc (1657-1682) được phong tước Tây Vương, nên địa danh có chữ Tây bị ông ra lệnh đổi thành Đoài (quẻ Đoài thuộc phương Tây - ý nghĩa như nhau, âm và chữ khác nhau) như Sơn Tây gọi thành Xứ Đoài, bởi vậy nên Tây Hồ được gọi là Đoài Hồ. Nhưng cái tên Đoài Hồ không được dùng lâu, đến hết đời Chúa Trịnh Tạc dân ta gọi lại như cũ là hồ Tây.

Du lịch, GO! - Theo Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long/Vietnam+, ảnh internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống