Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Sunday, 22 April 2012

Bài 7: Cửa Bồ Đề

Cửa Bồ Đề nằm ở ranh giới tự nhiên giữa hai huyện Năm Căn và Ngọc Hiển, là đầu nối sông Cửa Lớn (Đại Nam Giang) với vùng biển Đông. Cửa biển thông thoáng, thuận lợi giao thông đường biển và đường thủy nội địa, góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương và khu vực.

< Đóng đáy trên cửa Bồ Đề.

Trong chiến tranh chống Mỹ, cửa Bồ Đề từng là “cửa tử” của các “Tiểu pháo hạm Hoa Kỳ” trên sông Cửa Lớn. Trong năm 1970, du kích xã Tam Giang đã nhiều lần đánh thắng pháo hạm địch ra vào cửa Bồ Đề tại vùng Lung Đước và vàm rạch Chủ Mưu. Cửa biển Bồ Đề ngày nay thuộc xã Tam Giang Tây, huyện Ngọc Hiển, là một trong những cửa biển lớn ở Cà Mau.

Đến cửa Bồ Đề, ấn tượng trước hết là sự thông thoáng và mênh mông, với độ rộng khoảng 500m và sâu trên 15m. Cách cửa biển không xa là Chợ Thủ, khu sầm uất nhất của xã Tam Giang Tây, nơi diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán và kinh doanh nghề biển. Đồng thời, cũng là nơi neo đậu an toàn cho các phương tiện sau những chuyến đi biển.

< Hải đăng hướng dẫn tàu thuyền đi biển.

“Lưới cá chét” và “lưới cá lẹp” là hai dự án mới của ngư dân ở cửa Bồ Đề, nhằm chuyển hướng đánh bắt phù hợp với tình hình địa phương và cho thu nhập cao.

Hiện ở cửa biển có nhiều hộ ăn nên làm ra từ nghề lưới cá này. Đặc biệt, nhờ cửa biển sâu và rộng nên ở Bồ Đề có hình thức đánh bắt độc đáo, trông lạ mắt. Từ cửa biển nhìn vào, xa xa là những hàng đáy bè giăng ngang giữa dòng nước chảy, không chỉ là nguồn sống của nhiều ngư dân địa phương, mà còn tạo nên nét hấp dẫn riêng cho cửa Bồ Đề.

< Chị em phụ nữ là hậu cần đắc lực cho việc khai thác biển.

Tuy nhiên, cửa biển này còn có vẻ “tĩnh lặng”, bởi lượng tàu thuyền khai thác cũng như các dịch vụ nghề biển ở Bồ Đề chưa tương xứng với tiềm năng nơi đây. Toàn xã chỉ có trên dưới 115 phương tiện khai thác, 3 vựa thu mua cá của tư nhân; dịch vụ nước đá, xăng dầu cũng chưa đáp ứng nhu cầu. Ông Quách Văn Lợi, ngư dân địa phương, cho biết: “Bồ Đề là một trong những cửa biển lớn, nhiều tiềm năng, nhưng từ trước tới nay kinh tế biển vẫn chưa có nhiều tiến triển. Các vựa ở đây chủ yếu mua cá lớn, nhiều khi còn mua chịu”.


< Hầm than là một trong những nghề lâu đời nhất ở cửa biển Bồ Đề.

Thiếu vốn, ngư dân địa phương không thể phát triển sản xuất; dịch vụ hậu cần nghề cá yếu, cửa biển cũng không thể thu hút tàu thuyền các nơi đến khai thác trao đổi. Vì thế, cửa Bồ Đề vốn rộng càng trở nên “mênh mông” hơn. Cửa biển Bồ Đề cần được phát triển, khai thác tiềm năng để không chỉ phục vụ tốt nhu cấu kinh tế biển ở địa phương, mà còn trở thành cửa khẩu tốt cho việc trao đổi hàng hóa ở cảng Năm Căn trong tương lai.

Bài 8: Vàm Lũng ngày ấy – bây giờ

Cửa biển Vàm Lũng thuộc ấp Dinh Hạng, xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển - cách cửa biển Rạch Gốc 18km về hướng đông-bắc. Nhắc tới Vàm Lũng, người ta lại nhớ về chiến công thầm lặng của các chiến sĩ cách mạng trên những con tàu “không số”, vượt biển Đông chi viện cho miền Nam. Nhờ địa bàn hiểm trở với những cánh rừng phòng hộ dày đặc ven biển và nhiều kênh rạch chằng chịt, Vàm Lũng đã bảo vệ an toàn cho chiến sĩ cách mạng và những con tàu trong suốt 10 năm đạn bom ác liệt.

Bến cuối cùng của đường Hồ Chí Minh trên biển

Với vị trí là bến cuối cùng của đường Hồ Chí Minh trên biển, Vàm Lũng đã làm tròn sứ mệnh lịch sử, bảo vệ an toàn cho chiến sĩ và những con tàu trong 10 năm chống Mỹ. Địa danh Vàm Lũng còn gắn với tên tuổi người anh hùng Bông Văn Dĩa, người chọn quê mình làm bãi tiếp nhận vũ khí bí mật, rồi cùng các đồng chí trong Ðoàn 962 đưa những chiếc thuyền buồm, thuyền máy vượt biển ra miền Bắc, mở đường Hồ Chí Minh trên biển về tận mũi Cà Mau.

< Ngày nay, rừng lại tiếp tục phục vụ đời sống nhân dân.

Nơi đây, ngày 16.10.1962, chiếc tàu đầu tiên “Phương Đông I” do thuyền trưởng Lê Văn Một và chính trị viên Bông Văn Dĩa chở theo 35 tấn vũ khí từ miền Bắc về cập bến an toàn, đã khai thông con đường vận tải chiến lược trên biển Đông - đường mòn Hồ Chí Minh trên biển. Chiến tích ấy đã đi vào lịch sử, mở ra một nét mới, độc đáo, sáng tạo trong chiến tranh chống Mỹ của quân và dân ta. Trong 10 năm (1962 - 1972), đã có 77 chuyến tàu cặp bến thành công, cung cấp hàng ngàn tấn vũ khí, đạn dược phục vụ cho chiến trường miền Nam. Đồng thời, còn ghi dấu, chứng kiến những chiến công hiển hách, vang dội của quân, dân ta và cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125 Hải quân và Đoàn 962 anh hùng, góp phần làm nên Đại thắng lịch sử mùa Xuân 1975, thống nhất đất nước.

Vàm Lũng ngày đổi mới

< Những ghe lưới cá của ngư phủ, hằng ngày vẫn ra vào cửa Vàm Lũng.

Chiến tranh đã lùi về quá khứ, Vàm Lũng ngày nay “thay da đổi thịt”, đời sống người dân ngày càng sung túc. Sống trong hòa bình, no ấm, người dân Tân Ân vẫn mãi tự hào về một quá khứ hào hùng. Người Tân Ân có cách ví von rất hay: “Vàm Lũng song song Kiến Vàng, như hé miệng cười tươi đón chào những chuyến tàu từ Bắc vào Nam. Và những con rạch Câu Lầu, Xẻo Lở, Nhà Ở, Xẻo Đôi, Giáp Ranh, Bào Lớn, Trầm Rộng, Xẻo Già... như hai bàn tay ôm chặt những con tàu... giống như đôi tay của người dân Tân Ân ôm ấp, bảo vệ, tròn nghĩa, tròn chung”. Và những cây mắm, cây đước ngày nào từng che chở cho những con tàu vẫn tiếp tục vươn mình thẳng đứng như khẳng định, thế hệ hôm nay sẽ vẫn sống mãnh liệt, kiên cường như cha anh thời khói lửa.

< Con gái Anh hùng Bông Văn Dĩa - bà Bông Thị Ưa kể lại kỷ niệm với từng di vật của cha mình, phần mộ Anh hùng Bông Văn Dĩa luôn được chăm sóc cẩn thận.

Ngày nay, về lại Vàm Lũng để được tận mắt nhìn những cánh rừng, những con rạch vốn hiền hòa nhưng chứa đầy kỳ tích; để nghe lại những huyền thoại về đất, về người nơi tận cùng Tổ quốc. Để cảm nhận niềm tự hào của người dân nơi đây qua những câu chuyện kể về những con tàu “không số” và bến cảng “không tên”. Tin rằng, thế hệ hôm nay sẽ giữ cho những chiến tích ở Vàm Lũng “là quá khứ nhưng không là dĩ vãng, là huyền thoại nhưng không là cổ tích”.

A1 - Những cửa biển ở Cà Mau
A2 - Những cửa biển ở Cà Mau
A3 - Những cửa biển ở Cà Mau
A4 - Những cửa biển ở Cà Mau

A5 - Những cửa biển ở Cà Mau
A6 - Những cửa biển ở Cà Mau
A7 - Những cửa biển ở Cà Mau - kỳ cuối

Du lịch, GO! - Theo báo Ảnh Đất Mũi
Không chỉ được biết đến với địa danh biển Ba Động hay ao Om… vùng đất này còn ghi dấu với hơn 140 ngôi chùa theo kiến trúc Khmer cổ, trong đó nổi bật là các chùa Nodol, chùa Hang và chùa Âng.

Chùa Nodol

Chùa Nodol hay còn gọi chùa Cò là một ngôi chùa Khmer cổ và lớn thuộc ấp Giồng Lớn, xã Đại An, huyện Trà Cú, cách thị xã Trà Vinh khoảng 40 km về phía nam.

Chùa nằm trên diện tích gần 3 ha với hàng loạt các công trình như chính điện, tháp đựng cốt, nhà tăng, nhà hội…

Khu vực chính điện với những mái uốn cong theo hình đuôi rồng, có những đỉnh tháp nhọn hình ngọn núi Xôme và những hình tượng quen thuộc như Riehu, thần 4 mặt Mohabrom, chim thần Kâyno, Mahaknốt.... Một số tài liệu nhận định không ai biết chính xác năm xây dựng chùa, một số tài liệu khác cho rằng chùa được xây vào năm 1677.

Người dân và du khách quen gọi chùa Nodol là chùa Cò vì hơn 100 năm nay xung quanh chùa, từ chánh điện đến các khu sinh hoạt, ăn uống của các nhà sư là nơi cư ngụ của hàng trăm chủng loại cò như cò trắng, cò quắm, cò mỏ vàng, cò mỏ đen, cò mỏ trắng…

Đến đây, ngoài chiêm bái và thưởng ngoạn cảnh chùa, du khách còn có dịp ngắm bức tranh tuyệt đẹp của những đôi cánh trắng hòa vào bầu trời xanh khi rời tổ đi kiếm ăn mỗi sáng, hay thưởng thức bản hòa tấu lạ của tiếng đọc kinh lẫn tiếng chim trong ánh nắng nhập nhoạng. Và cũng không nơi đâu, bức tranh ký họa theo trường phái “không đụng hàng” giữa khung cảnh nhà chùa và chú cò trắng thơ thẩn kiếm mồi đượcc khắc họa cách tỉ mỉ và chân thật nhất.

Chùa Âng

Chùa Âng hay còn được biết với tên chữ chùa Angkorajaborey là một trong những ngôi chùa cổ nhất trong hệ thống chùa Khmer thuộc phường 8, thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. Chùa Âng rộng hơn 4 hecta tọa lạc cạnh Nhà bảo tàng văn hóa dân tộc Khemer và ẩn mình trong rừng cây cổ thụ của ao Bà Om. Theo truyền thuyết, chùa được xây dựng vào cuối thế kỷ 10. Nhưng qua sổ sách lưu lại, kể từ vị trụ trì đầu tiên, ngôi chùa có trước năm 1715 và được trùng tu năm 1842.

Chùa Âng được xây dựng theo lối kiến trúc độc đáo, với sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật trang trí hình ảnh cảnh trí sắc xảo của văn hoá Khmer và thiết kế lộng lẫy, đầy màu sắc của văn hóa ĂngKor. Thể hiện tại khu chính điện, các gò mái, bên dưới mái nhà, các cột trụ hàng rào quanh chính điện… với các hoa văn, hoạ tiết Thần Rắn Naga, những tượng người đầu chim, rắn thần và chim thần, đầu thần Bayon bốn mặt, tượng chằn Yeak…

Ngoài kiến trúc, chùa Âng cũng ghi dấu với vài trăm cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp thuần khiết cùng không khí trong lành làm say lòng khách thập phương.

Chùa Hang

Chùa Hang, tên chữ Kompông Chrây là ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer nằm bên Quốc lộ 54 thuộc huyện Châu Thành, cách thị xã Trà Vinh 4 km. Chùa được xây dựng từ 1637 với tổng diện tích trên 60 hecta.

Gọi là chùa Hang vì cổng chùa được xây giống như một cái hang, chiều ngang 12m, dài và sâu 12m với một lối đi chính và hai lối đi phụ từ cổng hàng dẫn vào chánh điện cách đó 100m.

Chùa Âng mang đậm dấu ấn Khomer với màu sắc lộng lẫy giống như một cung điện vàng son cùng vật tô-tem (vật tổ) là rắn thần Nara 7 đầu, được chạm trổ và điêu khắc tỉ mỉ.

Ngoài việc thu hút du khách đến tham quan chiêm bái, ngôi chùa này cũng đảm nhiệm phần giáo dục đạo đức và bảo tồn truyền thống văn hóa nghệ thuật cho người dân nơi đây. Như việc dạy trẻ em học hay việc đàn ông Miên đến chùa chuyên tâm cầu nguyện làm sạch linh hồn hay việc các thanh niên Miên đến chùa tu vài năm để thành nhân, cũng là một yếu tố quan trọng trong việc cưới vợ.

Theo tài liệu để lại, nếu không có quả bom rơi vào khuôn viên chùa năm 1986 thì hiện nay, chùa Âng vẫn sẽ là nơi cư ngụ của đàn dơi đông vô số kể như chùa Dơi ở Sóc Trăng (khi bom nổ, dơi giật mình bỏ đi). Dù vậy, bức tranh hàng trăm loại chim trú ngụ trên hàng ngàn cây cổ thụ trong khuôn viên chùa ngày nay cũng thoát tục và thanh bình không kém cho chùa.

Du lịch, GO! - Theo Theo Infonet
Chiều 21-4,  đoàn thám hiểm hang động thuộc Hiệp hội hang động Hoàng gia Anh (BCRA), do ông Howard Limbert làm trưởng đoàn, đã báo cáo với UBND tỉnh Quảng Bình kết quả đợt tìm kiếm và khảo sát hang động ở khu vực phía Tây đường Hồ Chí Minh (nhánh Tây) và cung đường 12A thuộc rừng Phong Nha - Kẻ Bàng, từ ngày 8-3-2010 đến nay.

^ ảnh: Cửa hang Sơn Đoòng.



< Khảo sát hố trên núi đá vôi sâu nhất Việt Nam (ảnh do đoàn khảo sát cung cấp).

Đoàn công bố phát hiện một vực sâu (còn được gọi là hố) trên núi đá vôi, nằm ở khu vực gần hang Sơn Đoòng, có độ sâu 321m, là hố trên núi đá vôi sâu nhất Việt Nam hiện nay; phát hiện hang Hà Lâu dài 331m trong rừng Phong Nha - Kẻ Bàng.

< Một đoạn hang Sơn Đoòng.

Tại hang Sơn Đoòng - được phát hiện năm 2009, là hang lớn nhất thế giới hiện nay - đoàn cũng phát hiện trong hang có nhiều giếng trời, dưới lòng giếng và hai bên thành giếng mọc nhiều cây to và khá rậm rạp.

< Bên trong hang Sơn Đoòng.

Xung quanh hang có nhiều cây cổ thụ mọc, cao từ 30-40m, điều này được coi là rất hiếm gặp. Trong hang còn bắt gặp các bộ xương hóa thạch, bước đầu nghi ngờ là xương của một loài hổ và đoàn đã lấy mẫu về phân tích xác định.

< Cửa hang Én.

Đợt này đoàn cũng tập trung khảo sát hang Én và một số hang động nhỏ khác ở huyện Minh Hóa với tổng cộng chiều dài tới được là 16 km. Thành công lớn của đoàn trong đợt khảo sát này là lập được bản đồ hoàn chỉnh về hang Sơn Đoòng.

Du lịch, GO! - Theo Tuổi trẻ

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống