Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Monday, 21 May 2012

Từ Hà Nội đi theo đường số 5, đến phố Nối, rẽ theo đường 39A qua những cánh đồng ngô lúa, những rặng nhãn um tùm là đến Phố Hiến - Hưng Yên, thương cảng một thời "Thứ nhất Kinh Kì, thứ nhì phố Hiến".

< Một góc phố Hiến.

Nổi tiếng từ thế kỉ thứ 13 với vị trí là một thương cảng quốc tế. Thế kỷ 15 trở đi những tàu buôn của Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Anh, Pháp đã cập bến Phố Hiến.Phố Hiến một thời nắm vị trí quan trọng trong việc thông thương buôn bán với các vùng cho đến khi dòng sông Hồng ngày càng lùi xa, khiến phố Hiến mất dần vị thế về thương cảng Hải Phòng cách đó 50km. Phù sa của sông Hồng bồi đắp đã tạo nên những cánh đồng tốt tươi màu mỡ cho mảnh đất giàu truyền thống lịch sử và văn hóa này.

< Đền Trần.

Phố Hiến cách Hà Nội 50km. Để đến với miền quên trù phú này có hai con đường. Một là chạy thẳng đường quốc lộ 5 đi Hải Phòng và hai là chạy theo con đê dọc sông Hồng về phía Bát Tràng.

< Trong sân đền Trần.

Con đường đê nghiêng nghiêng này sẽ dẫn bạn đi qua rất nhiều cảnh đẹp của tỉnh Hưng Yên. Bạn có thể rẽ vào Bát Tràng mua đồ sứ, dạo bước qua đền Chử Đồng Tử - Tiên Dung, ghé thăm Văn Giang với rất nhiều vườn quất đang mùa ra hoa kết trái thơm nức, vượt qua những cánh đồng ngô đang trổ hoa khắp triền đê, men theo con sông Hồng cuộn đỏ phù sa, trước khi đặt chân vào đất phố Hiến.

< Cây nhãn tổ.

Phố Hiến ngày nay còn gìn giữ được một quần thể kiến trúc cổ gồm 60 di tích lịch sử, 100 bia ký và nhiều đền chùa. Tiêu biểu là Đền Hiến, Chùa Hiến - hiện vẫn còn nguyên vẹn. Cây nhãn tổ có từ thế kỷ thứ 16 đến nay vẫn xum xuê cành lá, đó cũng là đặc sản nổi tiếng của đất Hưng Yên - nhãn lồng.

< Chùa Hiến.

Vào mùa nhãn, cả vùng quê yên ả rộn ràng trong tiếng chim hót, tiếng nhà nhà thu hoạch, tiếng phiên chợ nhộn nhịp người mua kẻ bán. Nhãn lồng Hưng Yên cùi dày, vỏ mỏng, hạt nhỏ, ăn ngọt mát như chè đường nức tiếng gần xa.

< Chùa Chuông.

Đến Phố Hiến, không thể không đến thăm chùa Chuông. Ngôi chùa có lịch sử lâu đời và cảnh quan thanh tĩnh. Chùa Chuông không có lễ hội riêng, nhưng vào ngày 30 Tết hàng năm, lễ đón Giao Thừa ở chùa Chuông thật sự như ngày hội.

< Lầu khánh chùa Chuông.

Chùa Chuông có tên chữ là "Kim Chung tự". Tương truyền vào một năm đại hồng thủy, có một quả chuông vàng trên một chiếc bè trôi vào bãi sông thuộc địa phận thôn Nhân Dục.

< Hoa súng trong chùa.

Các nơi đua nhau kéo chuông về địa phương mình nhưng không được. Chỉ có những bô lão thôn Nhân Dục mới kéo được chuông. Dân làng cho là trời phật giúp đỡ bèn góp công của dựng chùa, xây lầu treo chuông. Mỗi lần đánh chuông, tiếng vang xa hàng vạn dặm. Do vậy chùa còn có tên gọi là Kim Chung Tự (chùa chuông vàng).

< Một ngôi đền nhỏ ven đê.

Hiện nay ở chùa Chuông còn lưu giữ được một số hạng mục kiến trúc và hiện vật có giá trị như: một chiếc cầu đá và cây hương đá có cùng niên hiệu Chính Hoà năm thứ 23 (1702); một bia đá lớn cao 1,65 m, rộng 1,10 m dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 7 (1717) có tiêu đề "Kim chung thạch tự bi ký", mặt trước miêu tả cảnh đẹp của Phố Hiến, mặt sau đề "Nhân Dục cổ tích truyền" ghi tên nhũng người có công tu sửa lại chùa, trong đó có một số người Hoa; cuối cùng là một khánh đá dài 1,46 m cao 0,66 m và một chuông đồng cao 1,28 m.

Không còn giữ được nhiều nét của một thương cảng sầm uất, phố Hiến giờ đây yên ả bên dòng sông Hồng, trải dài theo những triền đê. Rong chơi Phố Hiến một chiều đông, bắt gặp đôi chút bóng dáng cổ kính ngày nào qua một vài nếp nhà còn giữ lại được vẻ đẹp xưa. Những cây nhãn thâm trầm chuyển mình chờ nắng xuân để đơm trái, phiên chợ trung tâm với những món hàng quê bình dị, bữa cơm trưa với món chả gà trứ danh đất Hưng Yên. Một chiều ghé thăm Phố Hiến, sau chặng đường dài trên những triền đê lộng gió, thư thả và êm đềm với miền quê trù phú để lại trở về với Kinh Kỳ ồn ã.

"Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến"

Du lịch, GO! - Theo Travel, internet
Dân tộc La Ha còn được gọi với một số tên khác nhau như: La Ha, Klá, Phlạo, Xá Cha, Xá Bung, Xá Khao, Xá Táu Nhạ, Xá Poọng, Xá Uống, Bủ Hà, Pụa. Theo kết quả điều tra dân số năm 1999, tổng số người La Ha tại Việt Nam khoảng 5.686 người sinh sống ở huyện Mường La (Sơn La) và Than Uyên (Lai Châu). Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Ðai, (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).

Chuyện xưa kể rằng, người La Ha có một quyển sách xem ngày tháng nhưng bị một con trâu vô tình ăn mất. Từ đó, công việc và cuộc sống của họ gặp nhiều khó khăn do không còn biết phân biệt ngày tốt, xấu. Người La Ha liền mổ con trâu kia để lấy lại quyển sách, nhưng không thấy nên đã quyết định lấy chiếc xương sườn của nó để khắc lịch.

Ngược theo sông Nậm Mu, chúng tôi vào xã Tà Mít (Than Uyên – Lai Châu ) đi tìm “báu vật La Ha” độc nhất vô nhị ven trời Tây Bắc.

Ông thầy mo còn phép tính lạ 

Dãy Hoàng Liên Sơn vắt ngang Tây Bắc đầy rẫy những cung đường huyền bí. Người ta đồn rằng người La Ha ở bản Sài Lương (xã Tà Mít, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu) nằm trên dãy Hoàng Liên Sơn có bộ lịch bằng xương trâu nhưng những thổ dân vùng Hoàng Liên Sơn cũng chỉ mới nghe nói chứ chưa ai thấy dù chỉ một lần. Trước năm 2000, muốn vào Tà Mít khám phá thủ phủ của người La Ha thì chỉ còn cách dùng thuyền độc mộc vượt con đường độc đạo ghềnh sóng nước Nậm Mu dài hơn 40 km.

Hôm chúng tôi vào tới bản Pắc Muôn, bản cửa ngõ của xã Tà Mít hỏi thăm thì dân bản dẫn đến nhà thầy mo Hoàng Văn Ín. Ông Ín tiếc nuối kể rằng: Trước khi bố ông (cũng làm thầy mo) qua đời, ông chưa kịp học cách xem lịch thì bố ông đã mang bộ lịch ấy làm đồ tùy táng.

Chúng tôi tiếp tục vuợt gần 10 cây số đường rừng, vào bản Sài Lương, nơi người dân La Ha cho biết còn bộ lịch cuối cùng và cũng còn sót lại thầy mo Hoàng Văn Păn, là người cuối cùng biết xem lịch. Theo các già làng nguời La Ha, nguời xem đuợc bộ lịch sừng trâu xưa nay chỉ đếm trên đầu ngón tay mà thường là các thầy cúng của bản, ngay cả những nguời ở bản từ khi sinh ra cho tới bây giờ cũng chỉ nghe bảo có bộ lịch như thế chứ chưa thấy bao giờ.

Đến bản Sài Lương cũng phải chờ đợi trong thấp thỏm suốt 3 ngày ròng vị “pháp sư” Hoàng Văn Păn mới từ nương trên rừng sâu về. Biết khách đường xa đến tìm mình chỉ vì bộ lịch, ông bảo: “Tao tặng cho cán bộ văn hóa rồi. Dạy mãi mà mấy đứa con có học được đâu, rồi chết đi nữa thì không có người dùng, người biết xem nên đưa cho cán bộ cầm về nghiên cứu thêm”.

Chiếc lịch xương sườn trâu có trong cộng đồng người La Ha từ khi nào ông Păn cũng không biết. Chỉ biết ông được  bác ruột  truyền lại, tính đến nay nó đã gắn bó với ông hơn 30 năm. Dù đi bất kì đâu, khi lên nương hay đi làm lễ cúng trong bản ông cũng mang theo nó.

Bộ lịch là chiếc xương sườn trâu, chiều dài 30 phân, rộng hai phân, cong theo hình chiếc lá, trên lịch ghi những kí hiệu cụ thể để đoán định ngày xấu tốt, ngày cưới hỏi, làm nhà… Hiện giờ tuy không còn lịch sườn trâu, nhưng ông Păn vẫn nhớ từng đốt khắc trên bộ lịch. Cả bộ lịch có mười đốt, mỗi đốt 3 vạch tuơng ứng với 30 ngày trong tháng. Theo ông Păn thì, ngày tốt trên bộ lịch ghi là ngày con Rồng, vào ngày này có thể gieo lúa, làm nhà cưới vợ….

Ngoài bộ lịch sườn trâu thì thầy cúng Hoàng Văn Păn còn có bộ thẻ bói 30 chiếc đũa. Bọn tôi hỏi xem, ông bảo: “Khi dân bản cần hoặc trong bản có sự việc trọng đại thì ông mới dùng."  Năn nỉ mãi ông thầy mo khó tính mới chịu làm phép bói với 30 chiếc đũa để được mục sở thị. Nhìn những chiếc đũa cứ thoăn thoắt nhảy múa trên tay ông thầy mo cho tới khi có những chiếc đũa bị rơi xuống cũng chính là quẻ tương ứng với những điều tốt, điềm xấu của người được xem.

Văn hóa La Ha đang bị mai một 

Mãi đến những năm 70 của thế kỷ 20 người La Ha mới chọn cho mình vùng đất ở thượng nguồn sông Tà Mít để làm chốn định cư. Theo ông Chẻo Văn Diết, cán bộ Ban định canh, định cư của tỉnh Lai Châu từ những năm 70 cho biết: Khi ông được cử vào Tà Mít để vận động người La Ha định canh, định cư và trồng lúa nước thì người La Ha được nhân dân các dân tộc ở Tây Bắc gọi là người Xá Lá Vàng (Xá Lá Vàng theo tiếng Thái có nghĩa là dân tộc du canh, du cư, dựng nhà ở bằng lá rừng cho đến khi lá vàng đi thì lại di cư sang vùng khác và dựng nhà mới). Cũng theo các thư tịch cổ và truyền thuyết vùng Tây Bắc thì người La Ha xuất hiện ở vùng Tây Bắc Việt Nam khá sớm, vào khoảng vào thế kỷ X.

Ngày nay, trong các nghi thức cúng bản, cúng mường của người Thái ở Mường Than còn có tục giết  trâu trắng để tưởng nhớ đến thủ lĩnh người La Ha là Ăm Poi đã có công khai phá cánh đồng Mường Than.

Trong chuyến hành trình đi qua 7 bản của người La Ha ở thượng nguồn sông Nậm Mu xã Tà Mít đều được nghe các già bản kể về các phong tục lạ của người La Ha như: Lễ cúng bản, cúng rừng thiêng, lễ ăn cơm mới, các bài dân ca, nhạc vũ…. nhưng ngày nay đã không còn nữa. Ông Hoàng Văn Sen, một thầy cúng trong bản Sài Lương, cùng người cháu của mình dẫn chúng tôi vào tận khu rừng cấm. Những lối mòn lên rừng rất nhiều, nhưng rất ít củi mục. Ông bảo: “Dân bản không đuợc chặt cây lớn trong rừng, chỉ đuợc lấy củi mục, khi những cành khô gãy rời thân cây”.  Những cành củi mục trong khu rừng đuợc coi là “lộc” mà các vị thần người La Ha ban phát… Lâu rồi dân bản không tổ chức cúng rừng cấm nữa và bây giờ những người lạ như chúng tôi cũng có thể đặt chân vào.

Trong cuộc gặp gỡ lịch sử của người La Ha ở Tà Mít (Than Uyên – Lai Châu) và người La Ha ở Mường La (Sơn La) tại Bảo tàng dân tộc học Việt Nam ở Hà Nội vào tháng 7/2005 với chủ đề "Chúng tôi là người La Ha", họ đã trình diễn các nét văn hóa độc đáo như thêu thùa dệt vải, đan lát, xem lịch xương trâu…. Nhưng qua sự điền dã của chúng tôi ở Tà Mít  vào tháng 10/2008 thì những nét văn hóa ấy giờ chỉ còn trong ký ức của người già và không xuất hiện thường xuyên trong sinh hoạt của người La Ha nữa.

Lần theo vết dấu bộ lịch thì chúng tôi được biết: Hiện nay lịch sườn trâu hiện đang trong kho bảo quản của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam . Mọi thông tin về chiếc lịch này hiện nay chỉ được thể hiện rất ít ỏi bằng những dòng số kí hiệu do Bảo tàng ghi lại để đánh dấu mẫu vật khi lưu trữ. Muốn hỏi thêm thông tin thì chị Nguyễn Thị Sang, phòng Bảo quản của Bảo tàng cho biết: “Do không có hồ sơ lưu, nên hiện vật hiện nay vẫn không có thông tin gì”.

Chúng tôi rời Tà Mít mà những bí ẩn về cách chế tác cũng như cách sử dụng bộ lịch xương trâu của người La Ha vẫn còn chưa được giải mã. Thiết nghĩ, lịch xương trâu là một viên ngọc quý trong kho tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam, vì thế nó cần phải được quan tâm gìn giữ cho người La Ha hôm nay và mai sau.

Trai La Ha muốn cưới được vợ phải ở rể

Theo tục lệ, con trai La Ha bây giờ muốn chính thức cưới được vợ vẫn phải đi ở rể, nhưng chỉ theo hình thức vài tuần đến vài tháng chứ không lâu như trước.

“Bản thân ta ngày xưa phải ở rể đúng 12 năm mới được phép đón vợ về nhận tổ tiên, nhập dòng họ...” - nâng chén rượu ngô sóng sánh, già Lò Hương, 86 tuổi ở bản Huổi Liếng, xã Nậm Păm (huyện Mường La, tỉnh Sơn La) kể về tục dựng vợ gả chồng đã có ở nơi đây tự ngàn đời...

Quan niệm của người La Ha rất khắt khe về hình thức hôn nhân một vợ, một chồng, đàn ông không được phép đa thê, khi đã thành gia thất rồi thì "cái bụng chỉ nhớ đến vợ, không có quyền ưng một người phụ nữ nào khác". Có lẽ chính xuất phát từ cái "lý La Ha" ấy mà tập tục buộc đàn ông phải ở rể nhiều năm trước đám cưới chính được đặt ra. Trong bản, khi sơn nam, sơn nữ đến tuổi cập kê, họ được tự do tìm hiểu nhau, cha mẹ và những người lớn cả hai bên không can thiệp dưới bất cứ hình thức nào.

Công đoạn chinh phục xong xuôi, chàng trai về báo với cha mẹ mình để chọn ngày, cử người sang nhà gái dạm hỏi ("cơi poóng"). Lễ hỏi của người La Ha không cầu kỳ nhưng bắt buộc phải có hai thứ đó là một khoản tiền lễ gọi là "nang khả pom" (giá đầu người) để trả ơn bố mẹ vợ đã có công sinh ra, nuôi lớn cô gái và một mâm trầu. Nhà gái ưng thuận sẽ cử người có uy tín trong họ tộc ra tận đầu cổng để đón thông, dẫn vào giữa nhà làm lễ nhận trầu đồng thời đưa áo của cô gái cho bên nhà trai về xem bói. Sau lễ dạm hỏi 5 ngày, nếu nhà gái không trả lại trầu cho nhà trai có nghĩa là họ đồng ý và 10 ngày kế tiếp, người con trai sẽ đội lễ đến để bắt đầu ở rể làm công cho bố mẹ vợ.

Luật tục quy định rằng, khi ở rể chàng trai phải làm tất cả những gì nhà vợ giao và chỉ nghỉ khi vợ cho phép, bù lại anh ta sẽ được làm lễ cho phép chung chăn, chung gối để đêm đêm được ngủ cùng vợ dù chưa làm lễ cưới chính thức.

Thời gian ở rể không hạn định, có thể là 4 năm, 8 năm, cũng có gia đình là 10 năm hoặc 12 năm, chỉ khi nào bố mẹ vợ động lòng cho phép cưới, chàng rể mới về nhà mình báo tin để chuẩn bị làm lễ "thu mạ phu" (đám cưới chính), xin phép đón cả vợ và con về ở nhà mình. Sau lễ cưới chính thức, cô dâu được đón về nhà chồng, đổi họ theo họ chồng và không được quay về ở với bố mẹ đẻ nữa, dù chồng có chẳng may qua đời.

Du lịch, GO! - Theo VNP, Tindulich, internet
Hơn 30 năm trước khi còn ở quê (xã Đông Phú, H.Châu Thành, Hậu Giang), tôi thích tắm sông khi con nước bắt đầu lớn. Lấy hơi lặn xuống đầu cầu dừa, nghe âm thanh eng éc hồi lâu mới chịu trồi đầu lên.

Eng éc là tiếng kêu của loài cá heo nước ngọt. Cá heo nước ngọt thường xuất hiện vào mùa nước nổi (khoảng tháng 7 đến tháng 10 âm lịch) ở những nơi nước chảy mạnh. Cá to hơn ngón tay cái, dài chừng 8 phân, không vảy, đầu mình màu xanh dương lợt, bụng vàng nhạt còn đuôi và vây thì đỏ cam trông rất lạ mắt.

Hồi đó, cá tôm tự nhiên còn nhiều. Vãi chài, đóng đáy trúng cá heo, người ta thường gỡ bỏ, ít khi dùng làm thức ăn. Vậy nhưng bây giờ cá heo trở thành món ăn đặc sản tại các nhà hàng, thực khách thường phải gọi điện dặn trước mới có.

Giá hiện nay khoảng 150.000 – 200.000đồng/kg. Do nguồn cá trong thiên nhiên không còn nhiều, cung không đủ cầu, để thỏa mãn nhu cầu về con giống cho nông dân, gần đây Bộ môn Kỹ thuật nuôi trồng thủy sản nước ngọt, khoa Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ phối hợp với Trung tâm Giống Thủy sản tỉnh An Giang đã thành công trong việc cho cá heo nước ngọt sinh sản nhân tạo và bán cho nông dân nuôi thương phẩm trong bè.

Cá heo còn sống đem cắt bỏ vây, đuôi, mổ bụng rồi dùng nước cốt chanh, giấm chua hoặc muối bọt chà cho sạch nhớt, khử mùi tanh. Cá heo nấu món canh chua cơm mẻ, nhúng giấm, kho mắm, kho mẳn, kho lạt bằm xoài…đều ngon. Riêng món kho tiêu ăn với cơm trắng là ngon tuyệt.

Cá tươi làm xong để cho ráo nước, bỏ vào nồi đất, chế màu dừa, nước mắm Phú Quốc, tiêu sọ đâm giập giập, ớt tươi ướp cho thấm đều…sau đó đặt lên bếp lửa kho liu riu. Để cá chín đều, thơm ngon, tránh cháy khét, đầu bếp phải chịu khó trở cá đôi lần. Kho xong nhắc xuống bỏ thêm tí dầu ăn, tiêu xay nhuyễn và nhất là phải có hành lá, củ hành tím xắt mịn.

Dọn ra bàn, nồi cá kho hấp dẫn đi kèm với dĩa rau tập tàng luộc là mặc sức no bụng. Mùi thơm lừng của cơm gạo dẻo, vị béo, bùi, ngọt của thịt cá và nhất là lớp da cá, mỡ cá béo mà không hề cho cảm giác ngán...  thật ngon không thể nào diễn tả  hết về con cá heo nước ngọt miền Tây.

Du lịch, GO! - Theo Thanhnien, Thesaigontimes

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống