Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Sunday, 23 September 2012

4 mùa mây trắng bao quanh và phủ kín thung lũng nơi đây. Những màu sắc hư hư thực thực nhuốm lên vùng đất này.
Thung lũng Mường Lống, thuộc huyện Kỳ Sơn, Nghệ An  bốn mùa mây trắng phủ kín. Nơi đây còn được ví là thủ phủ cây thuốc phiện một thời.
Thay màu tím của hoa anh túc là bạt ngàn màu trắng mận tam hoa và đào không hạt, quả là một cuộc cách mạng của chính quyền  địa phương đối với  bà con đồng bào Mông nơi mảnh đất xa xôi này.

Sau gần một ngày trời ròng rã chạy xe máy từ thị trấn Mường Xén (cách trung tâm TP Vinh hơn 300 cây số) chúng tôi đặt chân tới Cổng trời.

Để vào được Mường Lống, hay còn gọi là mường trăm tuổi. Lại còn phải vượt qua ngọn núi cheo leo đầy vách đá dựng đứng rất hiểm trở, đứng trên đỉnh cổng trời nhìn thốc xuống thung lũng,  Mường Lống chẳng nào khác một Sa Pa, hay Đà Lạt…

Ký ức Mường trăm tuổi

Anh Hờ Bá Lỳ, một đồng nghiệp người Mông cho biết, nhờ địa hình có độ cao như thế nên tại đây được đặt một trạm phát sóng truyền hình không những cho Mường Lống mà  còn cho cả đồng bào vùng biên giới như các xã Mỹ Lý, Huồi Tụ, Phà Đánh.

Ông Hờ Bá Chù, cán bộ địa phương kể: “Tên gọi Mường Lống có từ thuở sơ khai lập bản. 100% người dân Mường Lống đều  là dân tộc Mông. Cách đây hơn 100 năm, khi núi  đồi còn hoang vu, đường đi lại chưa có, bà  con phải dùng ngựa để gùi hàng.

Sau khi di cư sang nước bạn Lào trở về, ông nội của ông Hờ Bá Chù đã cùng người dân Mường Lống phát hiện mảnh đất này màu mỡ, khí hậu ôn hoà và địa hình biệt lập với bên ngoài bằng đồi núi bao quanh nên quyết định dừng chân khai hoang mở đất”.

Một thời, Mường Lống là thủ phủ cây thuốc phiện ở khu vực miền tây Nghệ An. Điều đặc biệt là, ở mường không mấy ai nghiện ma tuý. Ngày đó, nếu vào Mường Lống đúng mùa Xuân thì bốn phía nhuộm tím màu hoa anh túc. Thuốc phiện làm ra đều được đóng vào bao tải xếp lên lưng ngựa đưa ra trung tâm thị trấn Mường Xén nhập cho các “nậu” đem đi đâu không ai rõ.

Ông Và Bá Tểnh, nguyên Bí thư Đảng bộ xã Mường Lống nói, cả mấy đời nhà ông Tểnh trước đây sống chỉ biết dựa vào cây thuốc phiện. Khi trở thành lãnh đạo thủ phủ đồng bào Mông ở Mường Lống ông Tểnh vẫn còn trồng hàng chục héc ta thuốc phiện.

Ông Lầu Giống Cải, Chủ tịch UBND chỉ về thung lũng rộng hàng chục hecta mận tam hoa và đào không hạt của đồng bào Mông mà nói: “Trước kia nằm trên mảnh đất này toàn là cây thuốc phiện. Bà con trồng nhiều đến mức hết triền núi này nối tiếp dãy núi kia. Cứ mỗi dịp xuân về, Mường Lống lại tím trời hoa anh túc, còn bây giờ thay vào màu tím đó là màu trắng và màu hồng bạt ngàn của hoa  mận và hoa đào”.
Trong rừng mận còn xen lẫn sắc phục của thiếu nữ Mông đi du ngoạn, làm cho Mường Lống có một vẻ đẹp lãng mạn hiếm vùng núi nào ở miền Trung có được như thế.

Xa rồi cây thuốc phiện

Ông Lỳ Bá Chò, Bí thư Đảng ủy xã Mường Lống tâm sự: “Xóa bỏ cây thuốc  phiện, quả là một việc làm không dễ, khi mà loại cây này đã được trồng từ rất lâu và mang lại thu nhập cho người dân ở đây”.

Ông Chò nhớ lại,  vào khoảng cuối năm 1995, nhà nước ta bắt đầu có chủ trương xóa bỏ cây thuốc phiện, cấp trên chỉ đạo về, nhưng cán bộ Mường Lống đi tuyên truyền rất vất vả. Để  làm gương, ngày đó cán bộ địa phương phải đi đầu trong việc xóa bỏ.

Thấy cán bộ làm, dân cũng làm theo. Nhờ vậy, năm 1997, toàn  bộ diện tích cây thuốc phiện ở Mường Lống được triệt hạ và xóa sổ vĩnh viễn cho đến ngày hôm nay.

Xóa sổ xong cây thuốc phiện, bà con Mường Lống không biết lấy gì  sống, nhà nào chăn nuôi lợn, nuôi gà hoặc trâu bò  thì cũng chỉ đủ cái ăn. Mãi  đến năm 2000, giống mận tam hoa và đào không hạt mới được đưa về Mường Lống.

Khi được cán bộ cho biết từng vùng đất hợp với từng loại cây, chỗ trồng mận, chỗ khác trồng đào, chỗ trồng lúa nước... có người dân còn hỏi “đào, mận có ăn được không?”. Hai năm sau, đồi núi ngợp trắng mận tam hoa xen  lẫn với rừng đào màu hồng. Nếu đi vào đây đúng dịp mùa hoa nở thì chẳng khác nào  lạc vào bồng lai tiên cảnh.

Tuy nhiên, chỉ vài năm đầu sản phẩm của bà con bán được, bước sang năm thứ ba giá vận chuyển leo thang, đường đi lại khó khăn nên không ai vào Mường Lống bao tiêu sản phẩm nữa.
Không ít mùa thu hoạch, bà con chỉ biết đứng nhìn đào, mận rụng như sung. Năm nào được giá, một số hộ thu nhập được khoảng từ 5 đến 7 triệu đồng. Vài năm gần đây thu nhập không đáng kể.

Điều đáng nói, dẫu  cho cuộc sống của đồng bào Mông ở Mường Lống gặp nhiều khó khăn, nhưng bà con vẫn một  lòng tuân thủ chủ trương mới, không một gia đình nào tái trồng cây thuốc phiện.

Để chống chọi với cuộc sống khó khăn, dân bản đẩy mạnh chăn nuôi. Bình quân mỗi hộ gia đình nuôi hơn vài chục con trâu, bò và lợn đen. Dạo quanh hai bản Mường Lống 1 và Mường Lống 2, rất nhiều gia đình nhờ chăn nuôi giỏi mà có của ăn của để: Lầu Chìa Và, Hờ Bá Chù ở bản Mường Lống 2, Lầu Bá Giống, Và Chò Thái ở bản Mường Lống 1.

Ngoài ra, đến với Mường Lống hôm nay còn có món thịt gà đen, gà gô hay còn gọi là gà ác. Gia đình nào cũng nuôi rất nhiều gà, có nhà lên tới hàng trăm con. Nếu mấy năm về trước gọi Mường Lống là thủ phủ cây thuốc phiện thì bây giờ cũng có thể gọi là thủ phủ gà đen hay thủ phủ đào không hạt. Một cán bộ huyện ủy Kỳ Sơn nói vậy.

Tự hào người con Mường Lống

Mấy năm gần đây, người dân Mường Lống luôn lấy Anh hùng Và Bá Giải (SN 1975) ra để  làm tấm gương cho thế hệ trẻ noi theo. Nay Mường Lống lại có thêm một người con ưu tú trong học tập, đó chính là anh Xồng Bá Dìa (SN 1991), ở bản Mường Lống 1 vừa thi đỗ thủ khoa trường ĐH Y khoa Hà Nội.

Cả hai người con ưu tú của bản làng Mường Lống là hai tấm gương đối với thế hệ trẻ huyện biên giới rẻo cao Kỳ Sơn. Mặc dù hai chàng trai ở hai lĩnh vực và là hai thế hệ khác nhau, nhưng họ đều là người con dân tộc Mông, lớn lên với núi  rừng Mường Lống giống như con chim, con sóc...

Riêng Và Bá Giải, được sinh ra trong một gia đình gia giáo, ông nội từng làm cán bộ địa phương, bố nguyên là Bí thư Đảng ủy xã Mường Lống. Nhà 7 anh em, Và Bá Giải là con đầu, một số em sau đang theo học đại học và cao đẳng nay đã ra trường.

Trước khi về công tác ở Đồn biên phòng 551, anh từng là đội trưởng đội trinh sát của Đồn biên phòng 144. Chiều 26/7/2004, trong lúc truy kích tội phạm xâm nhập vào tuyến biên giới trái phép tại bản Huồi Sơn (thuộc xã Tam Hợp, huyện Tương Dương, Nghệ An) anh đã bị kẻ xấu tấn công và hy sinh trong lúc đang làm nhiệm vụ.

Còn đối với chàng thủ khoa Xồng Bá Dìa thì đây quả là một tấm gương nghèo vượt khó  vươn lên trong học tập chưa từng có ở huyện Kỳ Sơn. Bố mẹ đều người dân tộc Mông, nông dân chân chất.

Từ khi mới  lên lớp 6, Xồng Bá Dìa đã phải xa gia đình để ra trung tâm thị trấn Mường Xén theo học kiếm cái chữ. Lên cấp ba, Dìa được tuyển thẳng vào trường cấp ba Nội trú tỉnh Nghệ An. Một lần nữa cậu bé người Mông lại tiếp tục khăn gói xuống Vinh (cách Mường Lống 360 cây số) để đi học.

Dẫu cho cuộc sống khó khăn nhưng ba  năm học nơi phố thị, Dìa đã gặt hái được rất nhiều thành công. Ngoài thủ khoa (30 điểm) của trường ĐH Y khoa Hà Nội thì trước đó em còn đoạt giải Ba môn Toán ở kỳ thi học sinh giỏi tỉnh Nghệ An và kết quả học tập được xếp loại xuất sắc.

Mường Lống - Một Sapa giữa miền trung nắng gió

Du lịch, GO! - Theo 24h.com.vn, internet
Tại tỉnh Trà Vinh có một hòn non bộ được xây dựng cách đây nửa thế kỷ, từng được báo chí Sài Gòn lúc bấy giờ phong tặng là “Hòn giả sơn lớn nhất Nam kỳ lục tỉnh”.

Hòn non bộ nầy tọa lạc tại ấp Chòm Chuối, xã Phước Hưng, huyện Trà Cú, cách thị xã Trà Vinh chừng 21 cây số, trên quốc lộ 54. Đến khu vực nầy, hỏi “Hòn non” là người địa phương chỉ dẫn tận tình.
Trước kia, khoảng năm 2004, phía sau hòn non, cách quốc lộ 54 khoảng 5 mét là nền đất mọc đầy cỏ. Bây giờ nó đã được xây hàng rào kiên cố, gắn bảng “Dương gia chi mộ”. Giữa hàng rào và hòn non mọc đầy cây dại cao ngang gối. Cổng khóa chặt, hàng xóm cho biết người nhà chủ nhân hòn non là ông Tư Lành ở bên kia đường.

Ông Tư Lành tên thật là Dương Văn Lành. Dù tuổi đã cao (sinh năm 1924), nhưng ông vẫn nhớ khá chi tiết về việc xây dựng hòn non bộ nầy của gia tộc mình. Ông Tư Lành kể: Trước đây, khi bà cố ông, Nguyễn Thị Biên, qua đời, lúc ông mới lên 7, được an táng nơi đây. Vì việc an táng bà cố ông gần lộ, sợ xe cộ qua lại ồn ào ảnh hưởng tới phần mộ nên ông nội và chú út ông (Dương Văn Gồng) quyết định xây hòn non.

Đó là khi ông Tư Lành chừng 11, 12 tuổi (khoảng 1935-1936). Xi măng xây hòn non nhập từ Pháp về là loại được đựng trong những thùng bằng cây không như sau nầy đựng trong bao giấy. Công trình xây hòn non do thợ từ Bến Tre qua thực hiện, trong thời gian khoảng 3 năm mới hoàn thành. Hòn non cao khoảng 6 mét, bề dài khoảng 10 mét, rộng khoảng 6 mét. Hòn non có các con đường bậc thang dẫn lên cao, nơi có những hồ nước, những hang động, những chiếc cầu bắc ngang dòng suối... được tạo hình công phu, tỉ mỉ; trông thật hoành tráng, là dãy núi ngoạn mục giữa vùng đất rộng lớn của gia tộc họ Dương.

Gia tộc họ Dương nầy là người Tiều (Triều Châu, Quảng Đông, Trung Quốc) nên rất tin thuật phong thủy. Non bộ là nghệ thuật xây dựng, đưa mô hình thu nhỏ những ngọn núi to lớn ngoài tự nhiên vào trong các vườn cảnh để phục vụ không gian trong cuộc sống. Những nhà phong thủy đã dùng bí thuật sử dụng non bộ để ếm triệt hoặc phát huy dung mạch.

Để phát huy tối đa tác dụng của phong thủy trong nghĩa trang gia tộc họ Dương, ngoài việc xây hòn non người ta còn đào một hồ rộng đối diện, trồng sen. Theo phong thủy, việc nầy có ý nghĩa: gối đầu lên núi (hòn non, “giả sơn”), gác chân lên biển (hồ sen, “giả hải”). Đây là thuật phong thủy áp dụng cho các bậc đế vương, mà ông Gồng áp dụng, vừa là nơi an nghỉ tốt đẹp của người thân, còn giúp gia tộc họ Dương ngày một thịnh vượng. Vì “gối đầu” lên núi biểu trưng cho sự vững chãi và tư thế “mặt” nhìn và “gác chân” ra biển tượng trưng cho sự thịnh vượng.

Ông Dương Văn Gồng sanh năm Nhâm Thìn (1892), người địa phương hồi đó quen gọi là Hội đồng Gồng, là người giàu có, thừa điều kiện làm những việc to lớn, như xây hòn non cho gia tộc. Ngày mồng 6-5 Nhâm Thìn (1952), ông Dương Văn Gồng qua đời, được an táng bên trái bà Nguyễn Thị Biên. Sau đó, vợ ông Gồng là Nguyễn Thị Hiền qua đời, an táng bên phải bà Nguyễn Thị Biên.

Khi xây hòn non, khu đất gia đình họ Dương rộng tới 5.000 mét vuông. Những năm 1950, theo một số người cố cựu tại Trà Vinh, nhất là các lão làng ở xã Phước Hưng, thì có một vài tờ báo ở Sài Gòn lúc bấy giờ phong tặng nó là “Hòn giả sơn lớn nhất Nam kỳ lục tỉnh”. Còn bây giờ diện tích hòn non đã thu hẹp, nhà cửa hai bên lấn át nếu không quan sát kỹ sẽ chẳng thể nào phát hiện được. Cái ao sen sau nhiều năm không được chăm sóc, bị đất cát cỏ cây trùm lấp, giờ không còn nữa.

Con cháu nhà họ Dương cư trú tại mảnh đất nầy, ngoài ông Tư Lành còn có anh Dương Trung Nguyên, 42 tuổi, giáo viên, là cháu sơ của ông Dương Văn Hưng (ông cố của ông Tư Lành). Ông Hưng mất và an táng ở vàm Trà Vinh, năm 2007 bốc mộ hỏa thiêu và thủy táng ở sông Long Bình (Trà Vinh).

Không biết thuật phong thủy mà ông Gồng áp dụng cho “Dương gia chi mộ” kết quả ra sao, mà nhìn gia cảnh ông Tư Lành và anh Dương Trung Nguyên chẳng lấy gì sung túc. Có lẽ phát đạt nhất là số con cháu dòng họ Dương đang định cư tại Mỹ.

Du lịch, GO! - Theo Cúc Tần (Thời báo Kinh tế Sàigòn)
Tôi có thói quen cứ cách tuần là lên xe về Đồng Tháp thăm người thân. Đây là nơi tôi sinh ra và lớn lên với đầy ắp những kỷ niệm yêu thương tuổi ấu thơ. 

Tôi luôn nhớ đến bác Hai – người thích “lai rai” và có năng khiếu chế biến các món ăn. Hễ tôi về đến quê buổi sáng, chiều đến là bác rủ tôi ra đồng (hay vào vườn) săn bắt. Mỗi mùa có những thú săn bắt khác nhau, có khi là tát mương, tát đìa bắt cá, có khi đào hang bắt chuột đồng, bắt rắn ri voi, hổ hành...

Hôm rồi, tôi về quê cũng là lúc nước lũ tràn về phủ trắng cánh đồng. Bác Hai rủ tôi cùng đi dặm cù bắt chuột cho vui.

Đặc tính của lũ chuột đồng là khu trú vào hang, nay nước ngập sâu không còn chỗ dung thân; thế là chúng tìm đủ mọi cách lên gò cao trú ẩn, chúng tôi chỉ cần dùng tấm lưới rộng ra đồng bao quanh nơi gò, chừa một ngõ thoát và nơi ấy đặt một cái “xà di” (*) để đón chúng. Sau đó, ta dùng cây đập mạnh vào các bụi rậm để chúng hoảng hồn chạy thoát thân và chun vào rọ.

Chỉ trong vòng khoảng một tiếng, hai bác cháu “thu hoạch” hơn 20 chục con chuột đồng một cách dễ dàng. Sau khi mang chuột về nhà, tôi hỏi bác: “Có món gì “độc” không, chứ chuột xào lá cách, xào lăn, nướng, chiên hoài, ngán quá, bác ơi!”. Bác vui vẻ nói: “Cháu đừng lo, bác sẽ đãi cháu một món “bá phát”, đảm bảo không đụng hàng, cháu “tìm đỏ con mắt” nơi các nhà hàng ở thành phố không thấy đâu!”. Nghe bác nói một cách ỡm ờ, trí tò mò trong tôi càng thêm thôi thúc. Liền ngay sau đó, bác dẫn tôi xuống mé rạch và “thót” lên cây bần hái một nắm đọt non, và nhảy xuống trước sự ngạc nhiên của tôi.

Bần là loại cây dân dã đặc trưng của đồng bằng sông Cửu Long. Chúng mọc và phát triển nhanh trong mọi điều kiện môi trường và thời tiết khắc nghiệt (nước mặn lẫn nước ngọt) nơi bờ sông hay bãi biển. Bần ra hoa và kết trái vào cuối mùa hè và đầu mùa mưa. Tùy theo hình dạng và kích cỡ trái, người ta phân làm 2 loại: bần dĩa (trái to tròn như cái dĩa), bần ổi (quả nhỏ hơn bần dĩa).

Trong sách “Tự vị tiếng Việt miền Nam”, học giả Vương Hồng Sển viết: “Cây bần có lá xanh rất đẹp, ban đêm đom đóm đậu nhiều trông rất xinh. Có trái ăn với mắm sống rất ngon. Chúa Nguyễn Ánh được nếm qua rất hài lòng và ban cho tên chữ là thủy liễu”. Bần tuy là loại cây bình dị như thế nhưng có nhiều tác dụng trị liệu trong y học cũng như trong việc chế biến món ăn.

Theo y học hiện đại, trong trái bần có nhiều chất khoáng và các acid amin khác có tác dụng chống oxy hóa, nhuận trường, giải độc, làm lành các vết loét dạ dầy, giảm hấp thu đường, mỡ, có tác dụng hạ huyết áp… Theo y học dân gian, trái bần có tính mát, tác dụng tiêu viêm, giảm đau. Lá bần có vị chát, tác dụng cầm máu v.v… Còn trong việc ẩm thực, bần được các bà nội trợ miền Tây rất ưa chuộng trong việc chế biến món ăn như: bần dốt chấm mắm sặt, canh chua bần, bần chín giầm cá kho (hay thịt kho), lẫu cá bông lau nấu bần, mứt bần v.v…”.

Hôm nay, bác Hai đãi tôi món đọt bần xào chuột đồng. Trước hết, bác đập đầu cho chuột chết và ra sau hè lấy bó rơm thui chuột (cho cháy hết lông), dùng dao cắt đầu, chặt đuôi, mổ bụng, lột da… và moi bỏ tất cả bộ đồ lòng (trừ bộ gan) bỏ đi, rửa sạch, để ráo. Bác chặt chuột thành từng miếng vừa đũa gắp. Còn đọt bần, bác chọn những lá vừa ăn (không già cũng không non), loại bỏ lá sâu rửa sạch xắt sợi để ra rổ cho ráo.

Tiếp đến, bác ướp thịt chuột (đã sơ chế) với gia vị (muối + đường + bột ngọt + tiêu + củ hành tím xắt nhuyễn…) cho vừa khẩu vị và cho thịt chuột vào chảo phi mỡ tỏi thơm xào chín. Cuối cùng, cho đọt bần vào xào đều đến khi đọt bần ngã màu nâu sẫm, cho một ít hành lá xắt khúc vào, nhắc xuống múc ra dĩa cùng chén nước mắm tỏi ớt, và bác cũng không quên lấy chai “đế” trong tủ ra để “lai rai’.

Thật hạnh phúc và đầm ấm khi hai bác cháu cùng nhau “đối ẩm” với dĩa chuột đồng xào đọt bần thơm ngon và hấp dẫn dưới bóng cây râm mát trước sân nhà. Gắp một miếng thịt chuột đồng cùng đọt bần chấm vào chén nước mắm cho vào miệng nhại chầm chậm. Vị ngọt, thơm, béo của thịt chuột hòa lẫn vị chua nhẹ, chát chát của đọt bần… Thêm một cốc “đế” vào khiến câu chuyện thêm râm ran không dứt về đề tài con chuột đồng “phối ngẫu” quá tuyệt vời cùng đọt bần, món ăn mang đậm chất dân dã khó quên của cha ông thời mở cõi.

(*) Xà-di: Tên dụng cụ để bắt chuột. có dạng hình trụ, dài khoảng hơn 1 mét, đan bằng những thanh tre dài, chuốt mỏng, một đầu bịt kín, một đầu có những chiếc hom để chuột chui vào và không ra được.

Du lịch, GO! - Theo TBKTSG và nhiều nguồn ảnh khác

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống