Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Thursday, 2 August 2012

Bản Áng thuộc xã Đông Sang, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Đi theo tuyến đường huyện lỵ khoảng 2km, sẽ đến khu đồi thông với hồ nước thơ mộng của bản Áng.

< Trên đường vào bản Áng, du khách đi qua những cánh đồng lúa xanh mướt.

Nơi đây gần thị trấn, đường giao thông thuận tiện, rất thích hợp để cắm trại, picnic. Du khách được hòa mình vào thiên nhiên thơ mộng của núi rừng trùng điệp, đắm chìm trong hương sắc văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Thái. Nếu đến bản Áng vào ngày Rằm tháng Giêng, du khách có thể tham gia lễ hội “Xe Chả” thật độc đáo.

Điều thú vị nhất của du lịch sinh thái bản Áng chính là ở rừng thông nằm cạnh hồ nước thơ mộng, tạo nên khung cảnh non nước yên bình của một bản làng vùng cao. Người ta ví hồ bản Áng như một tấm gương của thời tiết bốn mùa.

< Rừng thông xanh trải dài trên dãy đồi đất feralít đỏ nâu tạo nên cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp.

Sáng sớm, mặt hồ khoác lớp sương mỏng tinh khôi, trưa về, nắng ngập một màu vàng như đang tiết trời của mùa hạ nhưng khi chiều tà, sương kéo về, se lạnh chớm mùa đông. Đẹp nhất là những đêm trăng, bóng thông soi xuống mặt hồ, tiếng thông reo vi vu, vang vọng đâu đó tiếng sáo gọi bạn tình của các chàng trai người dân tộc.

< Bản Áng hiện lên với những ngôi nhà sàn truyền thống ẩn hiện bên tán cây xanh tươi.

Những ngôi nhà sàn của đồng bào dân tộc Thái ẩn hiện bên những tán cây xanh tươi. Ở bất cứ nẻo đường nào của Đông Sang, du khách đều cảm mến người dân bản Áng dung dị, hồn hậu.


< Điệu múa Xòe của người Thái.

Tại đây, nhiều phong tục, tập quán truyền thống được lưu giữ gắn với nhà sàn, những điệu Xòe thôi thúc mời gọi, những làn điệu dân ca cổ, những lễ hội “Mừng cơm mới” “Hết Chá…

< Thác Dải Yếm như báu vật giữa cao nguyên Mộc Châu, nằm trong cụm du lịch của Khu du lịch bản Áng.

< Lễ hội Hết Chá ở bản Áng rực rỡ sắc màu trang phục.

Đến với bản Áng, du khách được trải nghiệm đời sống sinh hoạt, ở nhà sàn truyền thống, nằm đệm bông gạo, thưởng thức những món ăn đặc sản của người Thái. Từ những sản vật núi rừng, người Thái ở bản Áng có thể chế biến 40-50 loại món ăn khác nhau. Trong men say của chum rượu cần, du khách nắm tay nhau cùng xòe, bên ánh lửa bập bùng giữa thiên nhiên hồ rừng thơ mộng.

< Trong lễ hội Hết Chá, mọi người cùng nhau nhảy múa, cầu mong vạn vật cỏ cây đâm chồi nảy lộc, vụ mới tốt tươi. 
Đến bản Áng, du khách được khám phá những nét độc đáo về trang phục của phụ nữ Thái.

< Ném còn, trò chơi dân gian được tổ chức vào dịp lễ hội Hết Chá.

Bản Áng còn hấp dẫn du khách ở trang phục phụ nữ Thái. Đó là chiếc khăn Piêu được tạo ra bằng cách thêu luồn chỉ màu trên mặt vải. Những sợi chỉ đủ màu sắc được phối màu với nhau rất hài hoà. Các cô gái Thái mặc dù không học qua một trường lớp nào về tạo hình, phối màu nhưng những chiếc khăn Piêu họ thêu ra đều được trang trí rất hài hoà.

< Tiếng trống rộn ràng, tiếng khèn dìu dặt mời gọi du khách đến với bản Áng.


Bản Áng hôm nay đang thay da đổi thịt, khách du lịch bốn phương về với bản Áng ngày một nhiều. Với những gì mà thiên nhiên ban tặng, từ rừng thông, hồ nước đến nét tài hoa của người Thái, hứa hẹn trong tương lai Khu du lịch bản Áng sẽ trở nên hấp dẫn, thu hút nhiều du khách hơn nữa.

Du lịch, GO! - Theo Bích Vân, Trịnh Văn Bộ (VNP)

Wednesday, 1 August 2012

Nếu như ngày nay, nhiều người Việt xa lạ với tục tắm truồng thì hồi đó nó rất phổ biến như một thói quen sinh hoạt hằng ngày mà không ai phải ngượng, cũng không có gì xấu hổ hay tục bậy cả. Tục này tùy từng vùng còn tồn tại cho đến cuối thế kỷ 20 mới mất dần.

Nhưng có gì lạ đâu? Đã tắm thì phải 'cởi' đồ, có điều sự lạ ở đây là cái 'cởi' trong nhà tắm khác cái 'cởi' ở nơi công cộng hay giữa cảnh trời bao la. Vậy thế nào là tục tắm tiên, tắm truồng?
Xưa kia, mỗi làng thường chỉ đào một giếng khơi lớn dùng để tắm giặt và một giếng sâu để lấy nước ăn, tất nhiên ngoài hai giếng chung này mỗi giáp hay mỗi gia đình nếu khá giả đều có thể đào giếng nhỏ riêng nhưng đa phần sinh hoạt của làng thường kề cận bên chợ làng hoặc giếng chung - tức là giếng làng...

< Vét giếng ăn của làng (ảnh xưa).

Cái giếng ăn của làng được thiết kể rất cẩn thận: từ đáy lên trên thành được xếp bằng những khối đá, gần lên miệng xây bằng gạch và vun cao thành rồi be bờ láng nền rất kỹ bằng vôi mật để nước trên bề mặt không ngấm xuống dưới.

Miệng giếng tuy nhỏ nhưng lòng giếng khá rộng. Hồi xưa, người ta đã biết xác định nguồn nước sạch vĩnh viễn là cần thiết nên có những giếng ăn sâu từ 7 đến 15 thước hoặc hơn nữa.

< Giếng khơi dùng tắm giặt, bây giờ người ta không xài nữa.

Còn giếng khơi dùng tắm rửa hay giặt giũ có thể làm theo hình tròn hay hình vuông có thành lan can thấp lại có bậc lên xuống giếng từ hai phía đối nhau.

Có khi người ta làm giếng hình tròn nhưng lan can lại xây vuông. Cứ đến chiều tối, khi trâu bò về chuồng rồi thì nhiều người dân ra giếng vệ sinh thân thể.

Đàn ông và đàn bà, từ già đến trẻ, chia làm hai bên đứng tắm. Họ có thể cởi trần truồng hoàn toàn, dùng gầu bằng mo cau hay bằng thùng gỗ cột dây thừng quăng xuống giếng múc nước dội lên người.

< Tập quán thường ngày nên người ta không thấy gì đáng mắc cỡ (ảnh xưa - triển lãm ảnh tại Hà Nội).

Trong thật tế thì người ta cũng làm hai nơi tắm có ngăn phên vách nhưng thường chủ yếu chỉ để... vắt quần áo chứ chả ai tắm trong đó mà cứ tự nhiên ngồi đứng đối diện nhau. Đàn ông thường tắm trần trụi hoàn toàn và nếu có liếc sang bên nữ cũng không có vấn đề gì.

Đàn bà từ trung niên tới già và trẻ con cũng tắm truồng, thanh niên thì người thì cởi áo rồi kéo váy trùm lên ngực là xong...

Vậy nhưng không ít cô cậu cứ 'một tòa thiên nhiên', chả cần phải che đậy làm gì do quan niệm xưa: chuyện tắm không mặc đồ bên giếng làng không phải chuyện gì khác thường cả.

< Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm, lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe... (thơ Hàn Mặc Tử - ảnh trên bưu thiếp xưa, triển lãm ảnh tại Hà Nội).

Đường kính của giếng khơi lớn này tới hàng chục thước nên hai bên đứng cách nhau khá xa. Tuy nhiên bên này, bên kia vẫn có thể vừa tắm vừa trò chuyện, cười nói... âu như cũng là lẽ thường tình.

Người ta cho rằng từ trẻ con đã nhìn thấy người lớn khỏa thân nên những ức chế tình dục có thể được giải tỏa, nhất là trong một xã hội rất khắt khe với việc ngoại tình hay quan hệ tình dục ngoài hôn nhân.
Vì vậy trong những vùng có tục tắm tiên, tắm truồng này hầu như không có những chuyện bậy bạ lăng nhăng.

< Tắm tiên giữa trời đất tại Nghĩa Lộ.

Những làng gần sông nước thì nơi bờ sông trở thành bãi tắm cộng đồng vào mỗi chiều tà, sau khi xong việc đồng áng. Nước lớn, người ta cởi áo quần vắt trên bờ rồi xuống sông hòa mình với dòng nước. Mùa cạn, mực nước xuống thấp, họ cứ thế tồng ngồng xuống bậc múc nước lên bờ dội tắm, xem đó là việc tự nhiên, ai cũng thế.

Năm 1944, người chú họ xa của tôi rời Hà Nội về vùng xa Phú Thọ dạy học trường làng và ở nhờ nhà người quen cũ. Lúc ấy, 'cụ chú' mới chỉ là một thanh niên mặt mày sáng sủa vừa tròn 23 cái xuân xanh (ông cụ vừa mất năm rồi).

Làng quê hẻo lánh thưa thớt dân, lúp xúp những mái nhà giữa chập chùng đồi núi. Chiều ra đứng cạnh cửa sổ, ông giật mình vì thấy chị chủ nhà đứng trần trụi, không mảnh vải che thân bên giếng, tay thoăng thoắt kéo nước lên dội tắm ào ào. Ông ngại ngần lật đật quay ngoắc vào, cho rằng do chị nhiều tuổi (thật ra chị mới ngoài ba mươi), đã có chồng con nên không cần giữ kẻ... thành ra cứ tự nhiên tắm táp hay dám chừng do tính tình chị ta... gàn dở!

< Tắm tiên: một tục lệ phóng khoáng đang mất dần...

Giấc chập choạng tối, ông ở trần mặc quần cộc ra giếng. Dội nước được dăm phút thì thấy cô con gái tuổi chừng đôi tám (ngày xưa, từng này tuổi là chuẩn bị về nhà chồng) con gái lớn của chị chủ nhà vắt khăn ra giếng tắm.

Thấy ông, cô gái trố mắt ngạc nhiên hỏi 'sao chú tắm mà... mặc quần?'. Rồi cô gái thật tự nhiên thoát y hết cả, vắt đồ lên dàn tre phơi gần đó và múc nước dội thật vô tư. Tay cô kỳ cọ, miệng luyên thuyên hỏi đủ thứ chuyện thành thị mặc cho ông trong lòng ngượng chín người.

< Thiếu nữ tắm trần thi thoảng vẫn nhìn thấy ở các bản làng.

Hóa ra tập quán bao đời nay ở nơi đó vẫn vậy: các cô có thể ngại ngùng đỏ mặt khi trai làng tán tỉnh nhưng tắm truồng ngoài giếng trong vườn nhà lại là chuyện đương nhiên như ai cũng phải thế, chả ai săm soi áy náy gì!

Ở miền núi, nơi có nguồn nước chảy ra thành vũng lớn tự nhiên có cây mọc hay đá chắn làm đôi bên là trở thành bến tắm, nam nữ cứ trần trụi xuống hòa mình giữa dòng nước theo bên của mình. Có bản thì kín đáo hơn, các cô xuống nước đến đâu thì cởi đến đó, chiếc váy dài nâng dần lên theo cơ thể, rồi đội lên đầu hay đặt trên các hòn đá.

Đôi khi cả bản tắm chung một con suối dài thì đoạn trên phía thượng nguồn nhường cho phụ nữ, đoạn dưới là cho đàn ông. Nếu ít người thì trai gái có thể tắm cùng trong một đoạn, vẫn trao đổi câu chuyện nương rẫy bình thường nhưng tuyệt đối người nam không đụng chạm đến người nữ vì sẽ bị bản làng trừng phạt nặng lắm.

< Tiền nhân vẫn tắm thật vô tư (ảnh xưa trong triển lãm ảnh HN).

Tập tục phóng khoáng nhưng trong sáng này đến những năm 1945 gần như biến mất ở Bắc Ninh, Hải Dương, Hải Phòng nhưng ở các vùng Thanh Hóa, Hòa Bình, Phú Thọ vẫn còn kéo dài đến những năm 1965.

Ở Nam Hà, tại một vùng sông nước: đến tận những năm 1990, các nữ sinh địa phương cứ chiều đến là kéo quần lụa trùm lên bộ ngực rồi nhảy ùm xuống sông, khi đã ở dưới nước thì cởi bỏ áo. Hiện ở Mai Châu có một vài nguồn suối tắm như vậy, tuy nhiên trừ những người già và trẻ con còn phần đông thanh niên bây giờ đã kín đáo hơn ngày xưa.

< Người ta dùng ống tre dẫn nước từ núi về nơi tắm giặt tại Tây nguyên (ảnh xưa).

Tắm tiên và tắm truồng có lẽ là tập tục rất lâu đời của thổ dân Nam Á xưa. Nhiều tộc Nam Á cổ xưa cả đàn ông để mình trần và chỉ quấn một cái váy. Đàn ông Việt cổ cũng ở trần cả ngày và đóng độc một chiếc khố, phụ nữ đôi khi cũng bận như vậy, nhất là trong các sắc tộc Tây Nguyên. Vài sắc tộc phụ nữ quấn ba khoang: váy, khăn che ngực và khăn đầu. Trong y phục Mường, ba khoang này trở thành khăn che đầu và váy với cạp cao có hai phần gọi là “Rang trên” và “Rang dưới” cộng thêm chiếc áo khóm ngắn. Khí hậu nóng ẩm mưa nhiều, rừng và sông hồ dày đặc, con người thuần phác sống tự do phóng khoáng, ngày nào cũng làm tiên chả vui sao?

Nhiều năm nay: nét văn hóa ấy mai một dần. 'Một đống' văn mình từ miền xuôi tràn về đến những bản làng xa xôi nhất với các kiểu cách trang sức, xúng xính áo quần như mốt thành thị.

Áo mông váy xòe vẫn còn đấy nhưng miệng các cô chăm chú liếng thoắt qua điện thoại di động, trai vùng cao săm soi lau rửa chiếc xe gắn máy mới cóng - nhà nhà cơi rộng, đường dẫn nước về cho từng căn khiến nhà tắm riêng của từng hộ cũng thành chốn không thể thiếu: nét văn hóa tắm tiên, tắm truồng ngày xưa phai nhạt gần như mất hẳn.

< Săn ảnh: cái chính là làm sao cho có được bức ảnh đẹp và cách gì để người xem ảnh đó dưới cái nhìn nghệ thuật và trong sáng...

Dân phượt lê lết mọi ngóc ngách vùng cao, vừa tìm kiếm bản sắc văn hóa - lại vừa thưởng lãm cảnh đẹp thiên nhiên đôi khi được tưởng thưởng bằng cảnh hiếm hoi của gái bản làng tắm ven suối... tạo ra những bức tranh đơn sơ nghệ thuật vô cùng nhưng những cảnh ấy bây giờ ít lắm.

Ít vì đại đa phần người ta về nhà tắm, ít vì người vùng xuôi cứ hay tò mò ngắm nghía, quay phim... rồi những cái đầu 'trục trặc' ở thành thị lại bàn tán linh tinh trong ý nghĩ đen tối, thui chột cả một nét văn hóa đẹp.

< Tắm truồng tại mó nước nóng Tú Lệ.

Vậy nên tục lệ trên dần phai nhòa, các cô gái cùng tắm tiên bên giếng làng giờ chỉ còn sót lại một đôi chốn ở Tây nguyên. Tắm tiên nơi công cộng cũng còn vương lại tại vài mó nước nóng ở Nghĩa Lộ, Tú Lệ...

Còn chuyện sơn nữ tắm tiên giữa rừng núi ngày hiếm hoi nên muốn có được một tác phẩm nhiếp ảnh đẹp để đời thì ngày nay các tay săn ảnh nghệ thuật phải dàn dựng cùng người mẫu. Ảnh có thể đẹp thật, thanh thoát cả lòng nhưng cái hồn thì làm sao có thể sánh được sự đơn sơ, và trong sáng không vương chút bụi trần của những cô gái khỏa trần dưới dòng suối giữa núi rừng vùng cao ngày ấy?

< Tắm tiên ở bãi sông Hồng.

Có lẽ Trời xui đất khiến: người thành thị bây giờ lại tự tìm đến cái thú tắm tiên, ví dụ như ở bãi sông Hồng, ở các bãi biển hoang sơ và những đảo vắng người...
Người ta chán văn minh hay người ta luyến tiếc muốn tìm lại một chút gì đó của thời xưa cũ?
Chả biết được...

Du lịch, GO! - Biên tập từ nguồn thông tin của Phan Cẩm Thượng, cụ Lương Văn Bằng, ảnh sưu tầm.
Nhiều du khách về thăm quê hương Bến Tre “Đồng khởi” đều có chung nhận xét: Đến đây mà không biết đất và người Giồng Trôm quả là một thiếu sót và thiệt thòi lớn bởi vùng đất linh thiêng huyền thoại này đang ẩn chứa biết bao câu chuyện rất lạ thường.

Vậy là chúng tôi về Giồng Trôm để cảm nhận sự đổi thay lạ lẫm trên vùng đất anh hùng một thời đạn bom, một thời khói lửa. Đường đi đã khá thuận lợi bởi không còn cảnh lụy phà Rạch Miểu như trước đây, thay vào đó là chiếc cầu kiên cố, cao sừng sững đang mênh mông bốn bề gió lộng.
Con đường thành phố Bến Tre xuôi về huyện Giồng Trôm như hẹp dần đi tạo cảm giác như đang chui vào cái rọ của cù lao Bảo. Gió từ biển Ba Tri thổi về phần phật. Dòng xe các loại cứ nối đuôi nhau. Hai bên đường bát ngát dừa xanh và ngan ngát mùi dầu dừa từ các cơ sở chế biến.

Anh bạn đi cùng lần đầu tiên đến đây khá bất ngờ khi bắt gặp những cái tên cầu thật ngộ nghĩnh như : Cá Lóc, Chẹt Sậy... Thuận đường chúng tôi đến thắp nhang ở khu tưởng niệm bà Ba Định – Thiếu tướng Nguyễn Thị Định trên khuôn viên rộng 1,5ha rất khang trang sạch đẹp và uy nghi, kinh phí xây dựng trên 5 tỷ đồng.

Người dân ở đây cho biết, du khách các nơi đến tham quan rất nhiều nhất là vào các dịp lễ tết, đây cũng là điểm để các trường tổ chức giáo dục truyền thống quê hương cho học sinh. Cạnh bên là ngôi trường THCS đồ sộ mang tên người con gái anh hùng xứ dừa Nguyễn Thị Định.

Đến đây du khách không thể bỏ qua việc tham quan khu mộ cổ còn lưu lại nhiều hiện vật điêu khắc, mỹ thuật rất có giá trị của lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng và nhiều câu chuyện kể rất hào hùng về người anh hùng áo vải này. Đây, khu di tích lịch sử tưởng niệm nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị toạ lạc tại xã Thạnh Phú Đông rất hoành tráng và uy nghiêm mở lòng đón khách gần xa đến tham quan, thưởng lãm, nghiền ngẫm những vần thơ yêu nước trở thành bút thép tuyên chiến với quân thù.

Thú vị lắm khi vừa tận mắt ngắm nhìn khung cảnh dịu mát thơ mộng xanh rờn của dừa vừa nghe kể chuyện về vùng đất huyền thoại nầy. Nào là chuyện xã Thạnh Phú Đông có đến 422 liệt sỹ, còn thương binh, gia đình có công với nước thì không kể xiết. Nào là chuyện bà “Ba Định” làm nên cuộc Đồng Khởi đi vào huyền thoại với đội quân tóc dài năm 1960; đây, Trung tướng Đồng Văn Cống làm Mỹ ngụy khiếp kinh trên chiến trường miền Nam; đất thiêng này còn là nơi sinh ra Đại tướng Lê Văn Dũng nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng, và còn biết bao tướng lĩnh, cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước.

Đến Giồng Trôm, du khách còn được hiểu thêm về câu tục ngữ dân gian “bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc”, hai làng nghề truyền thống này xuất hiện cả trăm năm nay, là niềm tự hào của người dân nơi đây, hiện nay đang phát triển rất mạnh tạo thương hiệu và uy tín trên thị trường trong và ngoài nước.

Cạnh đó chắc chắn bạn sẽ được chiêu đãi bữa cơm “đặc biệt” với ba món ăn rất “đặc chủng” của Giồng Trôm là: mắm còng trộn khóm, tép rang dừa và cháo sò kèm với mấy chai rượu Phú Lễ chính hiệu ngâm chuối hột.

Đa số du khách ăn xong phải mua hàng chục hủ mắm còng làm quà cho bè bạn bởi hương vị thơm ngon không đâu có được. Xin mời bạn xuống xuồng “ bảy lá” để được len lỏi, lạc lối trong rừng dừa bạt ngàn xanh thẫm, được uống nước dừa xiêm mát tận đáy lòng, được ngắm nhìn những cô gái xứ dừa mặc áo bà ba tóc dài bay trong gió trở thành cung bậc thanh âm trong bài hát của nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý ‘‘Dáng đứng Bến Tre”.

Giồng Trôm còn là điểm lý tưởng để rất nhiều nhà làm phim, các đoàn nghệ thuật chọn cảnh quay bởi sự hiền hòa, chân chất mang đậm nét thiên nhiên chưa mai một. Không kỳ thú sao được với những con sông rất đẹp và nên thơ uốn khúc dưới những rặng dừa xanh ngan ngát.

Không lý tưởng sao được trong không khí man mác nét uy thiêng cổ kính của những di tích lịch sử mà hồn người xưa còn vương vấn đâu đây đang hòa nhịp hối hả dựng xây quê hương sau tháng ngày khó khăn gian khổ.

Không bất ngờ sao được khi mỗi con người nơi đây thật giản dị, chân chất, thiệt thà nhưng kể chuyện quê nhà đánh giặc thì giòn như “bắp nướng”.

Du lịch, GO! - Theo Tô Phục Hưng (Báo Du Lịch), internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống