Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Saturday, 21 April 2012

Bài 1: Cửa biển Rạch Gốc - Một địa danh đi vào lịch sử

Nghị quyết 09 - NQ/TW ngày 9.2.2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” đã nhấn mạnh: “Thế kỷ XXI được thế giới xem là “thế kỷ của đại dương”. Các quốc gia có biển đều rất quan tâm đến biển và coi trọng việc xây dựng chiến lược biển. Khu vực biển Đông, trong đó có vùng biển Việt Nam, có vị trí địa kinh tế và địa chính trị rất quan trọng...  với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, ngày nay biển càng có vai trò to lớn hơn đối với sự nghiệp phát triển đất nước”.

Có thể khẳng định, tiềm năng tài nguyên biển và vùng ven biển của nước ta nói chung và Cà Mau nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Vùng biển Cà Mau có trữ lượng dầu khí rất lớn, cùng các loại khoáng sản có giá trị.

< Ven cửa biển Sông Đốc.

Bên cạnh đó là nguồn lợi hải sản với chủng loại rất phong phú, đa dạng, dọc bờ biển có nhiều địa điểm có thể xây dựng cảng như Sông Đốc, Năm Căn, Hòn Khoai... trong đó có nhiều nơi có thể xây dựng cảng trung chuyển quốc tế; có đảo có tiềm năng phát triển kinh tế tổng hợp. Ngoài ra, biển Cà Mau có nhiều bãi biển lớn, nhỏ nong thoải, không khí trong lành với cảnh quan đẹp...

Bài 1: CỬA BIỂN RẠCH GỐC - MỘT ĐỊA DANH ĐI VÀO LỊCH SỬ

< Đánh bắt hải sản cửa biển Rạch Gốc.

Về xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển, chúng tôi tìm đến những vị lão làng để được nghe kể về một cửa biển. Rạch Gốc - cửa biển thiên nhiên, nơi gắn liền với những chiến tích hào hùng của quân và dân Cà Mau qua hai cuộc trường kỳ kháng chiến đã và đang chuyển mình đi lên bằng chính tiềm năng sẵn có.
Cửa biển Rạch Gốc, một địa danh đi vào lịch sử với bao chiến công của các nghĩa sĩ thời chống Pháp và Mỹ...


< Nghề lưới ở Rạch Gốc.

Đây là đầu mối giao thông quan trọng, thuận lợi để Phan Ngọc Hiển cùng các đồng chí ra vào chiến đấu và làm nên chứng tích lừng lẫy trên đảo Hòn Khoai năm 1940. Đồng thời, cửa biển Rạch Gốc còn là địa điểm tiếp nhận vũ khí từ hậu phương miền Bắc chuyển vào trên những chuyến tàu không số và cũng từ đây, có những con người đã làm nên lịch sử như Anh hùng Phan Ngọc Hiển, Anh hùng Bông Văn Dĩa và Nguyễn Văn Cự...

Ngày nay, cửa biển Rạch Gốc lại trở thành trung tâm phát triển kinh tế của xã Tân Ân nói riêng và huyện Ngọc Hiển nói chung. Hiện nay, nghề đánh bắt và nuôi trồng thủy sản là động lực chính để phát triển kinh tế của người dân vùng cửa biển.

Ngoài các nghề truyền thống như đóng đáy hàng khơi, câu cào mé... cửa biển Rạch Gốc đang được xem là “cửa khẩu” về con tôm sú bố mẹ.

< Rạch Gốc là nơi cung cấp tôm sú bố mẹ lớn nhất ở tỉnh Cà Mau.

Với lợi thế cửa biển sâu, không lệ thuộc thủy triều, bến bãi thuận lợi cho tàu thuyền neo đậu, lại gần ngư trường đánh bắt của Hòn Khoai, Hòn Chuối, nên cửa Rạch Gốc thu hút nhiều phương tiện biển đến khai thác, đánh bắt. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển nghề đánh bắt thủy hải sản ở Tân Ân. Hằng ngày, từ lúc 4 đến 8 giờ sáng, cửa biển Rạch Gốc lại tấp nập với các hoạt động trao đổi mua bán.

Nghề biển phát triển, kéo theo nhiều dịch vụ khác ra đời: Cửa hàng lương thực, thực phẩm; các hãng nước đá... phục vụ ghe tàu đi đánh bắt trên biển. Kinh tế ổn định, mức sống người dân ngày càng nâng cao.

< Cuộc sống của ngư dân miền biển ngày càng sung túc.

Rạch Gốc hiện nay nhà cửa khang trang, lộ xe thông thoáng; ghe máy, ca-nô lưu hành liên tục trong ngày theo hành trình từ TP.Cà Mau - Rạch Gốc. Cửa biển Rạch Gốc là nơi phát triển sầm uất, tạo tiền đề cho sự phát triển chung của huyện Ngọc Hiển. Có người ví cửa biển Rạch Gốc như miệng con rồng đang ngậm trái châu (Hòn Khoai); chân rồng là rạch Nhà Phiếu, Nhà Diệu, rạch Ô Rô và rạch Dinh Hạng; đuôi rồng là Lâm trường Kiến Vàng của Ngọc Hiển. Ông Huỳnh Văn Tuôi, 71 tuổi, Nguyên Chủ tịch UBND xã Tân Ân, nhận xét: Cửa biển Rạch Gốc là món quà thiên nhiên ban tặng, nếu được đầu tư đúng mức và đi  đúng hướng thì nghề đánh bắt thủy sản ở đây sẽ là động lực giúp quê hương đổi mới.

Bài 2: Cửa biển Khánh Hội – Vực dậy một tiềm năng

< Phương tiện đánh bắt ở cửa biển Khánh Hội.

Cửa biển Khánh Hội thuộc huyện U Minh, hằng năm, có sản lượng thủy hải sản đứng nhất nhì trong tỉnh và thủy sản còn được xem là ngành mũi nhọn trong phát triển kinh tế của huyện. Với lợi thế quan trọng đó, chắc hẳn trong tương lai Khánh Hội sẽ trở thành một đô thị biển đầy sức sống và sung túc.

MỘT THỜI TANG TÓC

Hơn 10 năm trước, khi cơn bão Lin-đa đi qua với sức tàn phá khủng khiếp, Khánh Hội đã phải chịu nhiều tổn thất nặng nề cả về vật chất lẫn tinh thần. Hàng trăm ngôi nhà, hàng trăm tàu biển, bị chôn vùi theo những cơn sóng dữ, hơn 1.000 người đã ra đi không trở lại... Lúc bấy giờ, Khánh Hội chỉ còn là một xóm làng điêu tàn, xác xơ, khắp nơi phủ một màu tang tốc. Thiệt hại do cơn bão gây ra không chỉ là gánh nặng của người dân mà còn là gánh nặng của chính quyền địa phương và toàn xã hội.

Các ngành chức năng cùng với chính quyền địa phương đã có những chính sách thiết thực hỗ trợ trên nhiều phương diện, các dự án tạo việc làm, cho vay vốn, hướng nghiệp... đồng loạt được thực hiện. Đó là điều kiện để người dân Khánh Hội có thể ổn định cuộc sống, vượt qua nỗi đau mất mát bằng chính nghị lực của mình - những người vốn từng phó thác cả cuộc đời mình cho biển khơi đầy bão tố.

< Sản phẩm từ cửa biển Khánh Hội.

Đã qua một thời gian, nghề khai thác thủy hải sản của vùng biển này bị trì trệ, bởi sau bão, cần khoảng thời gian dài để đóng mới tàu và cần khoảng thời gian đủ để ngư dân có thể định thần... Nhưng Khánh Hội đã có sức hồi sinh mãnh liệt, mảnh đất hoang tàn ngày nào giờ đây đã thay da đổi thịt, dù trải qua bao đau thương mất mát, nhưng nhịp sống của người dân nơi đây vẫn ngày càng khởi sắc.

VỰC DẬY MỘT TIỀM NĂNG

Trải qua bao thăng trầm, biến đổi, Khánh Hội hôm nay có những bước tiến vững chắc. Anh Nguyễn Hoàng Mãi - Chủ tịch UBND xã Khánh Hội cho biết: Khánh Hội đã hình thành một làng cá ngay tại cửa biển, với khoảng 172 tàu công suất 90CV trở lên, hơn 300 tàu công suất dưới 40CV và nhiều phương tiện đánh bắt khác. Cửa biển Khánh Hội được bao bọc bởi Hòn Phú Quốc (Kiên Giang), Hòn Khoai, Hòn Chuối, tạo địa thế an toàn, tránh được sóng to gió lớn. Cửa biển Khánh Hội có nguồn lợi thủy hải sản với giống loài phong phú... đặc biệt, ba năm trở lại đây, nhiều ngư dân đã trúng mùa mực, có điều kiện ổn định cuộc sống, vươn lên khá, giàu. Ngư dân có thể ra khơi đánh bắt vào bất cứ mùa nào trong năm, không như trước kia chỉ đánh bắt vào mùa chướng.

Hiện nghề đánh bắt truyền thống như câu cào mé, đóng đáy hàng khơi ít được chú trọng, ngư dân chủ yếu đánh bắt xa bờ để khai thác sản lượng lớn. Hằng ngày, các hoạt động trao đổi mua bán diễn ra sôi nổi, các tàu thu mua hàng thủy sản luôn túc trực ở cửa biển, ngư dân không còn phải chuyên chở xa. Cửa biển Khánh Hội còn là nơi giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động. Khi thu hoạch xong vụ lúa, những người có tàu, ghe đánh bắt lại chuẩn bị cho mùa khai thác biển, những người không có điều kiện thì khai thác theo kiểu “ăn chia”...

< Bia tưởng niệm nạn nhân cơn bão số 5.

Anh Nguyễn Vẹn Toàn chủ tàu Đức Trí - khai thác ở cửa biển Khánh Hội gần 20 năm, 17 tuổi anh đã theo cha đi biển, một khoảng thời gian dài để có thể chiêm nghiệm những gì đã qua. Anh bộc bạch: Có thể nói, khai thác biển là nghề ổn định và bền vững, bởi nguồn lợi từ biển là vô hạn, nếu tính toán cẩn thận trong quá trình khai thác sẽ thu lợi nhuận cao.

Dân đi biển ở Khánh Hội không còn “vô tư” trước sóng gió, nay, theo hướng dẫn của bộ đội Biên phòng nhiều cụm tàu thuyền an toàn đã hình thành, dựa vào nhau sẵn sàng ứng phó mọi tình huống nguy hiểm có thể xảy ra. Ngư dân cũng thường xuyên cập nhật thông tin trên báo, đài... tránh những thiệt hại đáng tiếc.

Khánh Hội không chỉ là trung tâm kinh tế thủy sản của huyện U Minh mà hiện nay, chính quyền địa phương đang phấn đấu đến năm 2010, nơi đây sẽ là thị trấn cửa biển với đội ngũ phương tiện khai thác hùng hậu nhất nhì của tỉnh. Mỗi năm ngân sách đầu tư hàng chục tỷ đồng để khai thông cửa biển cho tàu ra vào thuận lợi, thu hút nhiều phương tiện đến khai thác, đánh bắt; xây dựng các cơ sở hạ tầng như: điện, đường, trường, trạm, theo đó là các loại hình dịch vụ khác phát triển, tạo đà cho Khánh Hội vực dậy nhanh chóng tiềm năng kinh tế thủy sản.

Còn tiếp

A1 - Những cửa biển ở Cà Mau
A2 - Những cửa biển ở Cà Mau
A3 - Những cửa biển ở Cà Mau
A4 - Những cửa biển ở Cà Mau

Du lịch, GO! - Theo báo Ảnh Đất Mũi và nhiều nguồn ảnh khác
Trên đường từ thành phố Quy Nhơn ra Khu kinh tế Nhơn Hội, khi đi ngang qua dãy núi Bà ở huyện Phù Cát, du khách sẽ thấy ở lưng núi thấp thoáng mái chùa đỏ thắm giữa màu xanh biếc của cây rừng. Đó là chùa Ông Núi, còn gọi là Linh Phong thiền tự - một trong những ngôi chùa lâu năm nhất của Bình Định.

Từ đường nhựa đi vào chân núi khoảng vài trăm mét du khách sẽ gặp hàng cột được trang trí công phu mở lối bước lên những bậc đá dẫn đến chùa. Lối đi quanh co theo sườn núi được tạo bởi hàng ngàn bậc đá này có từ hơn ba thế kỷ trước. Đường lên chùa vẫn còn nguyên vẻ tự nhiên, cỏ cây, hoa dại mọc chen giữa đá, đâu đó thoang thoảng mùi hoa dủ dẻ thật dễ chịu. Đi hết khoảng hơn một trăm bậc đá sẽ thấy ngôi chùa nằm ở độ cao khoảng 400m so với mực nước biển hiện ra.

Thật lạ là giữa lưng chừng núi lại có một khoảng đất khá rộng và rất bằng phẳng, đủ để xây một ngôi chùa lớn. Theo sách cũ, năm 1702, thiền sư Tịnh Giác đến núi này tu hành.

Vị cao tăng dựng một mái chùa bằng cỏ tranh, sống một mình trên núi, thỉnh thoảng mới xuống thôn xóm chữa bệnh cho dân làng. Thấy ông dùng vỏ cây làm áo quần, dân trong vùng gọi ông là Mộc Y Sơn Ông.

Năm 1733, chúa Nguyễn Phước Trú lệnh cho quan địa phương dựng chùa lại bằng ngói, đổi tên là Linh Phong thiền tự. Ông tổ tuồng Đào Tấn khi đang là Thượng thư bộ Công cũng đã bỏ tiền tu bổ lại chùa và làm thơ ca ngợi cảnh đẹp nơi này.

Ở Huế, Đào Tấn cũng lập hòn non bộ trong phủ đệ của mình, trên đó khắc hai chữ Linh Phong (hòn non bộ này hiện còn ở trong khuôn viên chùa Thiên Mụ). Chùa Ông Núi cũng được sách Đại Nam Nhất thống chí khen ngợi: “Chùa lưng dựa vào núi cao, mặt trông ra đầm biển cạn, xung quanh có nước suối lượn quanh, phong cảnh rất đẹp”.

Hiện nay, một ngôi chùa mới được xây lại rất khang trang bởi năm 1965, chùa cổ bị cháy bởi bom đạn. Chỉ còn hang Tổ, nơi thờ cúng người khai phá núi xây chùa và dòng suối nhỏ trong trẻo gợi nhớ hình ảnh ngôi chùa cổ kính ngày xưa.

Khuôn viên chùa luôn mát rượi nhờ những tán cây cổ thụ như phượng, mít, bàng. Rất nhiều liễu và hoa được trồng chung quanh hồ nước rộng ngay trước chính điện.

Đứng từ cổng chùa, nhìn ra xa thấy đầm Thị Nại trong xanh điểm những con sóng bạc. Gần chân núi là những thôn xóm mái ngói nâu nổi bật giữa đồng lúa xanh non. Dòng sông Chùa uốn lượn lung linh trong nắng, dọc bờ biển, sóng tung bọt trắng xóa. Bước chân ra khỏi chùa, nhiều du khách sẽ thấy lòng thanh thản và bỗng thấy cõi nhân gian thật hữu tình.

Phía sau chùa còn có nhiều tháp cổ xen giữa đá núi và những tán cây rừng cổ thụ. Đây là nơi an nghỉ của các vị sư. Đi sâu vào trong núi có nhiều hòn đá chồng lên nhau tạo thành những hình thù kỳ dị và cả những hang đá thâm u. Một số hang có thờ Phật nên ấm áp mùi nhang khói. Có những hang rất rộng, chứa được cả đoàn quân thời chiến. Nhiều hang đá giờ đây bị những bụi cây gai um tùm lấp mất cửa không ai dám vào. Hang động núi Bà vẫn còn đó nhiều bí mật với khách hành hương.

Du lịch, GO! - Theo TTO và nhiều nguồn ảnh khác
Găm vào ký ức tôi là hai hình ảnh trái ngược nhưng thật nên thơ: bên cạnh những công trình thủy điện đồ sộ hiện đại, tôi gặp những tộc người còn giữ nguyên vẻ hoang sơ.

< Hồ Hàm Thuận đẹp như một bức tranh thủy mặc.

Công trình thủy điện và những con thác đẹp mê hồn

Đa Mi là một xã của huyện của huyện Hàm Thuận Bắc (Bình Thuận). Thời Pháp thuộc, Đa Mi thuộc về huyện Di Linh (Lâm Đồng), sau đó mới thuộc về Bình Thuận. Đa Mi là đọc chệch từ Đạ Mí. “Đạ” theo tiếng đồng bào K’ho, Raglay, Châu Ro... ở Nam Tây Nguyên có nghĩa là nơi có nước, có sông. Mí là tên riêng.

Nơi này có độ cao 600-850 mét so với mặt biển, 90% là đồi dốc, nổi tiếng với nhà máy thủy điện Hàm Thuận-Đa Mi, được đưa vào sử dụng từ năm 2001. Công suất của cụm nhà máy này hiện đứng thứ thuộc loại “khủng”, chỉ sau thủy điện Sơn La (Hòa Bình) và Yaly.

< Những con đường ở Đa Mi uốn lượn theo các dòng sông và núi.

Vùng đất này còn nổi tiếng với hai hồ nước rất lớn: hồ Hàm Thuận rộng 2.500ha và hồ Đa Mi có diện tích 700ha. Hồ Hàm Thuận gồm tám đảo nhỏ, nổi lên giữa dòng nước có “xuất thân” từ sông La Ngà (Đồng Nai). Còn hồ Đa Mi chỉ có nhiệm vụ giữ nước để làm thủy điện.

Những con sông nhỏ ở khu vực này khá đặc biệt, tất cả đều chảy theo hình chữ “S”, giống như dáng hình của đất nước. Hơn nữa, nước ở đây trong vắt, xanh màu ngọc bích và có nhiều thác gềnh. Chính sự kết hợp này đã tạo ra những cảnh đẹp đến nao lòng.

Chỉ tính riêng trong xã Đa Mi đã có rất nhiều thác nước đẹp, cao hàng trăm mét xuất hiện ngay bên đường đi. Có thể kể ra như: Thác 9 tầng, Sương mù, Tazun, Đaguri…Trong đó, nổi tiếng nhất là thác 9 tầng và Sương mù. Thác 9 tầng có đủ 9 tầng, mỗi tầng cách nhau từ 50 – 100m. Điều kì lạ là dù mùa nắng hay mưa, nước trong thác cũng không bao giờ cạn. Còn thác Sương mù thì quang năm cảnh vật như cõi bồng lai, tiên cảnh.

Gặp tộc người không thích mặc áo

< Hình ảnh này phổ biến trong các thôn, bản của người K’ho.

Giống như các vùng đất khác ở Nam Tây Nguyên, bà con dân tộc tại Đa Mi (Lâm Đồng) chủ yếu sống bằng nghề trồng trọt và săn bắt như thuở xa xưa, tuyệt nhiên không có chợ để thông thương. Nạn tảo hôn vẫn còn rất nhức nhối khi dọc đường đi, chúng tôi trông thấy những thiếu nữ 13-14 tuổi đã tay bồng tay bế con nhỏ và không nói được tiếng Kinh. Đặc biệt là người K’ho.

Có một phong tục rất độc đáo của dân tộc này mà không nơi nào có-từ 50 tuổi trở đi không bao giờ mặc áo nữa. Cuộc sống du canh du cư của họ khá giống với tộc người Rục ở Quảng Bình. Nói là trong một buôn nhưng mỗi nhà cách nhau đến nửa cây số.

So với đồng bào K’ho tại nhiều nơi cũng như các dân tộc thiểu số khác, tộc người K’ho tại Đa Mi sống tách bạch với thế giới bên ngoài. Khi ở nhà hay lên rừng, người K’ho trẻ vẫn mặc quần áo, đội khăn, đeo gùi bình thường. Nhưng người trên 50 tuổi được cho là già nên ở tại nhà sàn và thoải mái…ở trần.


< Những đứa trẻ ở Đa Mi.

Chị K’Poh, người duy nhất biết nói tiếng Kinh ở thôn Đa Tro (Đa Mi) giải thích với giọng lơ lớ: “Tôi chỉ nghe ba mẹ nói, nguồn gốc chúng tôi là ở Lâm Đồng di cư xuống đây từ lâu lắm rồi. Những người già thì không cần mặc áo, còn nếu trẻ như vậy sẽ bị phạt bò đãi cả làng đó!”.

Đi qua những buôn làng của người K’ho, tôi thấy nhiều người già không hề mặc áo, chỉ mặc quần (kiểu xà-rông) màu mè. Họ hồn nhiên tiếp chuyện những người khách phương xa đến không một chút ngượng ngùng.

Người K’ho còn một tục lệ đặc biệt nữa là cà răng. Những đứa trẻ đến tuổi trưởng thành (18 mùa rẫy) đều phải tham gia tập tục này. “Đau khủng khiếp. Nhưng có thuốc rừng đắp vào nên cũng đỡ. Cà răng để thể hiện tình yêu buôn làng và chứng tỏ mình đã lớn, chịu đựng được những đớn đau, khó khăn”-chị K’Poh cho biết.


< Nạn tảo hôn ở Đa Mi khá phổ biến.

Bà Đoàn Thị Ngọ, PGĐ Bảo tàng Lâm Đồng - một chuyên gia nổi tiếng về văn hóa các dân tộc Tây Nguyên cho biết, khu vực Nam Tây Nguyên (tiếp giáp giữ Lâm Đồng và Bình Thuận) có nhiều người K’ho sinh sống, chiếm số lượng cao nhất trong các dân tộc ít người. Người K’ho chia làm nhiều nhánh: Lạch, Srê, Nôp…Họ có nhiều nét văn hóa khá giống người M’nông ở Đắk Lắk.

Chị Đoàn Thị Ngọ-GĐ Bảo tàng Lâm Đồng cho biết, người K’ho ở Tây Nguyên đến nay vẫn giữ những phong tục truyền thống như vậy. Trong khi những dân tộc ít người khác ở Tây Nguyên như: Bana, Giarai, S’tiêng, M’nông đều tiếp nhận nền văn hóa bên ngoài khá nhiều.

Trời ngả về tối, chúng tôi đã tìm thấy đường ra quốc lộ 1A sau cả buổi “lưu lạc” tại Đa Mi. Tạm biệt một vùng đất hoang sơ mà giàu tình người, chúng tôi tiếp tục hành trình với những cảm giác tươi nguyên đầy lưu luyến về một vùng đất đẹp và kỳ lạ như trong huyền thoại.

Du lịch, GO! - Theo Hoàng Hùng, Kienthuc.com

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống