Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Saturday, 21 April 2012

Găm vào ký ức tôi là hai hình ảnh trái ngược nhưng thật nên thơ: bên cạnh những công trình thủy điện đồ sộ hiện đại, tôi gặp những tộc người còn giữ nguyên vẻ hoang sơ.

< Hồ Hàm Thuận đẹp như một bức tranh thủy mặc.

Công trình thủy điện và những con thác đẹp mê hồn

Đa Mi là một xã của huyện của huyện Hàm Thuận Bắc (Bình Thuận). Thời Pháp thuộc, Đa Mi thuộc về huyện Di Linh (Lâm Đồng), sau đó mới thuộc về Bình Thuận. Đa Mi là đọc chệch từ Đạ Mí. “Đạ” theo tiếng đồng bào K’ho, Raglay, Châu Ro... ở Nam Tây Nguyên có nghĩa là nơi có nước, có sông. Mí là tên riêng.

Nơi này có độ cao 600-850 mét so với mặt biển, 90% là đồi dốc, nổi tiếng với nhà máy thủy điện Hàm Thuận-Đa Mi, được đưa vào sử dụng từ năm 2001. Công suất của cụm nhà máy này hiện đứng thứ thuộc loại “khủng”, chỉ sau thủy điện Sơn La (Hòa Bình) và Yaly.

< Những con đường ở Đa Mi uốn lượn theo các dòng sông và núi.

Vùng đất này còn nổi tiếng với hai hồ nước rất lớn: hồ Hàm Thuận rộng 2.500ha và hồ Đa Mi có diện tích 700ha. Hồ Hàm Thuận gồm tám đảo nhỏ, nổi lên giữa dòng nước có “xuất thân” từ sông La Ngà (Đồng Nai). Còn hồ Đa Mi chỉ có nhiệm vụ giữ nước để làm thủy điện.

Những con sông nhỏ ở khu vực này khá đặc biệt, tất cả đều chảy theo hình chữ “S”, giống như dáng hình của đất nước. Hơn nữa, nước ở đây trong vắt, xanh màu ngọc bích và có nhiều thác gềnh. Chính sự kết hợp này đã tạo ra những cảnh đẹp đến nao lòng.

Chỉ tính riêng trong xã Đa Mi đã có rất nhiều thác nước đẹp, cao hàng trăm mét xuất hiện ngay bên đường đi. Có thể kể ra như: Thác 9 tầng, Sương mù, Tazun, Đaguri…Trong đó, nổi tiếng nhất là thác 9 tầng và Sương mù. Thác 9 tầng có đủ 9 tầng, mỗi tầng cách nhau từ 50 – 100m. Điều kì lạ là dù mùa nắng hay mưa, nước trong thác cũng không bao giờ cạn. Còn thác Sương mù thì quang năm cảnh vật như cõi bồng lai, tiên cảnh.

Gặp tộc người không thích mặc áo

< Hình ảnh này phổ biến trong các thôn, bản của người K’ho.

Giống như các vùng đất khác ở Nam Tây Nguyên, bà con dân tộc tại Đa Mi (Lâm Đồng) chủ yếu sống bằng nghề trồng trọt và săn bắt như thuở xa xưa, tuyệt nhiên không có chợ để thông thương. Nạn tảo hôn vẫn còn rất nhức nhối khi dọc đường đi, chúng tôi trông thấy những thiếu nữ 13-14 tuổi đã tay bồng tay bế con nhỏ và không nói được tiếng Kinh. Đặc biệt là người K’ho.

Có một phong tục rất độc đáo của dân tộc này mà không nơi nào có-từ 50 tuổi trở đi không bao giờ mặc áo nữa. Cuộc sống du canh du cư của họ khá giống với tộc người Rục ở Quảng Bình. Nói là trong một buôn nhưng mỗi nhà cách nhau đến nửa cây số.

So với đồng bào K’ho tại nhiều nơi cũng như các dân tộc thiểu số khác, tộc người K’ho tại Đa Mi sống tách bạch với thế giới bên ngoài. Khi ở nhà hay lên rừng, người K’ho trẻ vẫn mặc quần áo, đội khăn, đeo gùi bình thường. Nhưng người trên 50 tuổi được cho là già nên ở tại nhà sàn và thoải mái…ở trần.


< Những đứa trẻ ở Đa Mi.

Chị K’Poh, người duy nhất biết nói tiếng Kinh ở thôn Đa Tro (Đa Mi) giải thích với giọng lơ lớ: “Tôi chỉ nghe ba mẹ nói, nguồn gốc chúng tôi là ở Lâm Đồng di cư xuống đây từ lâu lắm rồi. Những người già thì không cần mặc áo, còn nếu trẻ như vậy sẽ bị phạt bò đãi cả làng đó!”.

Đi qua những buôn làng của người K’ho, tôi thấy nhiều người già không hề mặc áo, chỉ mặc quần (kiểu xà-rông) màu mè. Họ hồn nhiên tiếp chuyện những người khách phương xa đến không một chút ngượng ngùng.

Người K’ho còn một tục lệ đặc biệt nữa là cà răng. Những đứa trẻ đến tuổi trưởng thành (18 mùa rẫy) đều phải tham gia tập tục này. “Đau khủng khiếp. Nhưng có thuốc rừng đắp vào nên cũng đỡ. Cà răng để thể hiện tình yêu buôn làng và chứng tỏ mình đã lớn, chịu đựng được những đớn đau, khó khăn”-chị K’Poh cho biết.


< Nạn tảo hôn ở Đa Mi khá phổ biến.

Bà Đoàn Thị Ngọ, PGĐ Bảo tàng Lâm Đồng - một chuyên gia nổi tiếng về văn hóa các dân tộc Tây Nguyên cho biết, khu vực Nam Tây Nguyên (tiếp giáp giữ Lâm Đồng và Bình Thuận) có nhiều người K’ho sinh sống, chiếm số lượng cao nhất trong các dân tộc ít người. Người K’ho chia làm nhiều nhánh: Lạch, Srê, Nôp…Họ có nhiều nét văn hóa khá giống người M’nông ở Đắk Lắk.

Chị Đoàn Thị Ngọ-GĐ Bảo tàng Lâm Đồng cho biết, người K’ho ở Tây Nguyên đến nay vẫn giữ những phong tục truyền thống như vậy. Trong khi những dân tộc ít người khác ở Tây Nguyên như: Bana, Giarai, S’tiêng, M’nông đều tiếp nhận nền văn hóa bên ngoài khá nhiều.

Trời ngả về tối, chúng tôi đã tìm thấy đường ra quốc lộ 1A sau cả buổi “lưu lạc” tại Đa Mi. Tạm biệt một vùng đất hoang sơ mà giàu tình người, chúng tôi tiếp tục hành trình với những cảm giác tươi nguyên đầy lưu luyến về một vùng đất đẹp và kỳ lạ như trong huyền thoại.

Du lịch, GO! - Theo Hoàng Hùng, Kienthuc.com

Friday, 20 April 2012

Thạch Bích sơn, tên nôm quen thuộc là núi Đá Vách, nằm sừng sững đứng giữa trời về phía đông Nam huyện Sơn Hà, giáp giới huyện Minh Long, cao khoảng 1.500 mét. 

Đây là ngọn danh sơn vào hàng cao nhất, hùng vỹ và hiểm trở nhất tỉnh Quảng Ngãi. Vùng núi non, thung lũng châu tuần chung quanh Thạch Bích với nhiều sông suối, hẻm vực là địa bàn quần cư từ lâu đời của tộc người H're.

Non núi dăng dăng đổi cả trời,
Một hòn Thạch Bích tiếng muôn đời.
Đá xây đứng sững y như vách,
Bóng xế soi về khắp mọi nơi.
(Nguyễn Cư Trinh)

Sách Đại Nam dư địa chí ước biên (Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn) phần tỉnh Quảng Ngãi, chép:
 “Núi Thạch Bích cây cỏ um tùm, chưa qua khai thác. Sương mai tím biếc, đỏ lựng ráng chiều. Tà dương soi rọi thì núi non rực rỡ như ánh sao. Trong mười cảnh đẹp của Quảng Ngãi, có một cảnh được gọi là “Thạch Bích tà dương”.

Nửa sau thế kỷ XX, ông Phạm Trung Việt miêu tả về phong cảnh Thạch Bích trong sách Non nước xứ Quảng như sau:

“Hình núi đứng cao chót vót, cỏ cây rậm rạp, thế núi quanh co, vách đá dựng ngược, phía tây thông đến các làng Thượng Minh Long có Tử Tuyền (suối Tía) rất hiểm trở.

Buổi mai khi mây ngưng sắc tía, buổi chiều hang ngậm màu son, bóng tà dương chiếu ánh đá núi đều dợn sóng như sao.

Khi mặt trời lặng bóng, cảnh vật nhuộm màu đen thì riêng đỉnh Thạch Bích còn rực rỡ ánh hoàng hôn oai hùng vươn lên chọc trời, tạo nên cảnh đẹp hùng vĩ.”

Theo sách Viêm Giao trưng cổ ký của Cao Xuân Dục, ngoài núi Thạch Bích nói trên, còn có một núi Thạch Bích khác, thấp hơn, ở phía tây huyện Mộ Đức, cách Tĩnh Man trường lũy một ngày sơn đạo. Lại có suối nước khoáng mang tên Thạch Bích, nằm về phía đông nguồn Đà Bồng, nay thuộc xã Trà Bình, huyện Trà Bồng.

Thạch Bích cũng là tên một thôn của huyện Chương Nghĩa, về phía tây bắc tỉnh thành, cận bờ bắc sông Trà Khúc, nay thuộc phường Lê Hồng Phong, thành phố Quảng Ngãi. Tuy vậy, chỉ duy nhất Thạch Bích sơn ở vùng Sơn Hà – Minh Long mới được gọi nôm là Đá Vách, còn núi Thạch Bích ở Mộ Đức, suối khoáng Thạch Bích ở Trà Bồng và thôn Thạch Bích ở hạ du sông Trà Khúc thì không!

Cho đến nay, đường lên núi Đá Vách vẫn đầy hiểm trở, cho dù có thể đến đấy theo các ngã Sơn Hà (từ Trà Nham), Minh Long (từ Long Sơn) hoặc Tư Nghĩa (từ làng Lâk, xã Nghĩa Sơn). Trong 3 lối ấy, có lẻ ngoạn mục nhất là ngã Minh Long, theo cung đường: Long Sơn – Làng Ren – Gò Tranh – Đá Vách. Ô tô, xe máy chỉ đến được Long Sơn (Thành phố Quảng Ngãi - chợ Chùa - chợ phiên Tam Bảo – Kim Thành Thượng – Long Sơn). Từ Long Sơn đến đỉnh núi Đá Vách chừng 2 ngày đi bộ và leo núi. Kể cũng là kỳ công, và chỉ giành cho những người nặng máu phiêu lưu. Ấy vậy mà có thi sỹ lại bảo “thuận đường”, nghe cũng lạ, chẳng biết thực hư:

Rồi một ngày thuận đường lên Thạch Bích
Đợi bóng chiều lấp lánh ánh tà dương
Quên làm sao ngõ ngách một con đường
Men vách đá chập chùng rêu giăng phủ
Ung Văn Khanh – Hương đất mẹ

Văn chương lắm khi chỉ là lời trần thuật những điều nằm mơ mà thấy, huyển hoặc hình dung, huyền hồ sương khói. Có ai đến được núi Thần Phù lênh đênh ngoài cửa bể? Biết người nào từng một lần gác mái chèo ngắm cảnh Đào nguyên? Vậy mà cảnh tiên, xứ Bụt vẫn được kể lại cả thiên chương vạn quyển, đời nọ nối đời kia.

Nguyễn Cư Trinh (1716 -1767), Nguyễn Tấn (1822 - 1871) dù hiểu biết khá sâu sắc về miền tây Quảng Ngãi nhưng chưa có gì chứng tỏ hai ông đã đặt chân lên những con đường ngoằn ngoèo, hiểm trở dẫn lên đỉnh Đá Vách. Cao Xuân Dục (1843 – 1923), Phạm Trung Việt (1926 – 2008), những nhà biên khảo tài hoa, miêu tả ngọn núi khéo léo đến dụ mê người đọc, chắc chắn chỉ từ phía xa vọng nhìn Thạch Bích. Nhiều khách thơ đời nay như Phạm Cung, Chiêu Dương, Ngã Du Tử, Phạm Thiên Thư... ngâm vịnh Thạch Bích tà dương qua tưởng tượng mơ hồ về một ngọn núi phía trời tây, khuất sau mây trắng.

Trèo non lội suối cũng là một thú ngoạn du giành cho những ai thích khám phá, phiêu lưu. Ước chi một ngày nào đó, Quảng Ngãi mở tuyến du lịch 12 thắng cảnh, lữ khách tha hồ mà dạo chơi lên đỉnh những Vân Phong, Vu Sơn, Thạch Bích...

Thử hỏi ngành du lịch, tại sao không?

Du lịch, GO! - Theo Quảng Ngãi Online, internet
Dao Nga Hoàng là một trong 13 dân tộc bản địa đã cư trú lâu đời tại tỉnh Yên Bái. Ngoài tên gọi như trên, đồng bào còn có các tên gọi khác như Dao quần chẹt hay Dao sơn đầu, các tên gọi này được gọi theo các đặc điểm của trang phục và trang trí của đồng bào.

Cũng như các dân tộc khác, người Dao Nga Hoàng có truyền thống văn hóa đặc sắc, phong phú, góp phần làm đa dạng nền văn hóa cổ truyền các dân tộc thiểu số Yên Bái, trong đó lễ cưới truyền thống là một điểm nhấn quan trọng trong tổng thể văn hóa đa sắc màu đó.

Người Dao Nga Hoàng có nhiều hình thức lễ cưới như: lễ cưới truyền thống, lễ cưới ở rể đời, lễ cưới gửi rể và lễ cưới kết hợp lễ cấp sắc.

Trong đó lễ cưới truyền thống là lễ cưới phổ biến nhất trong cộng đồng dân tộc Dao Nga Hoàng ở Yên Bái. Là mốc quan trọng của đời người, lễ cưới truyền thống của người Dao Nga Hoàng trải qua nhiều nghi thức đặc sắc mang đậm bản sắc riêng của dân tộc.

Để chuẩn bị cho lễ cưới chính thức là nghi lễ so tuổi. Ở đây, khi chuẩn bị cho lễ cưới, gia đình nhà trai sẽ sang nhà gái làm một lễ nhỏ để xin tuổi, sau đó họ sẽ nhờ thầy cúng xem tuổi giúp để so sánh của đôi bạn trẻ có hợp nhau không, lấy nhau có sống hạnh phúc không theo các quan niệm dân gian của đồng bào.

Thách cưới là một tập quán có từ lâu đời trong lễ cưới truyền thống người Dao Nga Hoàng. Ngày trước, với quan niệm trả công chăm lo dưỡng dục cô dâu cho gia đình nhà gái nên các gia đình thường muốn thách cưới thật cao, sao cho xứng với công sinh thành dưỡng dục nhưng món nợ thách cưới lại là gánh nặng mà nhà trai và đôi vợ chồng trẻ phải rất khó khăn cực nhọc để kéo cày trả nợ. Ngày nay, thách cưới chỉ còn là một tập quán đẹp, mang ý nghĩa nhân văn nên tiền thách cưới không còn cao nữa.

Trong lễ cưới của người Dao Nga Hoàng, không có lễ ăn hỏi mà tục bỏ ngõ được thay thế. Đây là một nghi thức quan trọng trước khi diễn ra lễ cưới chính thức. Đến ngày đã được định trước, nhà trai mang sang nhà gái một vuông vải chàm, bên trong là một đồng bạc trắng hoặc một chiếc vòng bạc để làm tin như một lời hứa chắc chắn về lễ cưới. Ông mờ, bà mờ là người tổ chức và hướng dẫn cô dâu chú rể các nghi thức và phong tục tập quán của lễ cưới. Ông mờ bà mờ của cả hai gia đình nhà trai và nhà gái phải là những người thông minh, hoạt bát, ứng khẩu nhanh nhẹn, người phải uống được nhiều rượu không say và là người hát giao duyên đối đáp thật giỏi trong lễ cưới.

Nét đặc sắc trong nghi thức đón dâu của đồng bào là nghỉ dọc đường. Các cụ già trong làng cũng không biết tập quán này có từ khi nào nhưng cho dù nhà trai chỉ cách nhà gái một quãng đường ngắn nhưng đoàn đón dâu vẫn phải nghỉ và ăn cơm, uống rượu dọc đường với những thức ăn do nhà trai đã chuẩn bị từ trước.
Tại nhà gái, lễ cúng cắt khẩu hết sức quan trọng được diễn ra vào lúc nửa đêm. Đây là nghi thức thầy cúng thông báo với tổ tiên và các thần thánh, thổ công thổ địa biết cô dâu từ nay đã đi lấy chồng, không còn thuộc “con ma” của nhà nữa. Các nghi thức của lễ cưới được diễn ra tại nhà gái trong suốt cả đêm với nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa, hát dân ca đối đáp giữa hai gia đình.

Cũng giống như các dân tộc khác, lễ cúng tổ tiên nhập gia tiên là một nghi thức không thể thiếu trong lễ cưới truyền thống của người Dao Nga Hoàng. Khi cô dâu được đưa về tới nhà trai, nghi thức cúng tổ tiên được thực hiện ngay tại bàn thờ tổ tiên của gia đình. Nhưng đặc sắc và độc đáo hơn các tộc người khác đó là trong lễ cưới truyền thống của người Dao Nga Hoàng có nghi lễ kết tơ hồng được thực hiện ngay sau lễ cúng tổ tiên.

Đây là nghi thức chính của lễ cưới. Người Dao Nga Hoàng phải tổ chức xong nghi thức này, họ quan niệm sẽ được sống hạnh phúc với nhau trọn đời, không có gì có thể chia tách đôi vợ chồng, bởi các phép kết tơ hồng đã gắn kết đôi bạn trẻ. Một đôi chiếu được trải ra trước bàn thờ tổ tiên, đôi vợ chồng trẻ quỳ trước bàn thờ, lần lượt các nghi thức của lễ kết tơ hồng được thầy cúng thực hiện nghi thức xua đuổi những điều xấu xa ra xa đôi vợ chồng trẻ, tiếp theo là nghi thức làm bùa yêu để hai người được bên nhau mãi mãi theo quen niệm từ lâu đời của người Dao Nga Hoàng.

Ngay sau bùa yêu làm bùa yểm, thầy cúng yểm cho đôi vợ chồng trẻ luôn luôn khỏe mạnh và được bảo vệ bởi các thần thánh. Kết thúc nghi thức này là lễ lạy của cô dâu và chú rể. Chú rể phải lạy đủ 12 lần trước bàn thờ tổ tiên cùng với cô dâu theo tập quán truyền thống.

Lễ cưới truyền thống của người Dao Nga Hoàng ở Yên Bái được trải qua nhiều giai đoạn, nhiều nghi thức khác nhau. Trong lễ cưới, nhiều hình thức hát giao duyên, đối đáp được hai ông, bà mờ của hai gia đình thể hiện. Lễ cưới truyền thống của người Dao Nga Hoàng ở Yên Bái như lời mời gọi, gợi mở những khám phá mới lạ, những điều thú vị, độc đáo và đặc sắc của một ngành Dao độc đáo ở Yên Bái.

Du kịch, GO! - Theo Cổng thông tin Điện tử Yên Bái, internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống