Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Sunday, 17 June 2012

Những ai đã từng sống ở Sài Gòn chắc cũng từng quen thuộc với câu cửa miệng “chiện nhỏ” (phát âm đúng theo giọng Sài Gòn là “chiện” chứ không phải là “chuyện”). Đây là một bộ sưu tầm những chuyện lặt vặt về người Sài Gòn, cách cư xử của người Sài Gòn. Những ai không phải người Sài Gòn thì đọc để hiểu thêm về người Sài Gòn - Đọc để thấy cuộc sống vẫn còn nhiều đều tốt đẹp.

Chuyện 1

Đó là một con hẻm khá rộng rãi ở giữa nhưng hai đầu thì nhỏ xíu, chỉ chạy lọt chiếc xe máy, nối hai trục đường chính ở quận 3. Trong hẻm nhà cửa san sát, nhà mới xây cao 3~4 tầng cũng nhiều mà nhà cũ, mái tole gác gỗ cũng sin sít, nhiều nhà dùng phía trước để buôn bán nhỏ, bán đồ ăn hoặc tạp hóa, nhiều nhà mở tiệm gội đầu hoặc đặt biển công ty mà chẳng có nhân viên. Dân cư trong hẻm hầu hết đều biết nhau, cũng có một vài người mới dọn tới hoặc thuê nhà trong hẻm nhưng họ nhanh chóng làm quen với cư dân hẻm.

Bà chủ nhà trọ của tôi được gọi là cư dân lâu đời nhất của hẻm, hơn 60 năm. Bà là người cất nhà đầu tiên trên đất này. Bà kể, lúc bà vô Sài Gòn năm 16 tuổi, cả nhà bà đi trên một cái ghe. Lúc đó hẻm này, từ đầu đến cuối, là một con rạch rộng và sâu, bơi chừng vài chục sải mới sang bờ, tuy thông với nhiều rạch khác nhưng nước ở rạch này lại trong veo, đáy toàn cát. Bờ bên này, chỗ nhà trọ tôi ở, là một cái bến thuyền tấp nập suốt ngày đêm. Cha của bà đã dựng cái chòi đầu tiên trên bến, đúng chính chỗ căn nhà bây giờ, lúc đó ban đêm gió từ những con rạch thổi lồng lộng đến nỗi muốn cuốn bay mọi thứ.
Có nhiều sông rạch, nhiều đầm lác, nhiều rừng dừa nước đã biến mất, nhường chỗ cho phố xá và những con hẻm đầy nhà, đầy người, ở Sài Gòn.

Chuyện 2

Ở một showroom sang trọng của một hãng xe hơi nổi tiếng mà giá của một chiếc xe nằm ngoài khả năng đếm của nhiều người, vào một buổi trưa trời nắng gắt bên ngoài nhưng bên trong vách kính thì mát lạnh. Anh nhân viên bán hàng mặc đồ vest với cà vạt và dày da bóng lộn đang ngồi xem tivi.

Có một cụ ông đi bộ ngoài đường mở cửa vào showroom. Trông ông có vẻ không được khá giả lắm, tuy cũng vận áo sơ mi ngắn tay cũ và một chiếc quần khaki ngả màu. Ông cụ bước vào, đảo mắt nhìn một lượt rồi chắp tay sau lưng đi đến những chiếc xe trưng bày và bắt đầu xem xét. Anh nhân viên bán hàng bật dậy đi theo cụ, anh đi nhẹ nhàng và tỏ vẻ lịch sự. Anh gọi cụ là ngoại. Ngoại ơi, ngoại à. Mỗi lần cụ dừng lại ở một chi tiết anh lại đề nghị được cho cụ xem rõ hơn, anh mở cửa trước, cửa sau, mở nắp capo để cho cụ xem. Khi cụ tỏ ý thắc mắc thì anh lại nhẹ nhàng giải thích với cụ, cụ già cứ gật gù lắng nghe nhưng có vẻ không hiểu mấy.

Đi chán cũng mỏi, anh bán hàng mời cụ già lại chỗ sofa có cái bàn kiếng sạch bóng và mời cụ dùng café, loại café đá pha sẵn thôi. Mãi sau cụ già nói với anh: qua thấy chỗ bán xe hơi này sang trọng quá, lại có máy lạnh nên qua vô xem chơi, chứ xe này cả dòng họ qua gom tiền lại cũng mua không nổi. Anh nhân viên vẫn rất lịch sự: dạ con biết, sẵn ngoại vô chơi thì con giới thiệu luôn để ngoại coi xe, đâu phải ai vô coi xe cũng mua đâu ngoại. Anh cười, coi bộ hiền khô.

Chuyện 3

Một góc ngã tư giao lộ giữa hay con đường thuộc loại đông nhất nhì Sài Gòn, nơi thường xuyên bị kẹt xe, nhất là vào giờ cao điểm. Bên cảnh sát giao thông phân công hai anh sĩ quan đến trực ở ngã tư này để giải quyết nạn ùn tắc và xử phạt mấy phương tiên chạy ẩu, nhất là mấy chiếc xe hơi rẽ trái sai luật.
Hai anh sĩ quan này có lẽ thuộc loại vất vả nhất trong ngành vì thời gian của hai anh hầu hết đều phải đứng ngoài nắng ngoài mưa để phân luồng và điều chỉnh đèn tín hiệu, chỉ cần hai anh vắng bóng một lúc là cái ngã tư lại nùi nùi một mớ xe cộ.

Chỗ hai anh đứng có một cái tủ điện chìm, lúc nào cũng có nước uống. Sáng thì café, nắng lên thì trà đá, chiều thì có nước đá chanh… Mỗi khi uống hết nước thì anh sĩ quan trẻ hơn băng qua đường đem trả những cái ly cho một quán cóc gần đó. Quán cóc vỉa hè nhưng lúc nào cũng có khách ngồi.

Lát sau bà chủ quán lại bưng qua một món thức uống mới, đúng lúc tôi đứng gần đó. Anh sĩ quan lớn tuổi hơn quay qua nói, hình như cốt để cho tôi nghe: bà này bả cho tụi tôi uống nước miễn phí cả tháng nay, nói hoài mà hông chịu cầm tiền, mơi không uống nữa nghen bà. Bà già cười lớn, ha hả, mấy chú làm việc cực khổ, tui đãi miếng nước, chuyện nhỏ xíu mà, mấy chú uống cho tui dzui.

Chuyện 4

Dạo này Sài Gòn trời nắng gắt, đi ngoài đường hay thấy mấy thùng ghi “trà đá miễn phí”, ai muốn uống thì uống, dân xe ôm, xích lô là khoái dữ lắm, ghé uống ừng ực rồi cứ vậy đi, không cần phải cảm ơn.

Một lần ông xe ôm chở tôi xin phép tấp vô lê uống ly trà đá, tôi mới biết là có trà đá miễn phí. Đó là thùng trà đá miễn phí tôi thấy đầu tiên, nó ở gần bệnh viện 115, mặc dù nó không có bảng ghi “miễn phí”, chỉ thấy một thùng trà đá để ngoài đường, ai qua lại nếu biết cứ tự động rót mà uống. Uống hết có người ra châm trà, châm nước, bỏ đá vô.

Tôi hỏi ông xe ôm, trà đá miễn phí kiểu vầy có nhiều không chú. Ổng nói cũng nhiều, tùy mình biết chỗ mà ghé uống, trời nắng vầy có ly trà đã cũng đã lắm chú. Tui không phải nghèo đến mức cần phải uống trà đá miễn phí, tui uống bị thấy khoái vậy thôi.

Chuyện 5

“Bây giờ cầm tờ báo lên là rầu, hết muốn coi báo” – câu này của một đại gia Sài Gòn. Đại gia này có lẽ đã về hưu, con cái đã thành đạt lấy vợ lấy chồng ở riêng hết. Đại gia này thường hay ngồi ở quán café cóc của bà già ở mẩu chuyện số 3. Sáng nào cũng có mặt, dù nắng hay mưa.

Sáng nào đại gia cũng mua báo, chắc chắn là có Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Người Lao Động, Công An, Pháp Luật… thỉnh thoảng mua tờ tạp chí hoặc nguyệt san. Đại gia chỉ mua báo của hai người, một con bé và một thằng bé quen, bữa đứa này bữa sau đứa kia. Hai đứa trẻ bán báo không bao giờ cạnh tranh nhau quyết liệt hoặc tỏ ra giành mối, chúng vui vẻ cùng phục vụ một vị khách hàng. Đại gia mua rất nhiều nhật báo nhưng lúc ra về chỉ đi tay không.

Sau này, khi có dịp ngồi ở quán café cóc đó suốt một buổi sáng tôi mới biết. Nếu hôm đó đại gia mua báo của thằng bé, sau khi đọc xong ông sẽ gấp tờ báo lại như cũ và đem cho con bé đi bán tiếp và ngược lại, nếu mua của con bé thì ông sẽ đem cho thằng bé để nó đi bán cho người khác, tiền thì ông vẫn trả đủ.

Chuyện 6

“Cho nhiêu cũng được” – câu này ai ở Sài Gòn chắc là biết, chắc thỉnh thoảng có nghe, nhất là khi đi taxi, xe ôm, xích lô… nếu là khách đi quen rồi hoặc quãng đường gần quá khó trả giá thì bác tài sẽ nói vậy: chú (cô) cho nhiêu cũng được. Nói vậy chứ ai đành lòng cho ít, ví như đúng ra bảy ngàn thì khách sẽ đưa mười ngàn cho chẵn tiền.

Đó cũng không hẳn vì ít tiền quá mà nói vậy, cũng có khi nhiều thứ giá trị hơn người bán cũng nói: cho nhiêu cũng được. Ví dụ như chuyện có cô giáo nọ dạy văn ở một trường cấp hai, cô nổi tiếng là thương học trò như con. Mỗi buổi sáng cô hay đi chợ ở gần nhà để tiện việc cơm nước. Trong chợ có rất nhiều người biết cô là cô giáo, và họ thường gọi luôn là “cô giáo”. Nhiều khi cô giáo cũng khó xử với các bà, các chị trong chợ, họ cứ bỏ vô giỏ cô khi thì con cá, khi thì bó rau, khi thì ký thịt… khi cô đòi trả tiền thì họ không chịu lấy hoặc nói: cô giáo cho nhiêu cũng được.

Chuyện 7

Ông là thương binh, thương binh của chế độ cũ, ông bị thương gần ngày Sài Gòn giải phóng. Sau giải phóng ông làm nhiều nghề để sinh sống và để nuôi ba đứa con ăn học. Một lần nọ ông làm công việc bảo vệ ở một nhà hàng vào buổi tối, đó là một nhà hàng lớn và có rất nhiều nhân viên và thực chất công việc của ông là chuyên đắt xe cho khách đến ăn nhậu mà thôi. Chủ nhà hàng là một người đàn ông khá giả và cư xử rất được.

Một hôm có chuyện. Đêm khuya khi nhà hàng chuẩn bị đóng cửa và người chủ cũng chuẩn bị ra về thì có một nhóm người hung dữ cầm mã tấu xông vào nhà hàng truy sát người chủ. Người đàn ông tuy khá cao to và nhanh nhẹn nhưng khó có thể chống cự với bốn năm tên sát thủ chuyên nghiệp, tất cả mọi người bỏ chạy tán loạn. Ông thấy vậy không được nên đứng ra bảo vệ chủ mình, vừa đỡ đòn vừa dìu anh này bỏ chạy. Nhờ sự giúp sức của ông, nạn nhân đã thoát thân tuy cũng bị thương nhẹ, còn ông thì bị hai nhát chém nặng mà một nhát sau này đã làm ông không thể cử động cánh tay phải.

Người chủ mang ơn ông lắm dù ông nhiều lần nói “chú ơi, tôi làm công cho chú thì phải bảo vệ chú thôi, ơn nghĩa gì mà chú cứ nói hoài”. Và mặc dù ông đã nhiều lần từ chối nhưng người chủ nhà hàng vẫn mua cho ông một căn nhà nhỏ, chu cấp hằng tháng đủ nuôi cả gia đình ông và cho tiền ba đứa con ông ăn học.
Chuyện xảy ra đã lâu rồi. Hôm qua tôi ngồi trong ngân hàng, ngồi kế bên cậu con trai lớn của ông và được nghe câu chuyện này. Cậu nói: chú đó sắp đi Mỹ rồi nên bữa nay chú kêu con ra ngân hàng mở tài khoản để mai mốt chú chuyển tiền về.

Chuyện 8

Chuyện này nghe một bạn sinh viên kể. Bạn nói trước nhà bạn nghèo lắm, mẹ bạn bán vé số ở Quận Tám và bạn cũng đi bán phụ mẹ. Nếu bạn học buổi sáng thì sẽ phụ mẹ bán buổi chiều và ngược lại, nhà chỉ có hai mẹ con.

Có một chú thợ hồ ở gần nhà, nói là gần nhà chứ thực ra là ở một cái chòi trong xóm hẻm sâu sát bờ kênh, chú này mỗi khi nhậu thường hay mua vé số của hai mẹ con cậu. Chú này mua không nhiều, mỗi lần chỉ mua hai vé, nhưng điều đáng nhớ là sau khi trả tiền hai vé thì chú sẽ cho lại cậu một vé, và lúc nào cũng căn dặn: nhớ giữ lại hen mầy, phải thì cùng đổi đời.

Và cậu đổi đời thiệt, một lần cặp vé số định mệnh đã trúng giải độc đắc. Người vợ của chú thợ hồ khi biết chồng mình trúng số độc đắc đã nổi lòng tham và muốn đòi lại tờ vé số mà chú đã cho cậu buổi chiều trước đó. Nhưng chú thợ hồ đã kiên quyết không đòi lại, chú còn dùng tiền trúng số đã cả xóm một bữa nhậu linh đình.

Có vốn, mẹ cậu không bán vé số nữa mà chuyển ra mở quán ăn sáng và cuộc sống của hai mẹ con đã khá hơn trước rất nhiều. Chỉ riêng chú thợ hồ thì vẫn làm thợ hồ, bây giờ chú mua vé số của người khác nhưng tật cũ vẫn không bỏ, mua hai vé và cho lại người bán một vé. Chú luôn dặn: nhớ giữ lại hen mầy, phải thì cùng đổi đời.

Chuyện 9

Ông chạy xe ôm ở Quận 10 nhưng nhà ông thì ở tận ngã tư An Sương, vợ ông thì bán vé số nên ông thường đậu xe kế bên bà. Hai người mang cơm theo ăn buổi sáng và buổi trưa, buổi chiều thì trả vé về sớm rồi cùng ăn ở nhà.

Quê ông bà ở Cần Giuộc. Bữa nọ thấy có người trông dáng như ở quê lên, tới ghé cho ông bà hai con gà, một buồng chuối và một giỏ đệm đầy cá trê phi, con nào con nấy mập ú, vàng óng. Tôi tò mò hỏi: bà con dưới quê gửi lên hả chú? Ông cười, nói đúng ở quê gửi lên nhưng mà hông phải của bà con, thằng đó nó chiếm đất của tui đó chớ.

Nhà ông có nhiều anh em, cha ông có chia cho ông ba công ruộng ở quê. Ruộng đất phèn nên một năm chỉ trồng được một vụ mà lại có mùa trúng mùa thất nên ông bỏ đó lên Sài Gòn chạy xe ôm. Ruộng bỏ hoang lại nằm xa xóm nên không ai coi. Một lần ông về quê và phát hiện ruộng của mình có người chiếm mất. Đó là một gia đình nghèo, hai vợ chồng và bốn đứa con nheo nhóc, trước họ sống theo ghe nhưng cái ghe nát quá nên cả gia đình dắt nhau lên bờ kiếm đất hoang lập nghiệp, cũng bị đuổi cùng đường mới tới đây.

Mới đầu ông cũng làm căng, thưa lên xã rồi nhờ bà con tới đòi kịch liệt lắm, nhưng do đất nhà từ xưa không có giấy tờ, lúc chia cũng không lập di chúc nên khó nói lý. Rồi ông phát hiện bà vợ mình bị tiểu đường nặng nên thời gian của ông chủ yếu ở bên bà, ông không thiết đòi đất nữa. Một lần về quê đám giỗ ông đã ký giấy cho gia đình nghèo nọ ba công đất luôn.

Ông nói, mình cũng nghèo mà thấy tụi nó còn nghèo hơn. Mình già rồi, sống nay chết mai, thôi coi như làm phước cho tụi nó. Cũng được cái là vợ chồng nó cũng biết điều, nhận tía má luôn, đem lên cho đồ hoài, ăn hổng hết.

Chuyện 10

Sài Gòn rộng, rộng lắm, nên chuyện ở Sài Gòn người ta hay kêu là: chiện nhỏ. Sài Gòn là mảnh đất lạ kỳ. Nó lạ kỳ đến nỗi người ta chẳng biết viết gì, nói gì về nó. Nó lạ kỳ đến nỗi người ta nhớ về nó khi đang ở trong lòng nó. Nó lạ kỳ đến nỗi người ta thương nó bằng một thứ tình cảm mơ hồ nhưng mãnh liệt đến ngạt thở, như kiểu một thứ tình nghĩa khác, không phải là quê hương.

Tôi đến Sài Gòn lần đầu tiên năm 1991, trên một cái xe cấp cứu. Không phải xe chở tôi, là tôi quá giang xe cấp cứu chở một bệnh nhân viêm màng não từ bệnh viện Khánh Hòa chuyển viện vào Chợ Rẫy. Tôi nhớ như in khi người tài xế lần đầu vào Sài Gòn đã đi vào đường một chiều và bị hàng loạt xe gắn máy suýt đụng phải. Tôi nhớ mình đã tháo cái nhẫn 2 chỉ vàng trên tay để nhét vô vớ vì nghe nói cướp ở Sài gòn sẳn sàng chặt tay bạn chỉ để cướp một chỉ vàng.

Ngày đó, ấn tượng đầu tiên của tôi là Sài Gòn quá lớn và quá đông. Tới bây giờ, ấn tượng của tôi cũng vẫn là Sài Gòn quá lớn và quá đông.

Sài Gòn lớn. Tôi đồ nó phải lớn hơn cả Singapore hay HongKong. Từ ruộng đồng Hóc Môn ra đến biển Cần Giờ, từ vườn cây Thủ Đức mút đến miệt Bình Chánh xa xôi. Ở đâu cũng là đất Sài Gòn. Câu nói ấn tượng nhất về Sài Gòn tôi nghe từ một ông già đã 40 năm chạy xe xích lô: “Không thằng nào dám vỗ ngực nói mình biết hết đất Sài Gòn”.

Sài Gòn đông. Ngoài đường, trong chợ, hàng quán… đều ngùn ngụt người. Từ khu Chợ Lớn đầy người Hoa nói tiếng Hoa đến khu dân sinh kiếm cái gì cũng có, mà không có người ta cũng kiếm cho bằng được. Từ những đường phố luôn tấp nập người xe đến những cái chợ bán buôn thâu đêm suốt sáng. Đâu đâu cũng đầy người, càng ngày càng đông. Tôi dám cá rằng hơn phân nửa số người bạn gặp ở Sài Gòn đều không phải là người Sài gòn chính gốc. Như tôi.

Ở Sài Gòn có một thứ không khí khác, có lẽ được quánh đặc bởi bụi, khói, bởi mùi mồ hôi, mùi đồ ăn, bởi tiếng xe, tiếng người, bởi muôn ngàn thanh âm, màu sắc mà một khi đã quen hít thở với nó, bạn sẽ không bao giờ quên được, nếu không nói là khó mà rời xa được.

Ở Sài Gòn, đất dung nạp vào nó đủ mọi hạng người, từ anh trí thức hàn lâm đến chị bán trôn nuôi miệng đều cảm thấy đất này dễ sống hơn chỗ khác, từ giới nghệ sĩ có tài và bất tài đến mấy bà buôn thúng bán bưng đều nuôi mộng lập nghiệp nơi mảnh đất lắm người nhiều xe này.

Ở Sài Gòn, bạn hay chứng kiến những tai nạn giao thông nho nhỏ do xe máy, thường cả hai bên va chạm đều tự dựng xe lên, nhìn ngó xe của mình, xuýt xoa vài tiếng rồi nổ máy xe, mạnh ai nấy đi, thậm chí họ cũng chẳng nhìn nhau. Ở Sài Gòn thỉnh thoảng có người chạy theo bạn ngoài đường chỉ để nhắc bạn nhớ gạt chân chống xe hoặc coi chừng bị rớt cái ví lòi ở túi quần sau.

Ở Sài Gòn, bạn dễ thấy những quán xá tạm bợ và tối giản đến không ngờ, nhiều quán cà phê chỉ với một cái lon bò húc làm biểu tượng vậy mà một ngày bán không dưới 300 ly café bằng cách bưng đến tận nơi, có một xe bánh mì nhỏ chỉ bán buổi chiều tối mà doanh thu hằng ngày lên đến cả chục triệu, có một bà chỉ bán nước sâm vỉa hè mà sau ba năm đã mua được căn nhà mặt tiền to vật ở chính nơi mà bà xin đặt xe nước sâm của mình.

Ở Sài Gòn có nhiều bạn trẻ mặc đồ như tây, ngồi ở café máy lạnh với laptop trước mặt và viết đơn xin việc, nhưng cũng có nhiều bậc trung niên mặc quần đùi uống café cóc ở vỉa hè bàn chuyện xây cao ốc cho thuê. Ở Sài Gòn bạn có thể xin làm phụ việc ở bất cứ đâu mà lương tháng vẫn bằng một kế toán mới tốt nghiệp đại học, người ta có thể mua cùng một món đồ với giá chênh lệch nhau đến cả chục lần mà không hề áy náy.

Có nhiều thứ nữa ở Sài Gòn mà tôi muốn viết mà vẫn không viết được, tôi xin kết bằng một câu chuyện nhỏ, của tôi.

Công việc đầu tiên mà tôi làm để sinh nhai ở đất Sài Gòn này là làm bốc xếp ở cảng. Một bữa tối nọ, chừng hơn mười giờ, trời mưa lớn, tôi đạp xe từ cảng về sau ca làm. Đói, lạnh và mệt làm tôi lả đi, tôi tấp đại xe đạp vào một mái hiên và ngồi bệt xuống, ngủ thiếp đi.

Đột nhiên tôi chợt thức vì tiếng cửa sắt kéo ra, một người phụ nữ mở cửa và hỏi thăm tôi bằng giọng nam bộ rất phúc hậu. Bà mở rộng cánh cửa cho tôi vào, bà đưa cho tôi một cái áo để thay và chỉ ít phút sau, bà lại xuất hiện với một tô mì gói nghi ngút khói, có cả mấy cọng ngò. Bà chỉ nói gọn: “Ăn vô là khỏe liền hà”. Mà thiệt tình, ăn hết tô mì tự nhiên tôi thấy “phẻ” quá, có lẽ vì từ đó, tôi không nghĩ mình có thể sống ở đâu tốt hơn mảnh đất này. Tôi khỏe luôn từ đó đến giờ.

Tôi chịu không thể nhớ căn nhà ấy, nó nằm đâu đó trên đường Lý Chính Thắng. Tôi cũng chịu, không nhớ nổi gương mặt người đàn bà ấy, như mọi người đàn bà ở thành phố này. Bạn đừng nói tôi vô ơn. Ở Sài Gòn, nói chuyện đó chỉ nhận được một cái khoát tay và câu trả lời trớt quớt: “Bỏ đi. Ơn nghĩa gì cậu ơi”.
Rồi tôi cũng giúp một người khác như thế, rồi tôi cũng nói giọng Sài Gòn, tôi cũng khoát tay khi người ta cảm ơn: “Bỏ đi. Ơn nghĩa gì cậu ơi”.

Sài Gòn là một mảnh đất lạ kỳ. Nó lạ kỳ đến nỗi người ta nhớ về nó khi đang ở trong lòng nó. Vậy đó.
Đôi khi người ta làm việc tốt mà không mong báo đáp, nhưng họ đâu biết là họ đang gieo vô lòng người khác những hạt mầm tốt đẹp.

Dưới đây là những câu chuyện tôi cóp nhặt và nghe kể từ nhiều bạn trẻ sống và làm việc ở Sài Gòn, xin chia sẻ lên đây.

Người chỉ đường tốt bụng

Ở ngay ngã tư Cao Thắng – Nguyễn Thị Minh Khai (quận 3), thường ngày có một anh thanh niên ngồi bán áo mưa 2 đầu và “áo” vải nhựa trùm xe hơi, xe honda. Có điều là sát cái ngã tư đông đảo xe cộ này lại có bệnh viện phụ sản Từ Dũ nên ngày ngày, số bà con – nhất là các chị em ngụ ở các tỉnh xa – đến anh thanh niên hỏi đường vào cái nhà thương nổi tiếng khắp miền Nam này thường còn muốn nhiều hơn cả số khách ghé hỏi mua áo mưa.

Do đó, anh cho biết: “Tôi bèn đặt làm tấm bảng này để chỉ đường cho rành rẽ, giúp cho bà con. Với lại xung quanh đây có rất nhiều tụi cò chuyên môn kiếm tiền bằng cách chỉ dẫn bậy bạ cho người ta đến mấy chỗ nạo thai, phá thai tư chớ không phải vào bệnh viện cho đúng chỗ và an toàn… Có đáng xá gì cái bảng này, tôi chỉ tốn hết hơn một trăm ngàn thôi mà!”.

Vui vì còn nhiều người tốt

Buổi tối cách đây 3 năm, năm học lớp 12, đi học thêm buổi tối ngang qua công viên Gia Định. Lúc tình cờ liếc vô công viên, thấy 1 anh bán nước cầm 1 ly nước (trà đá hay nước mía không rõ) đưa cho 1 anh lao công dọn dẹp vệ sinh đường phố. Anh này cảm ơn, anh kia xua xua tay í bảo không có gì đâu...
Thấy mỗi hình ảnh đó thôi mà mình vui vui nguyên buổi tối. Giờ nghĩ lại vẫn thấy vui, vì cũng còn nhiều người tốt...

Chú bán kẹo bông gòn

Năm mình học lớp 1. Chờ mẹ tới đón. Thấy chú kia bán kẹo bông gòn. Thích ơi là thích mà tiền không có, rất thèm. Nghĩ bụng chờ mẹ tới sẽ mua. Lúc sau mẹ tới, mình nằng nặc đồi mẹ mua. Tiếc thay mẹ mình quên giờ đón nên chạy vội đi đón mình mà không mang theo tiền .Mẹ bảo để mai mẹ mua cho vì đi gấp quá không mang tiền, mình không chịu, cứ nhìn theo chú bán kẹo bông gòn.

Hình như chú ấy biết, tháo 1 cây kẹo bông gòn ra cho mình. Mẹ không cho lấy, vậy mà cũng lấy. Lấy xong đi về bị lầm bầm, mẹ nói là: "Mai phải mang lên trả chú ấy", nhưng từ đấy về sau không thấy chú ý đâu nữa...
15 năm rồi.

Người tốt luôn ở quanh ta

Có lần, kính của mình bị đứt dây cáp ở cái gọng. Đem đi sửa, anh sửa kính thay dây cáp cho mình, còn lấy thuốc rửa kính ra xịt lau cho sạch. Khi hỏi bao nhiêu tiền thì ảnh nói thôi, có gì kính hư em mang đây cho anh sửa, anh lấy giá rẻ cho.

Còn một chuyện khác là hồi mình còn đi xe đạp đi học, bị thủng ruột xe mà trong túi không còn tiền, thế là dắt bộ 5 cây trên đường về nhà, đang dắt chưa tới nửa đường thì ông sửa xe kêu lại, mình nói không có tiền thì ổng nói để ổng vá cho, có gì mai quay lại trả cũng được. Thế là ổng vá xong, còn tăng sên cho mình nữa chứ, thế là mình phóng một mạnh về nhà xin tiền mẹ và phóng lên đưa cho ông 5000 đồng (vì hồi đó tiền vá là vậy), ông trả lại mình 2000 đồng ổng bảo lấy tiền đi uống nước đi.

Nhớ lần trước đi đổ xăng, kêu đổ 40.000 đồng nhưng tới lúc đưa tiền mới nhớ là không mang theo bóp, chưa kịp nói thì anh đổ xăng đoán được mình không có tiền, ảnh lấy tiền túi ảnh ra bù vào chổ thiếu của mình, rồi nói mai mốt có đi đâu thì nhớ kiểm tra kỹ trước khi lên xe.

Không tham lam

Cách đầy 2 năm, mình đi nhậu về thế nào rớt ngay cái bóp. Trong bóp tiền thì không nhiều, nhưng có bằng lái, CMND, cà-vẹt xe, và quan trọng là phiếu hẹn lấy cái vaio mình đem sửa dùm người ta. Mình rất lo lắng.
Qua hôm sau, có điện thoại hỏi mình có làm rơi bóp phải không, mừng hết lớn, nghĩ lấy lại giấy tờ là được rồi. Ai ngờ người ta đem trả mình tất cả y nguyên như lúc rớt bóp. Chỉ kịp cảm ơn 1 tiếng là người ta đi mất.

Chú xe ôm tốt bụng

Cách đây khoảng 4 năm, nhỏ bạn mình gói ghém hành lý rồi bắt xe ôm ra bến xe miền Tây để về quê nghỉ hè. Tới nơi rồi nó móc 200.000 đồng ra trả tiền xe ôm, ông xe ôm móc hết túi ra không có tiền thối lại mới nói là: "Con đợi đây chút xíu, chú đi đổi tiền thối cho con!".

Nhỏ bạn mình đứng đợi, 5 phút, 10 phút rồi 15 phút mà cũng không thấy ông xe ôm đó quay lại, nó bắt đầu hiểu ra là ông kia lặn luôn rồi. Lúc đó 200.000 đồng là tất cả số tiền nó có, mà nó còn chưa mua vé xe về quê nữa. Vừa buồn vừa tức, nó đứng trước cổng bến xe khóc ngon lành.

Sau đó tự nhiên có một chú xe ôm nhìn cũng trẻ trẻ thôi, chạy tới hỏi nó: "Sao mà khóc vậy con?" (Giống bụt quá hén). Con nhỏ sụt sùi kể lại sự tình, chú đó nghe xong mới móc ví ra nói: "Chú sáng giờ mới chạy được có 2 chuyến thôi nên không có nhiều, thôi con cầm tạm nhiêu đây mua vé đi" -  nói rồi chú đó rút ra đúng 120.000 đồng đưa cho nhỏ bạn mình mà không đề cập tới chuyện trả nữa.

Nhỏ bạn mình cảm ơn rối rít, còn hỏi số điện thoại và hẹn ngày quay lên Sài Gòn sẽ trả chú. Tuy nhiên, sau đó nó có quay lên và nhiều lần liên lạc với số điện thoại đó mà không được. Không biết chú xe ôm tốt bụng đó giờ ở đâu rồi, nhỏ bạn mình nói giờ mỗi lần ra bến xe về quê, nó vẫn ngó nghiêng tìm chú đó mà không thấy.

Đôi khi người ta làm việc tốt mà không mong báo đáp, nhưng họ đâu biết là họ đang gieo vô lòng người khác những hạt mầm tốt đẹp. Những người đã được giúp đỡ cũng sẽ luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác, âu đó cũng là một cách trả ơn tốt nhất mà, phải không?

Du lịch, GO! - Theo Đàm Hà Phú (Nguoiduatin), internet
Một bữa nào đó, chợt thấy mình là người miền Tây, lại làm báo, mà rất ít hiểu biết về miền Tây, giống in như một người con cứ mãi rong chơi đâu đâu, lâu lắm không thèm về quê mẹ, hoặc nếu có cũng chỉ đáo qua. Vậy là cứ mỗi khi có dịp, tôi lại “kiếm cớ” một chuyến đi…

Muốn “đi bụi” miền Tây, bạn không cần gì nhiều đâu. Vài bộ đồ nhẹ nhàng, giờ có thẻ ATM thì tốt rồi nhưng vẫn phải dằn túi chút đỉnh, bởi cái máy này chỉ khi vui nó mới chịu nhả tiền ra thôi. Và thể nào cũng phải có người thân, bạn bè chí cốt, đủ để chia sẻ những hoàng hôn lặng lẽ hoặc vài tia nắng đầu ngày…
Miền Tây là xứ sở sông nước, nên có thể men theo sông mà đi miết là có thể tới bất cứ nơi đâu.

Nếu bắt đầu từ “cái rốn” là Vĩnh Long, cứ ngược sông Hậu sẽ đến nơi mà dòng Mekong bắt đầu có tên gọi Cửu Long và chia làm 2 nhánh sông Tiền và sông Hậu tại Tân Châu. Chẳng hiểu sao, khi đứng ở ngã ba sông này, lòng chúng tôi cứ nôn nao, như thể “chạm” được vào quê hương.

Sông cái mênh mông là vựa cá cho Nam Bộ. Cá bông lau, cá ngát và con cá tra, ba sa từ biển Hồ theo mùa nước nổi về đây, đã làm nên làng bè lớn vào bậc nhất miền Tây. Từ đây, con khô cá tra phồng, khô sặt rằn, khô cá dứa thơm nức cả vùng. Chỉ ngó món mắm ruột làm từ ruột cá lóc hay món mắm thái, lạng từ nạc cá lóc cũng đủ hình dung ra vùng đầu nguồn cá bạc tôm vàng.

Đứng bên đây bờ Tân Châu, ngó qua bên kia đã là sông Tiền miệt Hồng Ngự (Đồng Tháp), nơi mà con cá tra giống nhân tạo đầu tiên được sinh ra, đã giúp người miền Tây hơn chục năm nay thêm nhiều triệu phú, tỷ phú, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia hàng đầu về xuất khẩu thủy sản nước ngọt. Và cũng trải lắm thăng trầm để học bài học “chợ nhà- chợ quốc tế” không thiếu đắng cay.

Như Trưởng Phòng Nông nghiệp và PTNT Hồng Ngự, Nguyễn Trạng Sư đăm chiêu nói với chúng tôi: “Bây giờ không còn ai làm nghề vớt cá giống, vì còn đâu mà vớt. Nhưng cũng không ít những “đại gia cá giống” mà tên tuổi đã vượt rất xa khỏi huyện lỵ nhỏ bé này”.

Men theo sông Tiền, đi qua những xóm làng trù phú. Với những tên cây tên trái mang bóng hình xứ sở, đậm vị quê hương, sầu riêng Sáu Ri hay vú sữa Lò Rèn, xoài cát Hòa Lộc… Rồi xuôi dòng ra biển cả, để qua xứ dừa Đồng khởi- Bến Tre, nơi có diện tích dừa lớn nhất, nhiều giống dừa nhất cũng như nhiều sản phẩm chế biến từ dừa- không chỉ nhất của ĐBSCL mà còn nhất nước. Ngó cây dừa sai oằn trái và nhấp ngụm nước dừa xiêm, làm sao không nhớ mấy câu thơ “tôi lớn lên đã thấy dừa trước ngõ, dừa ru tôi tiếng hát tuổi thơ…” mát rượi tận đáy lòng.

Đứng trên đập Ba Lai lộng gió- một trong chín cửa sông rồng đã được đầu tư cải tạo thủy lợi, để cảm nhận sự giàu có của vùng duyên hải miền Tây. Bên này đập là biển mặn đục ngầu, nhưng bên trong đã là nước ngọt phù sa. Đã có nhiều tranh cãi về chuyện làm thay đổi một vùng đất đặc thù cửa sông. Nhưng theo người dân nơi đây, đập đã giúp giữ ngọt ngăn mặn trong thời gian qua. Chắc sẽ càng có ích trước biến đổi khí hậu và nước biển dâng trong tương lai.

Con nghêu Bến Tre giờ đây cũng đã hết phận long đong, nổi tiếng tầm “quốc tế”, ngư dân hét giá hàng vài chục ngàn đồng một ký. Cũng ở đây, cảnh tranh cướp nghêu đã gợi lên nhiều suy nghĩ lẫn băn khoăn...

Một chiều nào đó, “nghe tiếng đàn ai rao sáu câu…” tôi lại men theo dòng Hậu Giang về xứ Bạc Liêu, vùng đất của bản ca vọng cổ đầu tiên “Dạ cổ hoài lang” buồn man mác, để ra cửa biển Trần Đề ngóng vọng xa khơi. Làm quen với những người đầu sóng ngọn gió và nếm thử con cá dạ đỏ ngọt lừ, đang là “vua xuất khẩu” giá mỗi ký vài trăm ngàn đồng. Nếm thử hạt muối mặn lừ của mưa gió thị trường. Lắng lòng nghe câu chuyện đường sá khó đi, xăng dầu đắt đỏ, bão tố nguy nan… của ngư dân. Hiểu rằng, mỗi miếng ăn từ biển đẫm mồ hôi và nước mắt.

Đi qua những ruộng vườn, sông nước mà không gặp người miền Tây thì coi như… chưa tới đất này. Thật mà, tôi đã gặp những người miền Tây, mà qua thời gian, nhiều người tôi đã quên mặt, quên tên, nhưng tình người vẫn đậm đà trong hoài niệm. Đó là chén xôi nếp than với tôm thẻ kho mặn lúc nửa đêm- mà chị chủ nhà nuôi chúng tôi những ngày đi công tác đã đánh thức: “Nghe mấy em nói chưa biết ăn xôi nếp than. Chồng chị mới trút được mớ tôm tươi, chị nấu xôi, kho tôm liền. Dậy ăn đi cho biết”. Và chén xôi nửa đêm ấy- hẳn vợ chồng chị không hề biết rằng, đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi, niềm tin tình người của tôi qua biết mấy quãng đường đời mà đôi khi rất thất vọng.

Đó là dì Sáu vừa nhai trầu, vừa chỉ căn nhà trống huơ hoác, không cửa nẻo trước sau: “Có hai bồ lúa lận mà, bây ở tới chừng nào cũng được. Làm hết công chuyện hả dìa trển” ở một miệt đồng xa mút của Giá Rai. Còn anh Bảy thì băng cánh đồng xa mỏi mắt trong chiều chạng vạng để kiếm một ống khói đèn- giữ ánh sáng đêm bằng hạt đậu cho chúng tôi… ngủ.

Đó là anh Việt, là chú Tám, chú Hai,… trải từ sông Tiền qua sông Hậu, từ cánh đồng đến đảo khơi, đã sẵn lòng giúp những “khách bụi đường xa” mà không hề mong một ngày đáp lại. Tôi thầm nghĩ, nếu ai chưa từng hiểu hoặc chưa từng biết tại sao Lục Vân Tiên có sức sống lâu bền đến vậy thì hãy vác ba lô lên lưng, làm một chuyến miền Tây.

Tính ra, mình cũng đã có hàng chục năm trời với những chuyến đi, nhưng là một người miền Tây và thêm chút nữa- một nhà báo, tôi thấy mình mới hiểu được một phần quá nhỏ, mới chỉ “ngang qua” mà lại nợ nần biết bao nghĩa tình, biết bao điều chưa nói hết, chưa viết được. Như trăn trở của kỹ sư Nguyễn Trạng Sư cũng là của người miền Tây: “Nếu Ủy ban quốc tế sông Mekong không làm quyết liệt để tạo sự thông thoáng cho sông, thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến ĐBSCL cả về sinh hoạt, đời sống và sản xuất của người dân”. Cho nên ước mơ- bạn đừng cười đấy nhé, là sẽ “xuyên qua miền Tây”.

Thật thích cảm giác khi thành phố nhỏ còn mơ ngủ, trong sương khuya lành lạnh, lặng lẽ chất ba lô lên xe rồi băng vào màn đêm mờ tối…

Du lịch, GO! - Theo Phương Nam (Nguoilaodong), internet

Saturday, 16 June 2012

Phú Quý là một huyện đảo thuộc tỉnh Bình Thuận, cách bờ biển Phan Thiết 54 hải lý có những roi cát trắng và biển xanh ngắt. Phú Quý cũng có rất nhiều đảo kỳ lạ ví dụ như “đảo Rắn”.

Thực ra đây là Hòn Đen nhưng vì nổi tiếng là nơi định cư của vô số các loài rắn khác nhau, trong đó có nhiều loài quý hiếm mà chỉ ở đảo mói có. Bên cạnh rắn, dựa vào sự độc đáo của từng đảo mà các đảo của Phú Quý còn có tên Hòn Đỏ với nhiều loại cá có giá trị kinh tế và dinh dưỡng cao. Hay Hòn Trứng với những bãi đá tròn đủ màu sắc… quanh năm lấp lánh dưới ánh mặt trời.
Và đặc biệt tại Phú Quý có loài cá Nhái. Cá nhái hình dáng giống như cá hố hoặc cá rơm ngoài biển nhưng thân hình tròn cỡ cổ tay người lớn, mỏ cá dài và nhọn, răng rất sắc, có màu trắng xanh, xương cá cũng có màu xanh, ngư dân ở đây gọi là cá nhái nhưng ở nơi khác còn gọi là cá xương xanh.

Loài cá này thường sống ở tầng nước mặt.  Xung quanh đảo Phú Quý-Bình Thuận khoảng 18 hải lý trở ra, ngư dân thường xuyên bắt được cá nhái. Cá nhái Phú Quý có chiều dài từ 0,7 đến gần 1 m, nặng từ 1- 2 kg, có con nặng đến 4-5 kg.

Khai thác

Có rất nhiều cách để bắt cá nhái. Trước kia người dân Phú Quý thường dùng thuyền buồm để khai thác. Nhờ cánh buồm và sức đẩy của gió, ngư dân điều khiển chiếc thuyền chạy với tốc độ vừa phải, kéo phía sau  là một dãy dây câu không có lưỡi, mà thay vào đó là 1 chùm dây bằng nilon, được đánh tơi ra thành nhiều sợi mỏng nhỏ (địa phương gọi là tớt).

Mỗi tớt chiều dài khoảng 15 cm, phần đầu nhuộm màu đỏ, phần còn lại nhuộm màu xanh lá cây. Một đầu tớt cột chặt vào dây cước câu, một đầu thì thả trong nước, khi bị thuyền kéo đi, đầu tớt xòe ra giống như con cá đang bơi. Loại tớt này chỉ câu được duy nhất loài cá nhái (chúng thích ăn cá suốt sống nên khi gặp tớt, sẽ nhầm là con mồi. Sau khi ăn tớt, răng cá sẽ dính những sợi ny lon  nhỏ li ti, không thể nào thoát đi được.

Ngư dân Phú Quý còn dùng cần câu, tìm những ghềnh đá nhô, rồi quăng tớt ra xa (bạt tớt) sau đó cuốn vào để tớt như con cá đang  bơi. Cuốn càng nhanh thì cá ăn càng mạnh, độ dính tớt sẽ cao hơn. Có một thời gian, ngư dân Phú Quý dùng lưới để đi đánh cá nhái và trúng rất đậm. Đã có nhiều người thoát nghèo nhờ nghề đánh lưới nhái.

Chĩa cá

Hiện nay, người dân Phú Quý lại có thêm một cách khai thác mới loài cá này mà hiệu quả gấp nhiều lần các kỹ thuật truyền thống, đó là nghề chĩa cá nhái đêm. Theo lời kể của anh Sáu năm nay vừa tròn 30 tuổi, trú tại thôn Đông Hải, xã Long Hải, là một trong những ngư dân làm nghề này đầu tiên trên đảo thì gốc của nghề này xuất phát từ Nha Trang – Khánh Hòa. Trong một lần đi Nha Trang, anh thấy ngư dân ở đây bắt cá nhái rất đơn giản nhưng hiệu quả cao, vì thế anh quyết tâm học nghề để đưa về Phú Quý.

Phương tiện để hành nghề chĩa cá nhái gồm 1 chiếc thuyền có vỏ bằng hợp kim nhôm dài khoảng 7m, bề rộng 1,2m. Thuyền được gắn máy Kole 15 (hay còn gọi là máy đuôi tôm); 1 cây chĩa có 13 răng dài khoảng 3,5m, lưỡi bằng Inox; 1 chiếc đèn soi đội trên đầu và một số bình điện ắc quy 12V để làm nguồn điện dự phòng trong lúc soi tìm cá. Thời gian đầu để có phương tiện hành nghề, ngư dân chỉ bỏ ra trên dưới 40 triệu đồng nhưng  thời điểm hiện nay phải bỏ từ 60 – 70 triệu đồng, vì đây là nghề mới đang thịnh thành.

Cách chĩa

Thường thì cá nhái xuất hiện quanh năm, rộ nhất từ tháng Giêng đến tháng 8 (ÂL). Điểm đặc biệt của nghề chĩa cá nhái ở Phú Quý là trên thuyền duy nhất có 1 người nhưng phải làm tất cả công việc, từ khâu chạy thuyền cho đến việc tìm kiếm, phát hiện và chĩa cá. Vì thế bộ phận điều khiển thuyền được thiết kế ở phần trước của mũi thuyền, tay lái được thiết kế bằng vô lăng giống như  ôtô, lúc chạy  dò tìm cá, ngư dân đứng trước mũi thuyền, dùng chân điều khiển thuyền chạy với tốc độ nhanh, tay cầm chĩa, đầu đội đèn soi, quay qua lắc lại 1800 như tín hiệu từ ngọn đèn hải đăng để tìm cá.

Nhờ ánh sáng của 2 bóng đèn đội trên đầu có tầm chiếu sáng 10m, trong bán kính đó ngư dân phát hiện cá bằng nhiều cách, có lúc thì gặp cá đang đứng lững lờ sát mặt nước, lúc đó chỉ việc cho thuyền chạy chậm lại và chĩa cá ngay; có lúc chỉ thấy cá quẫy nước từ xa phải lanh tay cúp đèn và cho thuyền chạy nhanh đến địa điểm đoán chừng trước, rồi bật đèn lên tìm cá để chĩa  (lúc đó cá bị động nếu ta cứ chong đèn sáng quá, cá sẽ tẩu thoát mất).

“Làm lâu rồi cũng có nhiều kinh nghiệm, cứ khoảng 10 lần chĩa thì chỉ có khoảng 2 lần sẩy cá, hơn nữa lưỡi chĩa có tới 13 răng nên không trúng răng này cũng trúng răng khác”, anh Võ Minh Thức (24 tuổi) thường trú tại thôn Triều Dương, xã Tam Thanh, có 8 năm làm nghề chĩa cá nhái đêm ở Phú Quý cho biết thêm.

Hiện nay nghề chĩa cá nhái đêm ở Phú Quý đang là nghề hái ra tiền. Những lúc vào vụ mùa, sau một đêm đi chĩa, có thuyền mang về từ 4 – 5 tạ cá nhái tươi đem bán cho thương lái các chợ trên huyện hoặc tàu dịch vụ thu mua, nhiều ngư dân đã phất lên nhờ nghề này.

Món ăn từ cá nhái

Cá nhái ở Phú Quý thịt nhiều, ngọt có màu trắng được các bà nội trợ ưa chuộng vì  nhiều chất dinh dưỡng và có thể chế biến các món ăn ngon như: nướng muối ớt, quấn giấy bạc nướng, kho ngót, nấu canh chua, làm gỏi cá nhái, phơi khô... Nhưng ngon nhất có lẽ là món tái chanh hoặc chấm với mù tạt. Cá nhái còn tươi đem thái thành những miếng mỏng, thịt rất trắng cho vào đĩa tái chanh ăn liền hoặc cho vào tủ lạnh độ chừng 15 phút rồi lấy ra chấm với mù tạt cho tí xì dầu vào, làm thêm vài ly rượu đế là hết ý.  Nếu ai chưa một lần thưởng thức các món ăn chế biến từ cá nhái Phú Quý thì thật tiếc!

Du lịch, GO! - Theo CHÂU THỌ (Bình Thuận Online)

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống