Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Sunday, 15 April 2012

Ba lô buộc gọn gàng, kiểm tra phanh kỹ lưỡng chúng tôi mới dám đổ đèo Thung Khe.

Đèo Thung Khe nằm trên QL6, thuộc huyện Mai Châu, Hòa Bình, cao khoảng 1.000m so với mực nước biển. Đây có lẽ là con đèo đầu tiên thử thách tay lái của dân phượt nếu muốn ngược Sơn La, Điện Biên, Lai Châu bằng QL6.

Sau Thung Khe là đến đèo Chiềng Đông, Chiềng Pấc nổi tiếng với những đường cua quanh co, sương mù giăng kín. Nhưng điều khiến dân phượt  mỗi khi qua Thung Khe thích thú nhất là địa hình đặc biệt, xe cứ ôm núi mà đi. Do là tuyến độc đạo lên Sơn La nên lượng phương tiện qua đây khá lớn, những hôm sương mù giăng kín đi lại khá khó khăn. Nhưng bù lại, khi đến đỉnh đèo, toàn cảnh thung lũng Mai Châu hùng vĩ hiện ra trước mắt, như mê hoặc lòng người.

Vượt đèo Thung Khe ban đêm vào mùa lạnh là một trải nghiệm khó quên cho bất kỳ tài xế hoặc du khách nào, với màn sương phủ kín kèm cái lạnh buốt đến tê người, tầm nhìn xa bị hạn chế không quá 3m.

Vượt đèo Thung Khe khi ánh sáng duy nhất chỉ là đèn xe của chính mình hoặc của những xe tải, xe khách đi ngược chiều. Thung lũng Mai Châu hiện ra dưới chân đèo Thung Khe trong ánh đèn nhìn xa như hàng nghìn ngọn lửa đang âm ỉ cháy.

Ông trời cũng thật khéo cho nơi này một khoảng đất rộng, bằng phẳng làm nơi dừng chân sau những khúc cua ôm núi. Nhiều món đặc sản đã được người dân bản địa bày bán. Đặc sản nhất có lẽ là ngô luộc.

Dường như ngô trồng trên đá, ăn sương đêm nên cho bắp to, hạt chắc nhưng ăn lại rất mềm và thơm. Tất cả các đoàn khách lên Sơn La hoặc về Hà Nội qua Thung Khe đều dừng lại chỉ để thưởng thức món ngô luộc này và không quên mua chục bắp về làm quà.

Tại đây còn có cơm lam, rêu đá, măng chấm vừng... thơm thơm, bùi bùi, ngầy ngậy. Cảm giác thật bõ công sau một hành trình dài. Nếu muốn ăn ngô tươi hơn, lữ khách có thể tự chọn ngô trong bao tải rồi cho vào nồi nước đang sôi sùng sục. Mùi khói thơm thơm, lửa lép bép xua tan cái lạnh cắt da của vùng núi. Mọi người như gần nhau hơn bên bếp lửa hồng, chờ ngô chín mà câu chuyện thêm rôm rả.

Sau những phút nghỉ ngơi, chân bớt mỏi, tay bớt căng cứng vì bóp côn nhiều, bụng bớt sôi vì đói, chúng tôi tiếp tục đổ đèo xuôi Hòa Bình để về Hà Nội. Hết đèo là đoạn đường thẳng thớm về Hà Nội sẽ nhẹ nhàng hơn nên tôi cứ thong thả đổ đèo, trải nghiệm từng khúc cua núi trong sương chiều.

Chuyện đèo Thung Khe

Du lịch, GO! - Theo ANTĐ, internet

Saturday, 14 April 2012

Đôi lúc vẫn cứ thích thế, thích làm kẻ lười nhác, rong chơi sớm ngày, thích cảm giác đứng trên non cao nhìn ra xa chỉ mây trời và nắng ấm, hét thật to cho thảnh thơi đầu óc. Nhắm mắt... có phải tiếng chim líu lo trên tán lá xanh, có phải suối nguồn róc rách chảy xoa lòng người lữ thứ ? Và rồi tôi hăm hở quyết định đi leo núi ngày cuối tuần!

Hà Nội hôm trước trời còn mưa rả rích vì ảnh hưởng của bão, thế mà tôi lại thèm đi leo núi đến lạ lùng, lâu rồi không có cảm giác đứng trên non cao để phóng tầm mắt ra đất trời bao la. Sáng chủ nhật hành trình từ Hà Nội về Thái Nguyên, trời đã tạnh mưa và đến trưa thì hửng nắng...
Nơi chúng tôi đến là ngọn núi gắn với tình yêu của đôi chim Phượng Hoàng. Từ dưới nhìn lên, núi Phượng Hoàng có hai hòn đá với hình hai con chim phượng hoàng nằm ấp nhau.

Sở dĩ núi mang tên Phượng Hoàng là vì theo huyền thoại ngày xưa trên núi có một đôi chim phượng hoàng sống rất hạnh phúc và chúng đã sinh được hai quả trứng. Ngày ngày, chim bố đi kiếm mồi cho chim mẹ nằm ấp trứng. Một ngày kia mải theo đàn chim mái mới, chim bố đã quên nhiệm vụ và không trở về.

Rồi một hôm chợt nhận ra, nó quay trở về nhưng chim vợ đã hoá đá. Quá ân hận, chim bố nằm ở ngọn núi đối diện ngóng sang để mong người vợ trở lại trạng thái bình thường, nhưng đợi mãi nó cũng hoá đá. Từ đó núi mang tên Phượng Hoàng.

Dưới chân núi Phượng Hoàng là hang Mỏ Gà, được đặt theo tên dòng suối Mỏ Gà chảy ra từ trong lòng hang. Hang Suối Mỏ Gà cách hang Phượng Hoàng chỉ 100m, rộng trừng 10-15m, cao 2m-15m, chiều sâu của hang 150- 200m.

Nước suối Mỏ Gà được ví như là sinh khí của trời đất, vì vậy những ai tắm trong dòng nước mát lành của suối thì sẽ được sức khỏe và hạnh phúc viên mãn. Núi Phượng Hoàng và suối Mỏ Gà thuộc huyện Võ Nhai, cách Thành phố Thái Nguyên 45km.

Khi chúng tôi leo lên núi thì cũng là lúc khách du lịch đang xuống núi, vì đến muộn nhưng bỗng nhiên lại thấy thích cảm giác lên núi muộn ngắm ánh hoàng hôn cuối cùng xem sao. Tôi lại nhớ đến mấy câu thơ của bà Huyện Thanh Quan:

“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.”
Trích: Qua đèo ngang

Chỉ không phải Đèo Ngang mà là con đường dẫn lên núi Phượng Hoàng nhưng tiếng chim ríu rít gọi nhau về tổ, những khóm lau đu trong gió chiều và con đường đá lên núi chen cỏ dại cũng khiến người ta choáng ngợp bởi chiều buông...

Lâu không leo núi nên tôi mệt phờ, dừng chân nghỉ, leo lên tảng đá ngồi phệt, bỏ giày ra đặt thẳng chân xuống mát lạnh, ngước lên trời thăm thẳm bỗng thấy ta bé nhỏ giữa đất trời...

Lúc lúc lại nghe thấy tiếng “Hú...b” vang vọng vào núi, đó là tiếng của những người đã lên đến đỉnh, là tiếng thúc giục những kẻ còn đang ở phía dưới nhanh chân lên, đừng chùn bước vì cứ đi là đến – đến với đỉnh non xanh, choáng ngợp sự hùng vĩ của đất trời và biết được rằng đôi chân ta bền bỉ đến mức nào...

Khi chúng tôi lên đến đỉnh thì ánh hoàng hôn in trên vách núi phía bên kia, tôi cũng hăm hở “Hú... ” vài tiếng, thảnh thơi lạ lùng!

Hang gồm có 3 tầng: tầng thượng là hang Dơi, tầng giữa gọi là hang Sáng, tầng cuối gọi là hang Tối. Hang Sáng rộng và thoáng, ánh sáng ở cả 3 cửa hang chính chiếu vào những nhũ đá hay thạch nhũ trong hang lung linh, huyền ảo.

Chúng tôi là những người cuối cùng xuống núi, trời đã nhá nhem, tiếng gió, tiếng lá cây, tiếng chim chóc nghe rõ hơn như bản nhạc cuối cùng của buổi chiều rơi...

Xuống chân núi ghé qua suối Mỏ gà, dòng nước mát lạnh khiến người ta tỉnh táo và sảng khoái hơn. Chúng tôi ngồi trên tảng đá thả chân xuống dòng chảy, nhắm mắt chỉ nghe tiếng róc rách của suối mà như giai điệu của núi rừng, lúc trầm bổng lúc dịu êm mà cũng bí ẩn, linh thiêng đủ để ta biết rằng không bao giờ là đủ cho những bước đi, những trải nghiệm, những đỉnh cao mới - cũng như con người ta luôn phải bước về phía trước, không có tấm biển nào mang chữ “Từ bỏ” mà chỉ có những chạm dừng chân - nghỉ ngơi để rồi sớm mai ta lại tiếp tục cuộc hành trình!

Du lịch, GO! - Theo Madalena_pl (Zing), Giaoduc.net
Làng đáy hàng khơi ở Rạch Gốc, Tân Ân, huyện Ngọc Hiển có sáu lô, mỗi lô 70 miệng đáy. Còn ở Rạch Tàu, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển có đến 3.000 miệng đáy.

Có người làm giàu từ nghề đáy hàng khơi như ông Hồng Văn Hoàng (Bảy Hoàng), ở ấp Kiến Vàng, xã Tân An, huyện Ngọc Hiển. Hiện nay, cả nhà ông có 35 miệng đáy, phải thuê bảy bạn chòi, hàng chục bạn đi tàu và vợ con của họ để vá lưới, lựa tôm cá...

Bám víu vào cột đáy giăng giăng là những chiếc chòi cheo leo như tổ chim, nơi sinh sống của bạn chòi ngoài biển khơi.

Luật ở đáy hàng khơi

Chủ đáy hàng khơi tuyệt đối không cho đàn bà con gái xuống tàu. Ông Sáu Quảng – chủ đáy hàng khơi ở Cái Đôi Vàm nói để tôi hiểu rằng xuống tàu ra đáy hàng khơi có “luật”. “Chú muốn thì cứ đi, sợ mệt chứ không chết chóc gì đâu. Lúc này sóng gió dữ lắm, gió tốc mái chòi, sóng cuốn trôi lưới do ảnh hưởng bão”, ông nói.

Chiếc ghe nhỏ, chừng 30 tấn, hướng ra cửa biển Cái Đôi Vàm. Tôi muốn tận mắt thấy ngư dân làm nghề đáy hàng khơi, đổ đục. Ra khỏi cửa biển Cái Đôi Vàm, con tàu trở nên bé nhỏ, lao xuống, nổi lên như trò chơi của sóng biển. Gần hai tiếng đồng hồ, tàu mới đến được giàn đáy hàng khơi cách bờ từ 12 – 20 hải lý, ở giáp ranh vùng nước đục và trong. Tuỳ vào dòng nước chảy, mỗi giàn đáy hàng khơi thường giăng liền kề vài chục miệng đáy, miệng đáy rộng chừng 50m.

Đáy hàng khơi có thể khai thác quanh năm, nhưng mỗi năm có hai vụ chính: mùa nam từ tháng 3 đến tháng 6, mùa chướng từ tháng 9 đến tháng chạp âm lịch. Tàu từ đất liền ra giàn đáy hàng khơi kéo lưới bắt tôm cá từ chạng vạng tối hôm trước đến hừng đông lại quay về bến.

Đời bạn chòi

Ngư dân Cà Mau có hàng ngàn miệng đáy hàng khơi ở các cửa biển Cái Đôi Vàm – Phú Tân, Rạch Gốc, xã Tân Ân, Rạch Tàu, xã Đất Mũi – Ngọc Hiển… hình thành làng đáy hàng khơi ven biển. Có người làm chủ hàng chục, hàng trăm miệng đáy. Ngư phủ làm mướn gọi là “bạn”, đi theo tàu ra biển đóng đáy gọi là “bạn tàu”, ngư phủ làm trên biển gọi là “bạn chòi”. Ở vùng biển Cà Mau có hàng ngàn miệng đáy nên có rất nhiều bạn chòi trông coi đáy hàng khơi. Mùa chướng, họ chịu đựng sóng gió lồng lộng; mùa gió tây nam, họ phải chống chọi với mưa bão.

Tôi ngước nhìn lên cao, chừng 10m, một chòi lá nho nhỏ như tổ chim ôm lấy cây cột đáy, gió xô lắc lư, đu đưa theo sóng gió, vách lá te tua. Từ chòi, hai khuôn mặt đen cháy, tóc tai bù xù, thả hai sợi dây to cỡ ngón chân cái xuống tàu. Muốn lên chòi phải ngồi vô chiếc cần xé, cầm hai cọng dây nương theo để bạn chòi kéo lên. Tôi cảm nhận bàn tay chai cứng, ngón tay như gọng kềm của bạn chòi khi họ kéo tôi lên.

Căn chòi nhỏ hẹp chỉ đủ hai người ngồi. Tôi ngoái nhìn xuống mặt biển xanh ngắt, choáng váng mặt mày. Hú hồn hú vía, nếu lỡ thủng chiếc cần xé hoặc đứt dây chắc trôi theo nước biển! Vào con nước, bạn chòi phải ở ròng rã ngoài khơi cả tuần đến mười ngày mới được vô bờ thăm vợ con. Sum họp gia đình vài ngày giữa hai con nước, rồi lại quay ra chòi để làm bạn với biển khơi.

Anh Thạch Sơl và Trần Văn Mẫn sống trong căn chòi gồm một bếp lò nấu củi, hai can nước ngọt, bao gạo, thùng mì, chén bát đựng trong rổ nhựa, hai cái võng mắc cặp vách. Quần áo thì mỗi người một bộ để mặc khi vào bờ, còn thì họ chỉ độc chiếc quần đùi. Tất cả vật dụng đều có một sợi dây cột vào đâu đó, gió có thổi văng thì còn dính lại.

Bật lửa được giữ kỹ nhất, gắn vào khối ximăng, có cái khoen để cột dây. Vật đáng ra bất ly thân là chiếc áo phao thì chẳng thấy anh nào mặc, kể cả khi di chuyển chơi vơi trên đòn gượng nối hai trụ đáy. Anh Trần Văn Mẫn làm nghề bạn chòi đã 11 năm, nói: “Áo phao vướng víu, khó khăn đi lại. Nếu lỡ rơi xuống biển thì người ở trên thảy phao, quăng dây. Nếu không thì anh em tụi tui dư sức bơi vô giàn đáy gần đây!”

Bạn chòi Thạch Sơl cười rất tươi, hàm răng ám khói thuốc lá, giải thích vì sao ai cũng phải thủ một con dao bên mình: “Anh em ở trên chòi, không may rơi xuống biển, nước đạp trôi vào đục đáy (lưới đáy), phải có dao rạch lưới để thoát thân!” Anh cho hay mùa gió chướng là mùa thu nhập chính của bạn chòi.

Con nước nào trúng thì được 1 – 2 triệu đồng, ít thì trên dưới 500.000 đồng. Nhưng cũng lắm khi kéo đáy lên chẳng có gì, buồn chết được. Có những lúc vợ đau con ốm, không được vào bờ phải liên hệ với chủ hàng đáy qua máy bộ đàm, vay tiền lo thuốc thang chờ khi mùa chướng làm trừ nợ.

Cực vậy, nên bạn chòi hầu hết là trai tráng tứ xứ trôi dạt về đây dấn thân với nghề biển, phần lớn có tánh cần cù, chịu khó và ưa mạo hiểm. Anh Nguyễn Văn Lùn, 31 tuổi, làm bạn chòi từ năm 15 tuổi, kể: “Ở chòi tưởng rảnh chớ làm suốt ngày đêm. Sáng sớm lo nấu bữa cơm trần ai vì gió tắt bếp. Ngả lưng chút xíu lại chuẩn bị đóng đáy. Suốt đêm gần như thức trắng để phạch dạo cho tàu đến đổ đục. Tàu quay về đất liền mình phải giặt đáy, phơi khô. Hết miệng đáy này sang miệng đáy khác”.

Cực, nhưng bù lại bạn chòi có quyền chọn và hưởng toàn bộ sản phẩm thu được một trong năm miệng đáy mà người chủ của họ đã đầu tư. Dù vậy, nhiều ông chủ đáy hàng khơi vẫn giàu sụ.

Làng bạn chòi chờ chồng

Anh Trần Lê Út, phó chủ tịch UBND thị trấn Cái Đôi Vàm – Phú Tân, cho biết: thị trấn Cái Đôi Vàm có tới 60 hộ làm nghề đáy hàng khơi, mỗi hộ thuê 10 – 30 bạn. Hầu hết bạn chòi sống kham khổ. Thậm chí nhiều người phải bỏ mạng oan uổng ngoài biển vì nghề này. Sau cơn bão Linda 1997, bạn chòi giỏi còn không mấy người.
Chiếc ghe chở tôi cùng 20 bạn chòi trở về, cập bến. Hàng chục phụ nữ cùng mấy đứa nhỏ tay thúng, tay rổ đứng chờ sẵn từ lúc nào.

Chị Diệp, vợ anh Thạch Văn Thống, vừa thấy chồng bước xuống đã vây lấy mà không màng tới phần cá tôm được chia. Vợ anh Hai Chiểu nói: “Ngày nào chị em tụi tui cũng ngóng ra biển chờ mấy ổng”. Lẫn trong số những phụ nữ ấy, có nhiều người không phải đến chia phần mà đến để nhặt cá thuê hay mua lại ra chợ bán kiếm tiền. Gương mặt họ buồn hiu hắt, nhiều goá phụ quay mặt giấu những giọt nước mắt khi chứng kiến cảnh vợ con người khác vui mừng đón chồng.

Nghề đáy hàng khơi là vậy, lắm lúc biển bao dung mang lại cơm no áo ấm cho họ, nhưng đôi khi biển cũng giận dữ lấy lại những gì đã ban phát và cả mạng người.

Du lịch, GO! - Theo Langviet và nhiều nguồn ảnh khác

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống