Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Thursday, 2 August 2012

Đèo Dran ở Lâm Đồng nổi tiếng thách thức người cầm lái. Đường đèo quanh co, khúc khuỷu, một bên là núi cao, một bên là vực sâu thăm thẳm khiến con đường vô cùng hiểm trở buộc người cầm lái phải thật sự tỉnh táo. Nhưng đã một lần đi qua con đèo này rồi thì nhiều người lại cứ “say”: say những đường cua ngoằn ngoèo, say cả cảnh vật thiên nhiên tuyệt mỹ...

Dran cũng là tên của một thị trấn thuộc huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Đèo Dran nằm ở độ cao khoảng 1.500 mét so với mực nước biển, cao hơn thành phố Đà Lạt. Khu vực này được biết đến lâu rồi bởi là nơi đặt chân của bác sĩ Yersin thử nghiệm trồng cây ký ninh trị bệnh sốt rét sau khi đã trồng ở Hòn Bà-Nha Trang.

Trước đây, đèo Dran nằm trên tuyến đường chính của Đà Lạt nối ra biển Đông trên đất Phan Rang, qua đèo Ngoạn Mục. Sau đó, có một tuyến đường khác mở ra thay cho con đường này ít hiểm trở hơn.

Từ đó Dran trở nên vắng vẻ. Có lẽ yếu tố này đã giúp Dran giữ được nguyên vẹn hình ảnh một thảo nguyên mênh mông và thơ mộng như thuở ban đầu khi có người đặt chân đến đây để trồng trọt, sinh sống...

Để đến được Dran du khách phải trải qua con đường quanh co uốn khúc của con đèo. Từ trung tâm thành phố Đà Lạt, du khách theo đường của những biệt thự đẹp đi hướng Trại Mát, nơi có nhiều danh thắng đẹp. Qua khỏi Trại Mát, con đường khá vắng vẻ, bạt ngàn rừng thông. Đèo Dran dài chỉ khoảng 10 cây số, nhưng đủ sức tạo cho khách nhiều cung bậc cảm giác.

Những lúc thời tiết trong, ít sương mù, người cầm lái cũng phải căng mắt và tỉnh táo để vượt qua những đoạn hiểm trở, những khúc cua hẹp. Nhưng lộ trình qua đèo giúp du khách có thể chiêm ngưỡng được những cảnh đẹp tuyệt vời luôn biến đổi theo những vị trí nào đó trên đường.

Phía sau bạn con đường quanh co ẩn hiện trong bạt ngàn màu xanh rừng thông tạo một cảm giác cực khoái. Vượt chỉ mười cây số thôi nhưng làm khách mất hàng giờ bởi vừa vượt đèo vừa ngắm cảnh, chụp ảnh.

Rừng thông bạt ngàn, già cỗi như có tự bao giờ chìm lẩn khuất trong mây. Du khách có thể “sờ” được mây và cả áng sương bởi mây và sương luôn bất chợt hiện ra lúc ở giữa lưng chừng đèo, lúc ở đỉnh đèo... như muốn ôm bạn vào lòng. Cứ mỗi km vượt đèo Dran, bạn như đang đi thẳng vào xứ sở ôn đới, bởi nhiệt độ thay đổi rất nhanh chóng, chẳng bao lâu bạn chìm trong khí hậu lạnh mát của Đà Lạt.

Suốt con đường vắng vẻ mà dường như chỉ có ta với thiên nhiên hoang dã, du khách dễ mềm lòng trước phong cảnh hữu tình. Rừng thông chập chùng trên những ngọn đồi thấp, núi cao. Đâu đâu cũng một màu xanh của những hàng cây thẳng đứng.

Có những lúc bạn phải thót tim vì cung đường quá hiểm trở nhưng không ít lần bạn cũng thót tim vì thiên nhiên quá đẹp. Đó là cảm giác khi chinh phục đèo Dran, tìm về một miền đất lịch sử, mở màn cho cuộc chinh phục cao nguyên Lang Bian nổi tiếng này. Dran có thể coi là điểm đến của những người yêu thảo nguyên xanh, yêu cảm giác “say đèo”.

Xung quanh đèo Dran là những ngọn đồi trồng nhiều loại cây đặc sản và đặc biệt là trà. Tuyệt nhất là đồi trà bậc thang ở gần trung tâm thị trấn Dran. Một vạt đồi nằm cặp con đường chia thành những luống ngay ngắn băng xuống chân đồi. Phía bên kia, một ngọn đồi khác tiếp nối bằng những luống trà bậc thang như ruộng ở Tây Bắc. Từ chân đồi, những bậc thang lại chất chồng lên nhau đến đỉnh đồi, tưởng chừng có thể chạm mây cao. Du khách phải mất rất nhiều thời gian thưởng ngoạn đồi trà này.

Được biết trà ở đây được trồng rất sớm. Ngay sau khi bác sĩ Yersin đến đây thì cây trà cũng theo chân người Pháp đến để mở những đồn điền rộng lớn bên cạnh cây cao su và cà phê. Ngày nay, những cây trà trăm năm tuổi vẫn còn hiện hữu làm chứng nhân cho sự ra đời của một nghề truyền thống của cư dân.

Dran hiện nay trở thành điểm đến không thể thiếu của người yêu cao nguyên Lang Bian. Mùa đông, Dran sở hữu cái lạnh dưới 5OC. Mây và sương dường như bao phủ Dran suốt cả ngày. Du khách có thể nghịch mây thỏa thích.

Mùa đông, rất nhiều du khách lên Đà Lạt rồi vội vã đến Dran để thưởng thức thời tiết giá lạnh, đứng giữa trời mây. Gió lồng lộng giữa mây ngàn, du khách như chìm trong biển mây và sương lạnh buốt. Mùa đông Dran lạnh tê tái nhưng du khách lại thấy thích thú...

Không chỉ có mùa đông lạnh giá, du khách có thể tìm đến Dran mà bất kỳ thời gian nào trong năm để trải nghiệm...
Hầu hết cư dân ở vùng đất này đều sống trong những ngôi nhà làm bằng gỗ thông nghe như nhựa thông tỏa mùi ấm áp. Chiều sâu của Dran là bất tận như đỉnh Langbian huyền diệu, như những ngọn gió phóng túng thổi ào ạt, bất tận trên cao nguyên huyền bí, ẩn chứa những điều hư huyền nhưng rất thực.

Du lịch, GO! - Theo báo Cần Thơ và nhiều nguồn tin ảnh khác
Bản Áng thuộc xã Đông Sang, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Đi theo tuyến đường huyện lỵ khoảng 2km, sẽ đến khu đồi thông với hồ nước thơ mộng của bản Áng.

< Trên đường vào bản Áng, du khách đi qua những cánh đồng lúa xanh mướt.

Nơi đây gần thị trấn, đường giao thông thuận tiện, rất thích hợp để cắm trại, picnic. Du khách được hòa mình vào thiên nhiên thơ mộng của núi rừng trùng điệp, đắm chìm trong hương sắc văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Thái. Nếu đến bản Áng vào ngày Rằm tháng Giêng, du khách có thể tham gia lễ hội “Xe Chả” thật độc đáo.

Điều thú vị nhất của du lịch sinh thái bản Áng chính là ở rừng thông nằm cạnh hồ nước thơ mộng, tạo nên khung cảnh non nước yên bình của một bản làng vùng cao. Người ta ví hồ bản Áng như một tấm gương của thời tiết bốn mùa.

< Rừng thông xanh trải dài trên dãy đồi đất feralít đỏ nâu tạo nên cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp.

Sáng sớm, mặt hồ khoác lớp sương mỏng tinh khôi, trưa về, nắng ngập một màu vàng như đang tiết trời của mùa hạ nhưng khi chiều tà, sương kéo về, se lạnh chớm mùa đông. Đẹp nhất là những đêm trăng, bóng thông soi xuống mặt hồ, tiếng thông reo vi vu, vang vọng đâu đó tiếng sáo gọi bạn tình của các chàng trai người dân tộc.

< Bản Áng hiện lên với những ngôi nhà sàn truyền thống ẩn hiện bên tán cây xanh tươi.

Những ngôi nhà sàn của đồng bào dân tộc Thái ẩn hiện bên những tán cây xanh tươi. Ở bất cứ nẻo đường nào của Đông Sang, du khách đều cảm mến người dân bản Áng dung dị, hồn hậu.


< Điệu múa Xòe của người Thái.

Tại đây, nhiều phong tục, tập quán truyền thống được lưu giữ gắn với nhà sàn, những điệu Xòe thôi thúc mời gọi, những làn điệu dân ca cổ, những lễ hội “Mừng cơm mới” “Hết Chá…

< Thác Dải Yếm như báu vật giữa cao nguyên Mộc Châu, nằm trong cụm du lịch của Khu du lịch bản Áng.

< Lễ hội Hết Chá ở bản Áng rực rỡ sắc màu trang phục.

Đến với bản Áng, du khách được trải nghiệm đời sống sinh hoạt, ở nhà sàn truyền thống, nằm đệm bông gạo, thưởng thức những món ăn đặc sản của người Thái. Từ những sản vật núi rừng, người Thái ở bản Áng có thể chế biến 40-50 loại món ăn khác nhau. Trong men say của chum rượu cần, du khách nắm tay nhau cùng xòe, bên ánh lửa bập bùng giữa thiên nhiên hồ rừng thơ mộng.

< Trong lễ hội Hết Chá, mọi người cùng nhau nhảy múa, cầu mong vạn vật cỏ cây đâm chồi nảy lộc, vụ mới tốt tươi. 
Đến bản Áng, du khách được khám phá những nét độc đáo về trang phục của phụ nữ Thái.

< Ném còn, trò chơi dân gian được tổ chức vào dịp lễ hội Hết Chá.

Bản Áng còn hấp dẫn du khách ở trang phục phụ nữ Thái. Đó là chiếc khăn Piêu được tạo ra bằng cách thêu luồn chỉ màu trên mặt vải. Những sợi chỉ đủ màu sắc được phối màu với nhau rất hài hoà. Các cô gái Thái mặc dù không học qua một trường lớp nào về tạo hình, phối màu nhưng những chiếc khăn Piêu họ thêu ra đều được trang trí rất hài hoà.

< Tiếng trống rộn ràng, tiếng khèn dìu dặt mời gọi du khách đến với bản Áng.


Bản Áng hôm nay đang thay da đổi thịt, khách du lịch bốn phương về với bản Áng ngày một nhiều. Với những gì mà thiên nhiên ban tặng, từ rừng thông, hồ nước đến nét tài hoa của người Thái, hứa hẹn trong tương lai Khu du lịch bản Áng sẽ trở nên hấp dẫn, thu hút nhiều du khách hơn nữa.

Du lịch, GO! - Theo Bích Vân, Trịnh Văn Bộ (VNP)

Wednesday, 1 August 2012

Nếu như ngày nay, nhiều người Việt xa lạ với tục tắm truồng thì hồi đó nó rất phổ biến như một thói quen sinh hoạt hằng ngày mà không ai phải ngượng, cũng không có gì xấu hổ hay tục bậy cả. Tục này tùy từng vùng còn tồn tại cho đến cuối thế kỷ 20 mới mất dần.

Nhưng có gì lạ đâu? Đã tắm thì phải 'cởi' đồ, có điều sự lạ ở đây là cái 'cởi' trong nhà tắm khác cái 'cởi' ở nơi công cộng hay giữa cảnh trời bao la. Vậy thế nào là tục tắm tiên, tắm truồng?
Xưa kia, mỗi làng thường chỉ đào một giếng khơi lớn dùng để tắm giặt và một giếng sâu để lấy nước ăn, tất nhiên ngoài hai giếng chung này mỗi giáp hay mỗi gia đình nếu khá giả đều có thể đào giếng nhỏ riêng nhưng đa phần sinh hoạt của làng thường kề cận bên chợ làng hoặc giếng chung - tức là giếng làng...

< Vét giếng ăn của làng (ảnh xưa).

Cái giếng ăn của làng được thiết kể rất cẩn thận: từ đáy lên trên thành được xếp bằng những khối đá, gần lên miệng xây bằng gạch và vun cao thành rồi be bờ láng nền rất kỹ bằng vôi mật để nước trên bề mặt không ngấm xuống dưới.

Miệng giếng tuy nhỏ nhưng lòng giếng khá rộng. Hồi xưa, người ta đã biết xác định nguồn nước sạch vĩnh viễn là cần thiết nên có những giếng ăn sâu từ 7 đến 15 thước hoặc hơn nữa.

< Giếng khơi dùng tắm giặt, bây giờ người ta không xài nữa.

Còn giếng khơi dùng tắm rửa hay giặt giũ có thể làm theo hình tròn hay hình vuông có thành lan can thấp lại có bậc lên xuống giếng từ hai phía đối nhau.

Có khi người ta làm giếng hình tròn nhưng lan can lại xây vuông. Cứ đến chiều tối, khi trâu bò về chuồng rồi thì nhiều người dân ra giếng vệ sinh thân thể.

Đàn ông và đàn bà, từ già đến trẻ, chia làm hai bên đứng tắm. Họ có thể cởi trần truồng hoàn toàn, dùng gầu bằng mo cau hay bằng thùng gỗ cột dây thừng quăng xuống giếng múc nước dội lên người.

< Tập quán thường ngày nên người ta không thấy gì đáng mắc cỡ (ảnh xưa - triển lãm ảnh tại Hà Nội).

Trong thật tế thì người ta cũng làm hai nơi tắm có ngăn phên vách nhưng thường chủ yếu chỉ để... vắt quần áo chứ chả ai tắm trong đó mà cứ tự nhiên ngồi đứng đối diện nhau. Đàn ông thường tắm trần trụi hoàn toàn và nếu có liếc sang bên nữ cũng không có vấn đề gì.

Đàn bà từ trung niên tới già và trẻ con cũng tắm truồng, thanh niên thì người thì cởi áo rồi kéo váy trùm lên ngực là xong...

Vậy nhưng không ít cô cậu cứ 'một tòa thiên nhiên', chả cần phải che đậy làm gì do quan niệm xưa: chuyện tắm không mặc đồ bên giếng làng không phải chuyện gì khác thường cả.

< Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm, lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe... (thơ Hàn Mặc Tử - ảnh trên bưu thiếp xưa, triển lãm ảnh tại Hà Nội).

Đường kính của giếng khơi lớn này tới hàng chục thước nên hai bên đứng cách nhau khá xa. Tuy nhiên bên này, bên kia vẫn có thể vừa tắm vừa trò chuyện, cười nói... âu như cũng là lẽ thường tình.

Người ta cho rằng từ trẻ con đã nhìn thấy người lớn khỏa thân nên những ức chế tình dục có thể được giải tỏa, nhất là trong một xã hội rất khắt khe với việc ngoại tình hay quan hệ tình dục ngoài hôn nhân.
Vì vậy trong những vùng có tục tắm tiên, tắm truồng này hầu như không có những chuyện bậy bạ lăng nhăng.

< Tắm tiên giữa trời đất tại Nghĩa Lộ.

Những làng gần sông nước thì nơi bờ sông trở thành bãi tắm cộng đồng vào mỗi chiều tà, sau khi xong việc đồng áng. Nước lớn, người ta cởi áo quần vắt trên bờ rồi xuống sông hòa mình với dòng nước. Mùa cạn, mực nước xuống thấp, họ cứ thế tồng ngồng xuống bậc múc nước lên bờ dội tắm, xem đó là việc tự nhiên, ai cũng thế.

Năm 1944, người chú họ xa của tôi rời Hà Nội về vùng xa Phú Thọ dạy học trường làng và ở nhờ nhà người quen cũ. Lúc ấy, 'cụ chú' mới chỉ là một thanh niên mặt mày sáng sủa vừa tròn 23 cái xuân xanh (ông cụ vừa mất năm rồi).

Làng quê hẻo lánh thưa thớt dân, lúp xúp những mái nhà giữa chập chùng đồi núi. Chiều ra đứng cạnh cửa sổ, ông giật mình vì thấy chị chủ nhà đứng trần trụi, không mảnh vải che thân bên giếng, tay thoăng thoắt kéo nước lên dội tắm ào ào. Ông ngại ngần lật đật quay ngoắc vào, cho rằng do chị nhiều tuổi (thật ra chị mới ngoài ba mươi), đã có chồng con nên không cần giữ kẻ... thành ra cứ tự nhiên tắm táp hay dám chừng do tính tình chị ta... gàn dở!

< Tắm tiên: một tục lệ phóng khoáng đang mất dần...

Giấc chập choạng tối, ông ở trần mặc quần cộc ra giếng. Dội nước được dăm phút thì thấy cô con gái tuổi chừng đôi tám (ngày xưa, từng này tuổi là chuẩn bị về nhà chồng) con gái lớn của chị chủ nhà vắt khăn ra giếng tắm.

Thấy ông, cô gái trố mắt ngạc nhiên hỏi 'sao chú tắm mà... mặc quần?'. Rồi cô gái thật tự nhiên thoát y hết cả, vắt đồ lên dàn tre phơi gần đó và múc nước dội thật vô tư. Tay cô kỳ cọ, miệng luyên thuyên hỏi đủ thứ chuyện thành thị mặc cho ông trong lòng ngượng chín người.

< Thiếu nữ tắm trần thi thoảng vẫn nhìn thấy ở các bản làng.

Hóa ra tập quán bao đời nay ở nơi đó vẫn vậy: các cô có thể ngại ngùng đỏ mặt khi trai làng tán tỉnh nhưng tắm truồng ngoài giếng trong vườn nhà lại là chuyện đương nhiên như ai cũng phải thế, chả ai săm soi áy náy gì!

Ở miền núi, nơi có nguồn nước chảy ra thành vũng lớn tự nhiên có cây mọc hay đá chắn làm đôi bên là trở thành bến tắm, nam nữ cứ trần trụi xuống hòa mình giữa dòng nước theo bên của mình. Có bản thì kín đáo hơn, các cô xuống nước đến đâu thì cởi đến đó, chiếc váy dài nâng dần lên theo cơ thể, rồi đội lên đầu hay đặt trên các hòn đá.

Đôi khi cả bản tắm chung một con suối dài thì đoạn trên phía thượng nguồn nhường cho phụ nữ, đoạn dưới là cho đàn ông. Nếu ít người thì trai gái có thể tắm cùng trong một đoạn, vẫn trao đổi câu chuyện nương rẫy bình thường nhưng tuyệt đối người nam không đụng chạm đến người nữ vì sẽ bị bản làng trừng phạt nặng lắm.

< Tiền nhân vẫn tắm thật vô tư (ảnh xưa trong triển lãm ảnh HN).

Tập tục phóng khoáng nhưng trong sáng này đến những năm 1945 gần như biến mất ở Bắc Ninh, Hải Dương, Hải Phòng nhưng ở các vùng Thanh Hóa, Hòa Bình, Phú Thọ vẫn còn kéo dài đến những năm 1965.

Ở Nam Hà, tại một vùng sông nước: đến tận những năm 1990, các nữ sinh địa phương cứ chiều đến là kéo quần lụa trùm lên bộ ngực rồi nhảy ùm xuống sông, khi đã ở dưới nước thì cởi bỏ áo. Hiện ở Mai Châu có một vài nguồn suối tắm như vậy, tuy nhiên trừ những người già và trẻ con còn phần đông thanh niên bây giờ đã kín đáo hơn ngày xưa.

< Người ta dùng ống tre dẫn nước từ núi về nơi tắm giặt tại Tây nguyên (ảnh xưa).

Tắm tiên và tắm truồng có lẽ là tập tục rất lâu đời của thổ dân Nam Á xưa. Nhiều tộc Nam Á cổ xưa cả đàn ông để mình trần và chỉ quấn một cái váy. Đàn ông Việt cổ cũng ở trần cả ngày và đóng độc một chiếc khố, phụ nữ đôi khi cũng bận như vậy, nhất là trong các sắc tộc Tây Nguyên. Vài sắc tộc phụ nữ quấn ba khoang: váy, khăn che ngực và khăn đầu. Trong y phục Mường, ba khoang này trở thành khăn che đầu và váy với cạp cao có hai phần gọi là “Rang trên” và “Rang dưới” cộng thêm chiếc áo khóm ngắn. Khí hậu nóng ẩm mưa nhiều, rừng và sông hồ dày đặc, con người thuần phác sống tự do phóng khoáng, ngày nào cũng làm tiên chả vui sao?

Nhiều năm nay: nét văn hóa ấy mai một dần. 'Một đống' văn mình từ miền xuôi tràn về đến những bản làng xa xôi nhất với các kiểu cách trang sức, xúng xính áo quần như mốt thành thị.

Áo mông váy xòe vẫn còn đấy nhưng miệng các cô chăm chú liếng thoắt qua điện thoại di động, trai vùng cao săm soi lau rửa chiếc xe gắn máy mới cóng - nhà nhà cơi rộng, đường dẫn nước về cho từng căn khiến nhà tắm riêng của từng hộ cũng thành chốn không thể thiếu: nét văn hóa tắm tiên, tắm truồng ngày xưa phai nhạt gần như mất hẳn.

< Săn ảnh: cái chính là làm sao cho có được bức ảnh đẹp và cách gì để người xem ảnh đó dưới cái nhìn nghệ thuật và trong sáng...

Dân phượt lê lết mọi ngóc ngách vùng cao, vừa tìm kiếm bản sắc văn hóa - lại vừa thưởng lãm cảnh đẹp thiên nhiên đôi khi được tưởng thưởng bằng cảnh hiếm hoi của gái bản làng tắm ven suối... tạo ra những bức tranh đơn sơ nghệ thuật vô cùng nhưng những cảnh ấy bây giờ ít lắm.

Ít vì đại đa phần người ta về nhà tắm, ít vì người vùng xuôi cứ hay tò mò ngắm nghía, quay phim... rồi những cái đầu 'trục trặc' ở thành thị lại bàn tán linh tinh trong ý nghĩ đen tối, thui chột cả một nét văn hóa đẹp.

< Tắm truồng tại mó nước nóng Tú Lệ.

Vậy nên tục lệ trên dần phai nhòa, các cô gái cùng tắm tiên bên giếng làng giờ chỉ còn sót lại một đôi chốn ở Tây nguyên. Tắm tiên nơi công cộng cũng còn vương lại tại vài mó nước nóng ở Nghĩa Lộ, Tú Lệ...

Còn chuyện sơn nữ tắm tiên giữa rừng núi ngày hiếm hoi nên muốn có được một tác phẩm nhiếp ảnh đẹp để đời thì ngày nay các tay săn ảnh nghệ thuật phải dàn dựng cùng người mẫu. Ảnh có thể đẹp thật, thanh thoát cả lòng nhưng cái hồn thì làm sao có thể sánh được sự đơn sơ, và trong sáng không vương chút bụi trần của những cô gái khỏa trần dưới dòng suối giữa núi rừng vùng cao ngày ấy?

< Tắm tiên ở bãi sông Hồng.

Có lẽ Trời xui đất khiến: người thành thị bây giờ lại tự tìm đến cái thú tắm tiên, ví dụ như ở bãi sông Hồng, ở các bãi biển hoang sơ và những đảo vắng người...
Người ta chán văn minh hay người ta luyến tiếc muốn tìm lại một chút gì đó của thời xưa cũ?
Chả biết được...

Du lịch, GO! - Biên tập từ nguồn thông tin của Phan Cẩm Thượng, cụ Lương Văn Bằng, ảnh sưu tầm.

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống