Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Monday, 23 April 2012

Điện Hòn Chén xưa có tên là Hoàn Chén với ý nghĩa “trả lại chén ngọc”. Điện Hòn Chén không chỉ là một di tích lịch sử và tôn giáo mà còn là một thắng cảnh, một điểm tham quan văn hóa độc đáo.

< Điện Hòn Chén.

Tương truyền ngày xưa vua Minh Mạng trong một lần lên đây đã đánh rơi một chén ngọc xuống dòng sông Hương, tưởng không cách gì lấy lại được thì bỗng nhiên một con rùa to bằng chiếc chiếu nổi lên ngậm chén ngọc trả lại cho nhà vua. Song, trong các văn bằng sắc phong chính thức của các vua Nguyễn, thì ngôi điện vẫn xuất hiện với tên chính thức “Ngọc Trản Sơn Từ” (đền thờ ở núi Ngọc Trản).

Đến thời Đồng Khánh ngôi điện mới được đổi tên là Huệ Nam Điện, (ý là mang lại ân huệ cho vua nước Nam) và cũng gắn với nhiều giai thoại khác nữa. Qua bao nhiêu năm tháng gắn với bao truyền thuyết, dân gian vẫn gọi điện là Điện Hòn Chén. Điện nguyên là ngôi đền thờ nữ thần Po Nagar (Nữ Thần Mẹ xứ sở) của người Chăm.

Điện Hòn Chén là một cụm di tích gồm khoảng 10 công trình kiến trúc to nhỏ khác nhau đều nằm lưng chừng sườn núi Ngọc Trản, hướng mặt ra sông Hương, ẩn mình dưới những cây cao bóng cả. Mặt bằng của toàn bộ cụm di tích này không lớn lắm, công trình kiến trúc chính là Minh Kính Đài tọa lạc ở giữa; bên phải là nhà Quan Cư, Trinh Cát Viện, Chùa Thánh; bên trái là dinh Ngũ Hành, bàn thờ các quan, động thờ ông Hổ, am Ngoại Cảnh. Sát mép bờ sông còn có am Thủy Phủ và nhiều bệ thờ, nhiều am nhỏ nằm rải rác đó đây.

Minh Kính Đài chính là nơi tổ chức tế lễ ở điện Hòn Chén, ngày xưa được triều đình quy định mỗi năm hai lần vào thượng tuần tháng 3 và tháng 7 Âm lịch, có cả quan chức được cử về làm chủ tế. Minh Kính Đài chia làm 3 cung, theo thứ tự từ cao xuống thấp là:

Đệ nhất cung (còn gọi là Thượng cung), nơi thờ Nữ thần Thiên Y A Na, Thánh mẫu Vân Hương, ảnh vua Đồng Khánh và một số vị thần khác; Đệ nhị cung thờ hàng chục tượng thần thánh khác nhau, là nơi bày biện các đồ thờ cúng để rước sắc trong những dịp lễ lớn; Đệ tam cung thiết hương án, hai bên đặt trống, chuông, là chỗ cử hành lễ, cũng là nơi khách thập phương dâng hương cúng bái.

Minh Kính Đài là một công trình kiến trúc tiêu biểu lấy hình ảnh con phụng để trang trí. Trên các nóc nhà, hình phụng được thể hiện bằng nghệ thuật khảm sành sứ tinh xảo, khiến du khách có cảm tưởng những con chim phụng như từ núi rừng tụ hội về đây, báo hiệu những điềm lành cho mảnh đất thiêng liêng này.

Điện Hòn Chén là ngôi điện duy nhất có một vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân xứ Huế và đó cũng là ngôi điện duy nhất ở Huế có sự kết hợp giữa nghi thức cung đình và tín ngưỡng dân gian; giữa lễ hội và đồng bóng.

Đây cũng là nơi trang trí mỹ thuật đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19. Điện Hòn Chén không chỉ là một di tích lịch sử và tôn giáo mà còn là một thắng cảnh, một điểm tham quan văn hóa độc đáo thu hút hàng ngàn khách tham quan, nhất là vào dịp Festival Huế và lễ hội tháng 3 và tháng 7 Âm lịch hàng năm.

Đến với Huế du khách  không những tham quan những đền đài lăng tẩm mà còn biết thêm về những lễ hội linh thiêng giàu tính nhân văn như lễ hội Điện Hòn Chén.

Du lịch, GO! - Theo báo Du Lịch và nhiều nguồn khác
Đền Cửa và Mộ tướng Ninh Vệ tọa lạc ở vị trí trung tâm xã Nghi Khánh, huyện Nghi Lộc. Di tích có tên đền Cửa vì trước đây đền được xây dựng trước cửa biển Cửa Xá. Trước đây, đền Cửa thuộc thôn Hương Duệ (sau đổi thành làng Khánh Duệ). Sau Cách mạng tháng Tám, đền Cửa nằm trên đất làng Khánh Duệ, xã Nghi Khánh, nên đền được gọi là đền Khánh Duệ.

Đền Cửa cách Thành phố Vinh 19 km, cách huyện lỵ Nghi Lộc 9 km về phía Đông. Đền được xây dựng từ thời nhà Trần để thờ Mẫu Âu Cơ, Cao Sơn, Cao Các, Tam Tòa Thánh Mẫu và thờ các nhân vật nổi tiếng của dân tộc và địa phương như: Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, Tướng quân Ninh Vệ, Quận công Nguyễn Cảnh Quế, nho sư Phùng Thời Tá.

< Đánh trống khai hội Đền Cửa và Mộ tướng Ninh Vệ.

Đền được xây dựng do công của Chiêu Minh Vương, Thượng tướng Trần Quang Khải, được nhà vua cử vào đất Nghệ An xây dựng căn cứ chặn đường tiến của quân Nguyên Mông. Tướng quân Trần Quang Khải đi thuyền cập bến Cửa, thấy cảnh trí ở đây hùng vĩ, có núi non bao bọc, lại thuận tiện đường thủy nên đã chọn nơi đây làm doanh trại đóng quân. Để khích lệ lòng yêu nước và tinh thần quyết tâm đánh giặc của tướng sỹ, Tướng Trần Quang Khải đã cho xây dựng ở bến Cửa ngôi đền thờ Mẫu Âu Cơ - người mẹ đã cùng Lạc Long Quân sinh ra một trăm người con đất Việt.

< Thắp hương tế lễ tưởng nhớ Quốc mẫu Âu Cơ và các bậc tiền nhân.

Đền có 3 tòa: Hạ điện, Trung điện và Thượng điện được xây ở vị trí đẹp, quay mặt hướng Đông Nam, trên thế đất hình chim phượng. Bao bọc xung quanh là làng mạc và khu dân cư đông đúc. Đền trấn ở cửa ngõ phía Tây Thị xã Cửa Lò, cách khu du lịch bãi tắm 0,5 km, cách Đền thờ Nguyễn Xí 2 km về phía Tây, cách Đền Vạn Lộc 2 km về phía Bắc. Cảnh quan đền Cửa xứng danh một vùng "Nhân sơn quần tụ" và "Địa linh nhân kiệt". Công trình đã được tu bổ, xây dựng lại khá khang trang vào năm 2003 bằng nguồn ngân sách địa phương và nhân dân đóng góp.


< Sôi nổi các hoạt động thể thao trong ngày hội.

Gian giữa nhà Hạ điện là nơi thờ Tướng quân Trần Quang Khải. Gian giữa nhà trung điện là nơi thờ Tướng quân Ninh Vệ. Gian bên trái nhà Trung điện là nơi thờ Quận công Nguyễn Cảnh Quế. Gian bên phải nhà Trung điện là nơi thờ vọng nho sư Phùng Thời Tá. Nhà Thượng điện có kiến trúc thời Nguyễn, gian chính giữa để thờ Mẫu Âu Cơ, gian bên trái là nơi thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, gian bên phải là nơi thờ Cao Sơn, Cao Các.

Khu mộ tướng Ninh Vệ nằm trên khu đất cao ráo hướng mặt về Đông Nam. Ninh Vệ là tướng tài thời nhà Trần có công đánh giặc dẹp loạn ở phương Nam và anh dũng tử trận. Nhân dân thương tiếc an táng ông ở phía Đông đền Cửa. Để ghi nhớ công lao của ông, nhân dân đã lập bài vị, phối thờ ông ở đền Cửa.

Trong thời kỳ chống thực dân Pháp, đền Cửa còn là nơi hội họp bí mật của tổ chức Đảng ở Nghi Lộc. Các đồng chí Hoàng Văn Tâm, Nguyễn Duy Trinh... thường lui tới đền để chỉ đạo phong trào cách mạng. Tháng 4/1931, đền Cửa là nơi tập trung nhân dân trong vùng biểu tình, bắt tên Chánh Đoàn Hiệu - tay sai của Pháp, thu hồi ấn triện, thành lập chính quyền Xô Viết. Khi phong trào Xô Viết bị đàn áp, giặc Pháp bắt đồng chí Hoàng Văn Tâm (nguyên Bí thư Huyện ủy Nghi Lộc) và xử bắn đồng chí ở chân núi Động Đình, gần đền Cửa vào ngày 20/6/1932.

Đền Cửa và mộ tướng Ninh Vệ là một trong những ngôi đền lớn được xây dựng ở các cửa biển Nghệ An, gắn với nhiều sự kiện và nhân vật lịch sử của đất nước và địa phương. Đền Cửa và mộ tướng Ninh Vệ đã được UBND tỉnh Nghệ An cấp bằng công nhận Di tích lịch sử-văn hóa cấp tỉnh, theo Quyết định số 6819 ngày 23/12/2009. Từ năm 2010, Lễ hội Đền Cửa được phục hồi và thu hút đông đảo nhân dân và du khách trong và ngoài huyện tham gia. Lễ hội được tổ chức hàng năm vào ngày 2 đến 4/3 âm lịch.

Du lịch, GO! - Theo web Nghean, ảnh internet
Từ khu vực Bến Giằng trên đường Hồ Chí Minh, huyện Nam Giang (Quảng Nam), theo quốc lộ 14D đi hướng cửa khẩu Đắc Ôốc – Đắc Tà Oọc hơn 20 phút là đến Khu Bảo tồn thiên nhiên sông Thanh. Tại đây, du khách rẽ tay phải theo biển hướng dẫn, qua rẫy lúa, nương bắp, lúc ngang dọc qua suối với muôn hình vạn trạng dáng đá, cuội là con đường dẫn đến thác Grăng.

Thác Grăng gồm 3 thác lớn nhỏ, gọi là “tam thác” Grăng. Lội bộ vượt qua nhiều đoạn dốc, đường hẹp, ghềnh đá hiểm trở và những thân cây bắc qua suối làm cầu, du khách sẽ nghe xa xa phía núi tiếng thác đổ âm vang. Những mệt nhọc trên hành trình chinh phục “tam thác” sẽ tan biến khi đứng trước thác Grăng tung bọt trắng xóa, hơi nước và hơi đá bốc lên mát rượi. Đẹp nhất ở Grăng có lẽ là thác thứ ba với độ cao hơn 30 mét, dòng nước như tấm lụa trắng xõa trên những vách đá bám rêu xanh, bồng bềnh trong cõi âm u giữa đại ngàn Trường Sơn.

Nếu lần đầu đến thăm thác Grăng, khách có thể nhờ những đứa trẻ người Cơ-tu có nụ cười hồn nhiên và nước da rám nắng đưa đi ngắm thác. Sau khi dạo quanh ngắm nước chảy, mây trôi, cây và đá núi, du khách có thể xuống hồ nước dưới chân thác để tắm và tận hưởng làn nước mát lạnh mơn man da thịt.

Điều thú vị là cảnh quan, không gian thác mở ra khá đột ngột, bỗng chốc ùa đến với bạn khi vượt qua hẻm núi một bên là vách đá dựng đứng, một bên là vực sâu. Tiếng thác đổ ầm ầm và cảm giác dịu mát chợt đến khiến du khách ngỡ ngàng vì  được trải nghiệm những điều mà trước đây chỉ nghe kể qua ai đó. Tất cả nhọc nhằn sẽ tan biến khi bạn đang đứng trước thác Grăng tung bọt trắng xóa, bồng bềnh trong cõi âm u Trường Sơn làm gợi nhớ câu thơ của Lí Bạch viết về thác núi Lư:

"Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây."

Giữa khung cảnh núi non hùng vĩ, không khí mát lành, du khách sẽ có bữa ăn ngon với những thực phẩm mang theo, kèm với cá suối nướng được câu lên từ suối và những hồ nước trong khu vực thác. Từ khi “tam thác” Grăng được đưa vào tour du lịch của “Năm du lịch quốc gia Quảng Nam 2006” đến nay, con đường vào thác đã được chính quyền và người dân địa phương tạo sẵn những bộ ván, những chiếc võng dã chiến bằng thân cây và dây leo làm trạm nghỉ chân để tiếp sức cho du khách.

Thác Grăng là một cụm thác ba tầng nên được gọi là tam thác. Đẹp nhất có lẽ là thác 3 với độ cao hơn 30 mét, tung bụi nước mịt mù, xõa tóc trắng trên những vách đá bám rêu. Đây là nơi du khách dừng chân tham quan nhiều nhất. Tuy nhiên nếu bạn có đôi chân dẻo dai thì men theo đường mòn ngược lên sườn núi dốc đứng để mục sở thị  vẻ đẹp của hai tầng thác trên.

Người dân tộc gọi thác này là Đạ G'răng - Theo giải nghĩa của dân bản địa thì chữ "Đạ" nghĩa là sông, suối, còn chữ "g'răng" trong thổ ngữ CaTu (Cơ Tu) có nghĩa là con cá chiên.
Chuyện kể rằng ngày xa xưa đây là con thác đẹp chưa ai khám phá, ở dòng suối dưới chân thác có loài cá hiếm tên là cá grăng (cá chiên). Cứ mười mùa rẫy một lần, những con cá grăng đầu đàn khỏe nhất phải vượt qua ba tầng thác nơi đây để hóa thành cá thiêng. Chỉ có làm được điều ấy thì cá grăng mới tồn tại.

Năm ấy đến mùa vượt thác lại gặp cơn lũ trái mùa dai dẳng cả tháng trời khiến dòng thác trở nên hung dữ dị kỳ. Những con grăng đầu đàn dù đã vắt cạn kiệt sức lực nhưng không thể nào vượt qua thác dữ.. và chúng đã chết, xác cá grăng trôi đầy bên bờ suối.
Từ đó dân làng gọi tên thác này là thác Grăng và cũng từ đó loài cá grăng không còn tồn tại ở bất kỳ đâu trên sông suối miền thượng du nữa.

Trên chặng đường khám phá “tam thác” Grăng, du khách còn có dịp thăm quan làng dệt thổ cẩm truyền thống người Cơ-tu ở làng Za Ra; thăm làng Rô – nơi nuôi giấu, chở che nhà thơ Tố Hữu và nhà cách mạng Huỳnh Ngọc Huệ trên đường vượt ngục Đăklei; thăm Khu Bảo tồn thiên nhiên sông Thanh... Vào dịp làng Cơ-tu tổ chức lễ mừng lúa mới, du khách sẽ được sống trong không khí rộn ràng của hội cồng chiêng với vũ điệu tung tung – da dá và thức các món lam (nấu thức ăn trong ống nứa), uống rượu tà vạt, đặc sản của núi rừng Nam Giang.

Chia tay thác Grăng, chia tay sông Thanh, sông Bung du khách không khỏi vấn vương như từ biệt tình nhân mong một ngày trở lại:
“Nước sông Bung vẫn chảy từ cội rễ rừng già, lăn những hạt cát nhỏ về miền xa lắc.
Gió ngàn còn ve vuốt bãi bồi lau sậy, chải rối cuộc vui buồn, lau nhạt nhoà trên mắt tình nhân.”

Du lịch, GO! - Theo BDT, Thinhdailoc.blog, ảnh  Dulichgo

P15 - Thác Grăng giữa đại ngàn

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống