Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Tuesday, 8 May 2012

Hòn Nẹ là tên chỉ hòn đảo nhỏ nằm ngoài khơi vịnh Bắc Bộ, Biển Đông. Đảo Nẹ nằm thuộc hải phận tỉnh Thanh Hóa, nó nằm cách đất liền huyện Hậu Lộc khoảng 6km về phía Đông, cách bờ biển Hoằng Hoá khoảng 5 km về phía Đông Bắc và cách bờ biển Nga Sơn khoảng 6 km về phía Nam.

Hòn Nẹ nằm ở tọa độ 19°54'46" độ Vĩ bắc và 106°00'32" độ Kinh đông. Đảo có đồn trú của một đơn vị bộ đội biên phòng của quân đội nhân dân Việt Nam.

Hòn Nẹ có đền thờ Long Vương. Hàng năm vào ngày 15 tháng 5 âm lịch là ngày “Trời đất giao hoà” dân chài ven biển Nga sơn, hậu Lộc, Hoằng Hóa lại tổ chức các đoàn thuyền rồng ra đảo làm lễ hội cầu mưa thuận gió hoà, sóng yên biển lặng.

Cũng tại Hòn Nẹ, vào tháng 7 năm 1964, các chiến sỹ Hải quân nhân dân Việt Nam đã chọn Nẹ làm nơi phục kích để đánh đuổi sự khiêu khích và vi phạm chủ quyền của tàu khu trục Maddox trong biến cố "sự kiện vịnh Bắc Bộ"

Hòn đảo này hiện đang được bộ đội biên phòng tỉnh Thanh Hóa quản lý. Hòm đảo Nẹ này còn gắn liền với 1 tích về tình mẫu tử và trong tích đó thì còn gắn liền với cả 2 ngọn núi của huyện Hậu Lộc. Đứng trên bờ biển từ đất liền thuộc hai huyện Nga Sơn, Hậu Lộc (Thanh Hóa) và Kim Sơn (Ninh Bình) nhìn rất rõ Hòn Nẹ, những chiều biển động, ta có thể nhìn rất rõ từng con sóng biển xô vào bọt tung lên trắng xóa.

Mang tiếng là người con của quê hương Hậu Lộc, ấy vậy mà tôi chưa có lần nào ra đảo Nẹ. Cũng may, anh Hải và anh Đồng ở Ban Tuyên huấn Bộ CHQS tỉnh gọi điện cho tôi, nói là ngày mai có chuyến ra đảo, em có đi cùng các anh không? Tôi mừng quá, chỉ biết cảm ơn các anh rối rít...

Sáu rưỡi sáng, chúng tôi bắt xe buýt tuyến số 11 đi Hậu Lộc. Tuyến xe này lúc nào cũng đông khách, người lên, người xuống nhộn nhịp. Vừa lên xe, chúng tôi đã nghe thấy giọng nói của quê mình đặc sệt miền biển không lẫn vào đâu được. Họ là những người dân lao động chất phác, có lúc “ăn sóng, nói gió”, có lúc chỉ trầm ngâm như khi biển lặng, là những người con Hậu Lộc đi làm ăn xa nhà mang theo chút nhớ nhung mỗi khi sóng lòng trỗi dậy và rồi cả những người có duyên ngầm với quê biển nữa...

Đang bần thần vì một chút nghĩ ngợi thì anh Đồng khẽ khàng vỗ vào vai tôi, nói:
- Đến bến rồi, ta xuống thôi!

Lúc ấy tôi mới dứt được cơn suy nghĩ đang thường trực trào dâng trong lòng. Không phải vì lâu ngày mới lại về quê mà xúc động thế đâu, nhưng sao lần nào cũng vậy, cũng vẫn là những con người ấy, chân chất, lam lũ đến thân thương... Có lẽ anh Đồng, anh Hải đi cùng cũng hiểu cho tôi một phần. Các anh đưa tôi vào Trạm đảo Nẹ trước, báo cáo sơ bộ chương trình làm việc với các anh em ở trạm. Thực ra anh Đồng và anh Hải ngoài việc “bảo đảm” đưa tôi ra thăm đảo còn làm nhiệm vụ quan trọng đó là quay phim, chụp ảnh làm phóng sự cho chuyên mục Quốc phòng toàn dân trên sóng của  Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh. Rồi các anh ở trạm hôm đó cũng nhân dịp đưa lính mới ra đảo nhận công tác. Như vậy là một công được cả đôi ba việc, ai cũng thấy háo hức, chộn rộn một niềm vui riêng khó tả.

Hơn bảy giờ sáng, đoàn chúng tôi bắt đầu xuất phát, phải nhờ một chiếc thuyền nhỏ của ngư dân chở thành hai lượt sau đó mới có thể trèo lên con tàu 24 CV của trạm đang đậu sẵn ở phía ngoài cách bờ chỉ chục mét. Lúc này thủy triều đang lên, con tàu như được tiếp thêm sức mạnh, bắt đầu chuyển hướng ra đảo, nhè nhẹ lướt sóng. Những ngày trời nắng ráo thì đứng ở đất liền có thể nhìn thấy đảo Nẹ rất rõ, vào những ngày biển động, còn nhìn rất rõ từng con sóng biển tung bọt lên trắng xóa, còn hôm nay trời âm u, sương mù giăng dày đặc, trông xa chưa thấy đảo đâu cả.

Nhìn quanh chỉ là một vùng mênh mông sóng nước trắng đục, thấp thoáng lưa thưa những chòi canh ngao nằm rải rác bên trái, bên phải và đằng trước. Thi thoảng chúng tôi lại bắt gặp một vài thuyền nhỏ đánh cá gần bờ của ngư dân. Thấy tàu của bộ đội ra đảo, họ vẫy tay chào và cười tươi roi rói. Ngư dân ở đây quý bộ đội lắm, bộ đội giúp dân nhiều thứ, trong đó có việc cứu hộ, cứu nạn ngư dân gặp nạn trên biển, nên họ biết ơn bộ đội, tình cảm quân dân vì thế mà ngày càng gắn bó keo sơn bền chặt như cá với nước.

Đến lúc này màn sương đã bắt đầu giãn ra, dáng dấp đảo Nẹ hiện trông một rõ. Tôi hình dung giống như một nàng công chúa ngủ trong rừng vừa mới được chàng hoàng tử đến thức giấc, nàng khẽ vén bức màn tuyn trắng muốt bước ra thực tại... Chúng tôi tranh thủ lúc này giở máy ra quay phim, chụp lấy mấy kiểu ảnh. Thật tuyệt!

Tự dưng tôi nhớ đến hai câu thơ trong bài thơ Mẹ Tơm của nhà thơ Tố Hữu:
Hòn Nẹ ta ơi mảng về chưa đó?
Có nhiều không con nục, con thu?...  

45 phút lênh đênh trên biển đã không thể làm  tôi - người lần đầu tiên ra đảo Nẹ, sốt ruột hơn được nữa. Tàu đã cập vào đảo trong niềm hân hoan đón đợi khôn xiết của các cán bộ và chiến sĩ trên đảo. Anh Thịnh, đảo trưởng, người lâu năm công tác ở đảo, nắm tay chúng tôi, bồi hồi xúc động, nói: “Anh em ra được tới đây thì quý quá!”.

Nói rồi, anh Thịnh cùng anh Hưng, đảo phó, và mấy anh em nữa mời chúng tôi đi tham quan một vòng quanh đảo. Tôi chợt hỏi anh Thịnh xem anh có còn nhớ bác Nguyễn Đức Hinh, bác Hàm, bác Hiển - nguyên cựu chiến binh đã từng sống và chiến đấu trên đảo trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước không. Anh Thịnh gật đầu: “Nhớ chứ, chỉ có thế hệ các bác ấy ngày trước là biết rõ nhất lịch sử cái đảo này thôi, đến anh em tôi thì cũng có biết nhưng còn lơ mơ lắm...”.

Trước năm 1954, quân Pháp đã từng đến chiếm đóng ở đảo Nẹ. Năm 1955, quân ta mới ra tiếp quản và lấy năm đó là năm thành lập đảo. Những năm tháng ấy, Mỹ đánh phá rất ác liệt, nhất là trong chiến tranh phá hoại lần thứ 2. Họ cho máy bay ném bom từ Đò Lèn, đến Hàm Rồng, còn lại chúng trút hết bom đạn xuống đảo. Quân ta trên đảo lúc ấy chưa đủ một đại đội, vũ khí ít, trong khi đó Mỹ liên tục ban ngày dùng máy bay ném bom, đêm xuống lại cho tàu khu trục tiến gần vào đảo để bắn phá dữ dội.

Thế nhưng, cuối cùng tinh thần chiến đấu anh dũng, kiên cường của các chiến sĩ đảo Nẹ ngày ấy đã chiến thắng những cỗ máy quân sự bậc nhất của Mỹ.
Đơn vị đảo Nẹ đã vinh dự ghi danh vào bảng thành tích của cả tỉnh, cả nước, bắn cháy 1 máy bay, một tàu chiến của Mỹ, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhì...

Vừa đi, chúng tôi vừa kể cho nhau nghe những câu chuyện về đảo. Rằng hòn Nẹ linh thiêng lắm, vì có đền thờ Long Vương, hàng năm vào ngày 15 tháng 5 âm lịch là ngày “trời đất giao hòa”, dân chài ven biển Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa lại tổ chức các đoàn thuyền rồng ra đảo làm lễ hội cầu mưa thuận gió hòa, sóng yên biển lặng.

Trên toàn diện tích một cây số vuông, mất vài tiếng đồng hồ đi bộ, leo trèo lên những con dốc cao, dốc nghiêng nhất là 35 độ và đến nơi cao nhất – đỉnh đảo cao 80 m so với mặt nước biển, chúng tôi mới thấm thía những mệt nhọc trong công việc hàng ngày của lính đảo. Ngày đêm, các anh vẫn luôn làm tròn nhiệm vụ thiêng liêng: xây dựng và bảo vệ đảo, bảo vệ vững chắc vùng trời, vùng biển hướng Đông - Bắc tỉnh Thanh. Trong nhiều năm qua, đơn vị đảo Nẹ đã làm tốt mọi công tác chuẩn bị huấn luyện như: thao trường, bãi tập, mô hình học cụ, vật chất, soạn giáo án.

Là đơn vị hỗn hợp nên huấn luyện đồng hóa tất cả các loại hỏa lực: pháo 85, cối 82 và 12,7 mm, bảo đảm các cán bộ, chiến sĩ đều sử dụng thành thạo các loại vũ khí có trong biên chế và huấn luyện bổ sung cho chiến sĩ mới nhận. Đơn vị còn tận dụng thời gian, nhân lực, vật lực tích cực củng cố cảnh quan; xây dựng và làm mới các công trình nhà bếp, nhà vệ sinh, bể nuôi ếch, kè tường và đường đi lại...; tích cực tăng gia sản xuất, tự túc trồng được rau xanh, chăn nuôi đàn gia súc, gia cầm... để có nguồn lương thực, thực phẩm, rau sạch bảo đảm đời sống hàng ngày cho các cán bộ, chiến sĩ trên đảo.

Với các chiến sĩ trẻ, ra đảo cũng là một thử thách. Trung sĩ Nguyễn Quốc Lực, quê ở Nga Sơn, chia sẻ với chúng tôi: Cuối năm 2010, em ra đảo nhận công tác, lúc đầu còn khá bỡ ngỡ chưa quen với cuộc sống ở đây, nhưng rồi được các anh trong đơn vị động viên, giúp đỡ, em đã trưởng thành lên rất nhiều, gánh vác trọng trách nặng nề hơn với vai trò là khẩu đội trưởng 85. Ngoài thời gian huấn luyện, giờ giải lao em còn giúp đơn vị hoàn thành xây một bảng tin, bảng ảnh, xây tường rào, xây vườn tăng gia sản xuất, tạo môi trường cảnh quan xanh - sạch - đẹp. Quá trình phấn đấu rèn luyện tốt em đã được đơn vị tặng danh hiệu chiến sĩ thi đua...

Trung sĩ Lê Văn Nhất, người trẻ măng, quê ở Nông Cống cũng chứa chan bao cảm xúc. Em kể rằng, ra đảo được anh em trong đơn vị giúp đỡ, em đã nhận thức tư tưởng vững vàng hơn, từ đó xây dựng cho mình phẩm chất, lối sống trong sạch, lành mạnh, sau này giúp ích cho xã hội... Nhớ có lần em bị đau lưng, không đi được, anh em trong đơn vị đã tận tình chăm nom, cơm cháo từng bữa, rồi lại đưa em vào đất liền chữa trị, sau nửa tháng bệnh đã đỡ em lại tiếp tục ra đảo làm nhiệm vụ. Cái Tết năm ngoái nhớ nhà lắm nhưng anh em cũng tự động viên nhau “Vui xuân mới không quên nhiệm vụ”...

Kể ra nữa thì nhiều tâm sự lắm nhưng các chiến sĩ trẻ vẫn còn hơi e dè, khiêm tốn khi nhắc hỏi về mình. Có lẽ chúng tôi hiểu được một phần trong suy nghĩ của các anh, những người lính vững vàng trong gan sắt, dẫu cho cuộc chiến đấu còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, gian khổ nhưng mong các anh phát huy bản chất Bộ đội Cụ Hồ, giữ vững tinh thần chiến đấu, vì biển đảo thân yêu của Tổ quốc, vì đất mẹ quê cha của chúng ta đã dày công xây dựng, vun đắp và bảo vệ cho khát vọng bình yên đến muôn đời.

Chia tay các cán bộ, chiến sĩ đảo Nẹ trong bữa cơm thân mật, đầm ấm nghĩa tình, tôi nhớ rất rõ ánh mắt, nụ cười, lời nói và cả bước chân hành quân của các anh nữa. Trong cái lạnh lẽo, giá buốt của ngày cuối đông, các anh vẫn giữ chắc tay súng gìn giữ những mùa xuân cho cuộc đời, luôn cất cao tiếng hát “đời mình là một khúc quân hành”.

Sáu giờ chiều tối hôm ấy, anh Thịnh, anh Hưng và một vài anh em nữa bịn rịn, xúc động tiễn chân chúng tôi vào tận đất liền. Xa xa nhìn về phía đảo Nẹ chỉ còn là một chấm sáng nho nhỏ đẹp tựa sao sa giữa màn đêm tối mờ...

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ báo Thanhhoa, Violet và nhiều nguồn ảnh khác.
Các cửa hàng ăn uống ở miền Tây đã biến tấu món bún riêu thành nhiều món ngon độc đáo, chẳng hạn như bún riêu cua, bún riêu tôm, bún riêu cá, đặc biệt là bún riêu ốc.

Bún riêu ốc là món ăn bình dân được chắt lọc từ thịt ốc và các loài thảo dã mang tính đặc trưng của miền quê sông nước.

Muốn làm ốc trước hết chúng ta phải chọn cho được những con ốc bươu hoặc ốc lát, con lớn vừa phải vì ốc càng lớn thịt càng dai. Trước khi luộc nên ngâm với nước gạo vo cho ốc nhả hết đất, bùn. Khi luộc chỉ đổ ít nước và cho vào nồi một vài lát gừng hoặc sả để khử mùi. Ốc vừa chín, chúng ta dùng que nhọn khêu phần thịt ra khỏi vỏ, bỏ tất cả ruột rồi rửa sạch, xắt mỏng, ướp với tiêu, hành, bột nêm, bột ngọt cho thấm đều. Tiếp theo, chúng ta cho dầu vào chão, phi hành rồi đổ hết ốc vào xào cho đến khi bốc mùi thơm lừng.

Món bún riêu ốc ngon hay dở là tùy thuộc vào nồi nước lèo (nước súp). Muốn cho nồi nước súp thơm ngon, đậm đà hương vị, chúng ta phải nấu bằng xương heo, mực, tôm khô, sau đó mới cho thịt ốc đã xào vào nồi tiếp tục đun lửa, thêm chút mắm tôm, tiêu, hành, bột nêm sao cho thật vừa ăn, không mặn mà cũng không lạt.

Bún phải là loại nhỏ sợi. Khi ăn, chúng ta cho bún vào tô, chan nước súp, kèm theo những miếng ốc, tiếp theo là những miếng cà chua xanh xắt mỏng (phải cà chua xanh mới đúng điệu), vài miếng huyết, vài miếng tàu hũ chiên và chả lụa gân.

Món bún ốc không thể thiếu rau ghém bắp chuối hoặc rau muống chẻ và các loại rau thơm như húng cây, quế đất, mò om, ngò gai, tía tô, ngò rí ... Tuỳ theo khẩu vị, chúng ta có thể cho thêm ít mắm tôm, chút tương ớt và vắt tí chanh vào tô bún lúc còn nóng. Mùi vị chua, cay, nồng, mặn, ngọt hoà quyện vào nhau tạo nên một cảm giác thèm thuồng, vô cùng quyến rũ.

Có thể nói đây là món ăn dân dã, rẻ tiền nhưng không kém phần hấp dẫn nhờ mùi vị thơm ngon, lạ miệng và kích thích vị giác. Mùa xuân, tiết trời lành lạnh, sáng sớm mà dùng một tô bún ốc nóng, vừa thổi vừa xuýt xoa thật không gì thú vị bằng!

Du lịch, GO! - Laodong
Nói đến thành phố Hưng Yên, nhiều người nhớ ngay đến Phố Hiến - một thương cảng nổi tiếng nằm trải dài dọc theo tả ngạn sông Hồng vào khoảng thế kỷ XVII - XVIII.

Vào thời còn phồn thịnh, Phố Hiến không chỉ là trung tâm chính trị, kinh tế thứ hai sau kinh đô Thăng Long mà còn là nơi gặp gỡ của nhiều nền văn hóa. Đến nay, quá khứ sôi động ấy vẫn còn thể hiện qua nhiều công trình kiến trúc như đền, chùa, nhà thờ, văn miếu...

Du khách khi đi trên cầu Yên Lệnh thuộc quốc lộ 38, nối Hà Nam với Hưng Yên sẽ nhìn thấy văn miếu Xích Đằng thấp thoáng sau hai cây gạo mấy trăm năm tuổi được trồng trước cổng. Trên đường dẫn vào tam quan còn có tượng hai con nghê đá lớn được tạc từ thế kỷ XVIII.

Tam quan (hay còn gọi là cổng Nghi môn) của văn miếu Xích Đằng là một trong những công trình còn giữ được nét kiến trúc độc đáo trong các văn miếu còn lại ở Việt Nam. Được dựng theo lối kiến trúc chồng diêm, hai tầng tám mái có lầu gác. Hai bên Tam quan có hai bục loa, dùng để xướng danh sĩ tử và thông báo những quy định trong các kỳ thi hương.

Tọa lạc ngay trung tâm thành phố là nhà thờ Phố Hiến do người Bồ Đào Nha xây dựng. Dù đã gần 400 năm tuổi, giáo đường này vẫn giữ được dáng dấp uy nghi và đường nét hoa văn theo lối kiến trúc Gothic lộng lẫy. Cách đó không xa là đền Mẫu - một trong những danh lam thắng cảnh đẹp nhất Hưng Yên.

Bên phải đền là hồ Bán Nguyệt phong cảnh hữu tình, mặt nước trong xanh phẳng lặng, bốn bề cây xanh râm mát. Phía trước đền là Bến Đá sông Hồng - nơi thuyền cập bến buôn bán tại Phố Hiến xưa. Giữa sân đền có cây đại thụ mà theo truyền thuyết thì đã sống gần bảy trăm năm.

Cây được kết hợp bởi cây đa, cây bàng và cây sanh quấn quýt lấy nhau. Cây đa có hai rễ phụ tỏa nhánh bao trùm cả sân đền. Thân chính cây đa đã mục ruỗng, du khách có thể chui vào trong thân cây mà trèo lên cành đa cao 2 mét bên trên.

Cổ kính không kém là chùa Chuông nằm tại thôn Nhân Dục phường Hiến Nam được xây dựng từ thế kỷ XVII. Truyền thuyết kể rằng vào một năm lụt lớn, có quả chuông vàng đặt trên bè dạt vào bãi sông. Nhiều nơi đua nhau kéo chuông về nhưng chỉ có người dân thôn Nhân Dục là kéo được. Dân làng cho là Trời Phật giúp đỡ liền dựng chùa, xây lầu treo chuông. Chùa mang tên Kim Chung tự, tức chùa Chuông từ đó.

Du khách tới vãn cảnh chùa Chuông đều có ấn tượng trước quy mô bề thế và khuôn viên hữu tình. Từ tam quan bước vào là gặp ngay cây cầu đá xanh dẫn lối qua ao sung. Sân chùa phủ bóng cây mát rượi, tiếng gió lao xao vòm lá, tiếng chim líu ríu trên mái ngói thâm nghiêm tạo thành một chuỗi âm thanh êm ái thoát tục...

Dù giấc mơ phục hồi lại Phố Hiến khó thành hiện thực, nơi đây vẫn xứng đáng để những ai muốn nhìn lại thăng trầm của lịch sử và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của phồn hoa xưa ghé thăm một lần. Nếu đến đúng mùa nhãn lồng, được nếm thử vị thơm ngọt của loại trái cây làm nên niềm tự hào cho đất Hưng Yên, hẳn du khách sẽ có thêm điều để nhớ mãi về vùng đất này.

Du lịch, GO! - DNSGCT, internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống