Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Saturday, 30 June 2012

Hai bên đường vào Khu du tích được phủ một màu xanh rì của những cây xà cừ cổ thụ càng làm tôn lên vẻ uy nghi, cổ kính của vùng đất này.

Ngày mở cửa... Trời

Khu di tích Am Tiên nằm trên núi Nưa thuộc xã Tân Ninh (Triệu Sơn, Thanh Hóa). Quần thể khu di tích bao gồm "Núi Nưa - Đền Nưa - Am Tiên" với tổng diện tích 100 ha, riêng khu vực đền Am Tiên là 4 ha.
Am Tiên đã có từ lâu đời nhưng mãi đến năm 2006 vẻ đẹp tiềm ẩn của vùng đất địa linh nhân kiệt này mới được khai thác. Vào năm 2010 mảnh đất này đã được công nhận là Khu di tích cấp quốc gia. Lễ hội đền Nưa - Am Tiên bắt đầu từ 15 - 20 tháng Giêng hàng năm.

Theo tín ngưỡng dân gian: Huyệt đạo trên đỉnh núi này là huyệt khí thiêng! Ngày 9 tháng Giêng hàng năm là ngày mở cửa trời. Người dân hành hương về đây cầu cho quốc thái dân an, nhà nhà hạnh phúc, người người khỏe mạnh, tài năng tiến tới, công thành danh toại.

< Đền Nưa dưới chân núi Nưa.

Từ giã Am Tiên khi màn sương đã tan dần, cảnh vật hai bên sườn núi hiện rõ như bức tranh sơn thủy hữu tình. Từ trên cao nhìn xuống, một vùng đồng bằng Nông Cống - Triệu Sơn mờ ảo trải dài ngút tầm mắt. Kia là dòng Lãn Giang nằm e ấp, cuộn mình trong sương sớm. Kia là núi Tía, núi Lễ Động nơi đã ghi dấu ẩn sĩ Tu Nưa đã giúp dân ngăn sông vá trời. Chắc chắn nếu có dịp, tôi sẽ lại ghé thăm vùng đất địa linh nhân kiệt này.

Am Tiên - núi Nưa gắn liền với cuộc khởi nghĩa năm 248 của Bà Triệu chống giặc Ngô xâm lược. Bởi vậy Am Tiên còn có tên gọi khác là Kinh Triệu Quận (tức là Kinh đô của Bà Triệu). Để tri ân lớp người thiên cổ, du khách tới đây đều không quên vào dãy điện thờ Bà Chúa Thượng Ngàn, vua Bà, đền thờ ông Tu Nưa thắp nén hương tỏ lòng thành kính.

Đến với Am Tiên vào những ngày đầu xuân, du khách sẽ được đắm chìm trong bạt ngàn lau trắng quyện mây dìu dặt trong gió. Đoạn đường lên Am Tiên dài hơn 3km đường núi quanh co, hai bên đường sương mù che phủ. Tuy nhiên chừng ấy khó khăn vẫn không thể ngăn cản bước chân du khách.

< Cổng chào đền Am Tiên.

Chúng tôi nghe rất rõ tiếng trò chuyện nhưng không thấy người vì lớp sương bao phủ quá dày. Phải qua một quãng dài mới nhận ra đó là một đoàn khách cũng đang song hành. Một ông khách trong đoàn chợt cao hứng đùa: "Am Tiên có khác! Âm u quá các bác nhỉ?"- Cả đoàn cười ồ lên rồi ai nấy lại mải mê bước tiếp.

Trong sương mù cổng chính đền Am Tiên dần hiện ra với băng rôn treo phía trên "Đền Am Tiên - kính chào quý khách".

Chủ trì hiện tại đền Am Tiên là ông Lê Bật Sơn, ông là chủ trì đời thứ 3. Hiện tại ông Sơn cùng người dân địa phương đang tích cực xây dựng con đường lên Am Tiên để người hành hương thuận tiện đi lại. Dù ngày chính hội đền Am Tiên đã qua nhưng du khách đến vãn cảnh vẫn rất đông. Dọc lối đi trong khuôn viên đền mang đậm giá trị văn hóa tâm linh bởi chiếc chuông đồng cổ và những tán đa, bồ đề đẫm mình trong sương sớm.

Huyệt thiêng

Từ cổng đền Am Tiên đi sâu vào 150m sẽ thấy huyệt thiêng. Đó là khoảng đất rộng hơn 100 mét vuông được rào chắn kỹ lưỡng. Ngay lối vào là phiến đá trắng có khắc dòng chữ "Cầu cho quốc thái dân an". Ông Lê Bật Thắng, trợ lý cho chủ trì chùa dẫn tôi lên huyệt thiêng đền Am Tiên và giới thiệu: "Đất nước ta có 3 huyệt đạo thiêng. Một là ở núi Đá Chông (Ba Vì, Hà Nội), hai là ở núi Bà Đen (Tây Ninh) và ba chính là chỗ này (tức Đền Am Tiên, Núi Nưa- Thanh Hóa). Theo sử sách để lại, đây chính là 1 trong những huyệt đạo quan trọng nhất của nước Nam, mà tướng Cao Biền không thể trấn yểm nổi...".

< Huyệt thiêng.

Thật bất ngờ bởi nơi tôi đang đứng cao 538m so với mực nước biển và chính là đỉnh cao nhất của ngọn núi Nưa. Huyệt thiêng chính là nơi giao hòa giữa trời và đất. Giếng tiên có độ sâu khoảng 5m, rộng 4 m, phần lộ thiên của giếng được xếp bởi 3 lượt đá.

Ngay tại nơi này ta có thể cảm nhận được sự chuyển động của vũ trụ. Thấy tôi băn khoăn về việc làm sao cảm nhận được chuyển động ấy, ông Thắng gọi thêm một số du khách đứng gần và chỉ dẫn: "Bây giờ mời các vị nhắm mắt lại, thả lỏng cơ thể, tập trung mọi suy nghĩ lên đôi mắt, lúc đầu các vị sẽ thấy có màu đỏ, rồi chuyển sang màu da cam, cuối cùng là màu trắng xanh và đợi một chút quý vị sẽ thấy trong màu trắng xanh có lẫn các hạt bụi.

Đó chính là các hạt bụi đang chuyển động trong vũ trụ này!". Thật kỳ lạ, bởi làm theo chỉ dẫn tới đâu thì tôi cảm nhận được sự khác lạ đến đó. Trong một khoảnh khắc tôi thấy mình như đang bay bổng giữa trời đất bao la và đang hòa cùng với những chuyển động của vũ trụ. Cảm giác thư thái, nhẹ nhõm ấy quả không dễ nào có được.

Rời huyệt thiêng trong cảm giác lâng lâng khó tả, tôi như lạc vào cõi bồng lai tiên cảnh trên đường vào giếng Tiên. Hai bên lối đi được phủ kín một màu hồng đào của những cành đào phai nở rộ sau Tết đẹp đến say lòng người. Những cánh đào hồng tươi rớt xuống tựa như tấm thảm nhung. Người ta gọi đó là Động đào.

< Động đào.

Tương truyền khi xưa trên vùng đất này bạt ngàn đào. Tới giờ nơi đây vẫn còn hơn 1.000 gốc. Cứ đến đúng dịp lễ hội, hoa đào lại đua nhau khoe sắc. Truyền thuyết kể rằng các tiên nữ xưa kia thường xuống đây hái đào và tắm nước giếng, vì thế mới gọi là giếng Tiên.

Ông Lê Bật Thắng cho biết: "Không ai xác định được giếng này có từ khi nào. Dân gian vẫn tương truyền: Từ khi vũ trụ sinh ra giếng đã có rồi! Sự chuyển động của vũ trụ đã tạo ra vết nứt trên đá và dần dần vết nứt rộng ra tạo thành giếng".

Để tiện cho du khách tới xin nước và ngăn không cho đất cát bẩn rơi xuống giếng Ban quản lý di tích đã cho xây dựng thành giếng vào năm 2004. Nước giếng từ trong núi chảy ra nên rất tinh khiết, người ta gọi nguồn nước chảy vào giếng là Long mạch. Lòng giếng rất cạn, từ trên nhìn xuống đã thấy ngay, nhưng lạ kỳ thay nước giếng không bao giờ vơi dù cho hạn hán kéo dài. Các sư thầy vùng lân cận thường tới đây xin về làm nước cam lồ dùng trong các dịp lễ tế, còn du khách tới xin về để thờ cúng tổ tiên.

Khu di tích Am Tiên

Du lịch, GO! - Theo Lường Thi - Ngọc Hưng (Giadinh24h.net)
Bao đời nay những người phụ nữ làng Trinh Tiết (xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, Hà Nội) vẫn thủy chung một lòng một dạ thủ tiết, thờ chồng nuôi con. 
Chính vì thế, hiện trong làng có nhiều người phụ nữ dù chồng mất sớm nhưng vẫn không tái giá lấy chồng. Có gia đình có mấy thế hệ đều thủ tiết.
.
< Cổng làng văn hóa Trinh Tiết.
.
Đường... "gái trinh"
.
Trên trục đường du lịch thắng cảnh đến chùa Hương, mọi người không khỏi ngạc nhiên khi nhìn thấy một chiếc cổng làng có ghi hàng chữ: Làng Văn hóa Trinh Tiết. Cái tên Trinh Tiết thực sự gây ấn tượng mạnh trong tôi. Tôi tò mò đi tìm lời giải đáp về cái tên độc đáo đó.

Tôi đã hỏi người dân nơi đây về tên gọi của làng, nhưng nhiều người lắc đầu không biết. May thay tôi được một cụ già giải thích rằng: Trước đây làng có nhiều người con gái trong trắng, thủy chung. Họ yêu chồng thương con, một đời thủ tiết. Xưa kia, hằng năm những người con gái xinh đẹp trong làng được kén chọn để cung tiến cho vua.

< Con đường bằng gạch – món quà của những người con xuất giá.

Ông Bùi Kim Long 73 tuổi, một nhà giáo nghỉ hưu cho biết: "Trước đây, khi làng Trinh Tiết còn là một vùng ao tù nước đọng, để có thể đi lại mọi người dựng tạm những chiếc cầu "chân chó". Sau này thì làng quê được thay đổi cũng nhờ những người con gái trinh trắng đó. Đã thành thông lệ trước khi "xuất giá", những cô "gái trinh" đã tự nguyện góp gạch để xây dựng đường làng. Người đi trước làm gương cho thế hệ sau, với số lượng 200 viên gạch tự "khoán" cho mỗi người, nhờ đó mà bộ mặt của làng được thay đổi. Đường làng ngõ xóm được lát gạch phẳng lỳ khô ráo và sạch sẽ".

"Đến thế kỷ XIX, làng Trinh Tiết trở thành địa phương đầu tiên trong vùng vào mùa mưa "gót chân không chạm đất", ông Long tự hào về làng mình.

Tên làng Trinh tiết có từ thời nhà Lý

Ông Long kể về lịch sử của làng: Khoảng thế kỷ VI, một nông phu ở làng có võ nghệ cao cường khó ai địch nổi. Sau này nông phu đó trở thành tướng của Triệu Quang Phục, ông đã tập trung, huấn luyện được nhiều người tài để giúp vua đánh giặc, bảo vệ đất nước. Tuổi già, ông lui về quê sống thanh bình, yên tĩnh. Chọn gò đất đầu làng sinh sống, hưởng cuộc sống an nhàn. Sau này để đền đáp công ơn của ông, khi ông qua đời dân làng đã chôn cất ông ở gò đất đó và lập đền thờ tôn ông là Thành hoàng làng.

Ông Long cho hay, theo sử sách ghi lại phụ thân của Thành hoàng làng Triệu Quốc Bảo là một người "xứ trong" ra đây lập nghiệp rồi xây dựng gia đình. Hai vợ chồng chung sống rất hòa thuận và hạnh phúc. Khi sinh hạ được Bảo thì bố mất, để lại cảnh mẹ góa con côi. Mẹ Bảo là người phụ nữ nức tiếng gần xa về vẻ đẹp trời phú. Chính vì thế khi người chồng quá cố qua đời, có rất nhiều chàng trai giàu có đến ngỏ lời cầu hôn. Nhưng bà vẫn một lòng thủ tiết. Bà tần tảo nuôi con một mình, nhất quyết không tái giá. Dân làng cảm phục và noi gương bà, từ đó trở đi ai nấy đều dặn lòng mình phải luôn chung thủy với chồng con.

< Một góc làng Trinh Tiết.

Đến thế kỷ thứ XI có một vị vua thời Lý khi đi vi hành đến làng, nghe chuyện về những người phụ nữ nơi đây vua rất cảm động, khâm phục về lòng quyết tâm, nghị lực sống của họ. Sau đó vua quyết định đổi tên là làng Trinh Tiết.

Trinh Tiết thời nay

Những câu chuyện về những người phụ nữ một thời thủy chung, son sắt đã được các con cháu thế hệ sau noi theo. Bà Nguyễn Thị Thơ vốn là người con gái sinh ra ở mảnh đất Trinh Tiết, hiện bà đã nghỉ hưu và sống ở Ninh Bình với con trai.

Bà Thơ kể: "Trước đây gia đình tôi rất hạnh phúc, nhưng căn bệnh hiểm nghèo đã cướp mất chồng tôi, để lại một mình tôi với con trai. Dù lúc đó tuổi tôi còn trẻ có nhiều chàng trai đến dạm hỏi, nhưng tôi luôn dặn lòng mình sẽ ở vậy nuôi con đến suốt đời. Đến đời con tôi "kịch bản cuộc đời" lặp lại và đời cháu tôi cũng vậy đều có chồng mất sớm, nhưng vẫn thủ tiết thờ chồng nuôi con. Tôi luôn răn dạy con cháu khi chồng mất đi, đứa con sẽ là tất cả. Vì thế, sẽ cố gắng vượt khó khăn để nuôi dạy con nên người".

Bà Thơ bảo, người con gái làng Trinh Tiết đã yêu ai, lấy ai thì sẽ chung thủy đời đời kiếp kiếp. Khi chồng mất đi thì thủ tiết thờ chồng nuôi con. Chính vì thế mà xưa nay con gái làng chúng tôi có giá lắm, nhiều người giữ trinh tiết, đức hạnh.

Đệ nhất... cổng làng

"Trước đây làng Sêu (tên cũ của làng Trinh Tiết) có truyền thống trồng dâu nuôi tằm và làm ruộng", ông Long kể lại. Từ năm 1900, làng Trinh Tiết đã nổi tiếng là làng văn vật với những cây đa, bến nước, sân đình, chợ...

< Cổng làng Sêu gây ấn tượng cho khách qua đường.

Cổng làng là bộ mặt của cả thôn, trước khi xây dựng được các cụ già trong làng trao đổi, họp bàn rất cẩn thận. Ông Long bảo rằng, xây cổng đẹp thì dễ nhưng chọn được câu đối hay còn khó khăn gấp mấy lần. "Câu đối phải toát lên vẻ trường tồn của thời gian, chứ không phải mang tính khẩu hiệu thời thế. Nó cũng nói lên được bản chất, con người làng Sêu và đặc biệt là dễ đọc dễ hiểu".

Ông Long cứ tâm tắc khen câu đối của làng mình hay và hội tụ đủ ba yếu tố trên: "Làng Sêu quê cũ - Chim đậu đất lành - văn vật ngàn xưa - còn lưu mãi" - "Trinh tiết đời nay - Xuân về vận mới - Thanh cao muôn thuở - Phải là đây" đó là hai câu đối chính ở cổng làng Trinh Tiết.

< Mặt sau của cổng làng Sêu.

Ông Nguyễn Văn Dũng, một người dân trong làng bảo: "Mặc dù đã được đi rất nhiều nơi, chiêm ngưỡng nhiều cổng làng nhưng chưa thấy cổng làng nơi đâu đẹp và có cái tên ý nghĩa như làng mình. Cái cổng làng cũng là nơi rèn luyện con cháu nhân cách sống và hành vi đạo đức tốt đẹp để giữ mãi bản sắc vốn có của làng".

"Làng Trinh Tiết có gần 900 hộ dân, với 19 dòng họ. Hiện các tập tục, phong tục truyền thống từ nhiều đời trước đã mai một, bởi sự giao thoa về văn hóa đã làm thay đổi khá nhiều trong cách suy nghĩ của con người nơi đây. Tuy vậy truyền thống về sự Trinh Tiết của người phụ nữ vẫn còn. Dù làng có dân số đông, nhưng mọi người nơi đây đoàn kết giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong cuộc sống hàng ngày. Cùng nhau xây dựng làng để làng ngày càng văn minh hơn".

Du lịch, GO! - Theo Anh linh - Xuân Thái (Bee), internet
Khi thóc trên đồng chuẩn bị chín vàng, cũng là lúc lũ châu chấu bắt đầu “hoạt động” rầm rộ để kiếm thức ăn, con nào con nấy đều bóng bẩy, béo múp míp. Lũ trẻ trong xóm lại rủ nhau đi bắt châu chấu, cào cào và muồm muỗm về nướng, rang ăn.

< Châu chấu rang vàng ươm...

Loài côn trùng này có nhiểu loại: Nào châu chấu lúa, châu chấu tre, nhưng thơm ngon nhất phải kể tới châu chấu sim béo ngậy, cẳng to nhiều thịt.

Bắt châu chấu có nhiều cách. Trước đây nhiều châu chấu, người ta thường dựng cọc, căng màn rồi lùa gậy vào những ruộng lúa để châu chấu bay vào màn. Từng đàn châu chấu bay rào rào rồi mắc lại ở màn. Thế là đã có một bữa châu chấu no nê, vừa nướng vừa rang.

Hoặc đơn giản hơn thì chỉ cần một chiếc que tre nhỏ, một đầu buộc túi nylon để xua châu chấu rồi đem theo một cái chai nhựa. Gặp con nào thì vồ con ấy rồi nhét vào chai, chúng thi nhau nhảy loạn xạ trong chai, nghe rất vui tai.

Châu chấu đem về đổ vào xoong nước nóng để chúng không thể nhảy được nữa. Sau đó đem nhặt sạch cánh, chân, càng và râu nhưng nhớ để lại hai chiếc đùi xanh mướt vì đùi khi chín vừa giòn, béo. Rửa qua nước lạnh rồi mới đem chế biến món ăn. Món ngon nhất phải kể đến là châu chấu rang lá chanh.

Để châu chấu chín, không bị cháy thì đổ một chút nước cà muối vào đun lửa nhỏ. Nước cà muối sẽ giúp châu chấu ngấm mặn, khi chín sẽ giòn hơn. Khi nước cạn thì cho vào một chút muối, dầu ăn, đảo đều cho tới khi châu chấu vàng ươm. Cuối cùng cho vào đó một chút lá chanh thái nhỏ và một thìa đường. Đảo cho tới khi châu chấu chín vàng, có mùi thơm là được.

Châu chấu vừa giòn, thơm, lại beo béo, ngọt ngọt và bùi bùi, cảm giác vừa lạ vừa quen. Bữa cơm ngày mùa mà có thêm đĩa rau muống luộc và bát cà muối thì ngon phải biết.

Ngoài món rang, nhiều nơi còn chế biến châu chấu xào sả ớt và lẩu châu chấu. Món ăn châu chấu xào sả ớt. Châu chấu được xào thật khô vẫn bảo toàn độ giòn tan, béo ngậy rất riêng biệt của con châu chấu. So với món rang thì châu chấu xào vẫn mềm hơn.

Còn, món lẩu châu chấu là món ăn rất đặc biệt. Gần giống với lẩu cá lóc đồng, món lẩu châu chấu cũng cần các thứ phụ gia như lá rút, me chua, măng chua, tai chua, đậu rồng, rau ngổ… đặc biệt là không thể thiếu vị cay của ớt và gừng. Sau khi nước dùng nêm nếm đầy đủ phụ gia và sôi sùng sục mới cho châu chấu đã rang vàng từ đĩa vào. Con châu chấu vàng rộm ngấm nước chua, đặt trên một bát bún sợi to, ăn kèm với giá đậu, chuối chát cùng các loại rau thơm khác, thật sự là một món ăn khoái khẩu những ngày mùa gặt.

Thưởng thức món châu chấu rang lá chanh, bất cứ ai cũng không thể quên được hương vị đậm đà của nó, mà trong đó có cả hương vị thân quen của lúa mới cảm xúc nhớ quê da diết.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ Danviet và Afamily

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống