Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Wednesday, 3 October 2012



Ngay bên cạnh Red Valley là Pasabag Valley và thông thường thì người ta ngủ đêm tại một ngôi làng tại đó để hôm sau đi khám phá tiếp. Tuy nhiên, tôi lại chọn quay về Goreme để rồi hôm sau lại mất công quốc bộ 5km quay lại. Đúng là dại. Pasabag là một trong những nơi tiêu biểu cho phong cảnh của Cappadocia với những cột đá fairy chimney nằm giữa những thửa ruộng nho. Cũng chính vì sự hiện diện của nho làm rượu mà nó có tên là Pasabag, trong tiếng Thổ có nghĩa là “vườn nho của Pacha”.   


Ngoài tên Pasabag Valley, thung lũng này còn có tên Monks Valley. Tại sao lại cái tên này?  Có thể là do các nhóm cột đá có dáng vẻ giống như những nhà tu sĩ mặc áo chụp mũ thời trung cổ nên người địa phương mới đặt tên như vậy. Thêm nữa, khu vực xung quanh Pasabag xưa kia là nơi có một cộng đồng thiên chúa giáo sinh sống và phát triển rất mạnh.  Cũng giống như ở Goreme, ở đây có rất nhiều fairy chimney nhưng đặc thù của chúng là có hình dáng giống như những cây nấm khổng lồ và tất cả đều được người dân đào khoét bên trong để tạo thành nhà ở. Ngày nay, không còn ai ở đây nữa nên tất cả đều bị bỏ hoang. 


Từ thung lũng Pasabag, chỉ đi thêm khoảng 1km nữa là tôi đến được Zelve Valley, nổi tiếng với quần thể các tu viện đào sâu trong núi đá. Nhìn từ xa, Zelve Valley là những vách đá có hình giống như vó ngựa với hệ thống các bậc thang và vòm khoét sâu bên trong. Xưa kia, đây là nơi cộng đồng thiên chúa giáo sinh sống và nó mạnh đến mức Zelve là cả một thị trấn phồn thịnh chứ không phải là một làng mạc nghèo nàn như bây giờ. Thực ra thì cấu tạo các tu viện này cũng không có nhiều khác biệt so với các tu viện mà tôi đã thăm ở Goreme Open Air Museum nhưng nó giúp tôi mường tượng ra số lượng tu viện ở đây nhiều đến chừng nào. Thực đúng là xứ sở ngàn lẻ một tu viện! Khu vực này cũng nằm ngay gần một con đường dải nhựa nên hiển nhiên xe du lịch sẽ ùn ùn kéo đến giống như ở Goreme hay Ushisar. Lúc tôi đến đây thì cũng rơi vào tầm giữa trưa, chắc là lúc các đoàn du lịch đi ăn trưa nên không có nhiều người đến thăm. 

dưới cái nắng 38°C, trước khi  nhảy vào khám phá Zelve Valley, tôi tạm ngồi nghỉ nhâm nhi một ly trà Thổ

 Tôi cảm thấy thán phục sự sùng đạo của những người tu hành nơi đây. Cả cuộc đời của họ chỉ sống thu hẹp trong cộng đồng, ngày nào cũng lặp đi lặp lại mấy động tác ăn,ngủ,trồng trọt và cầu nguyện cho đến khi qua đời.  Và điều đó làm tôi thấu hiểu hơn được phần nào các bài học trên giảng đường đại học. Thật vậy, không giấu gì các bạn, tôi theo học khoa học xã hội nhân văn bên Pháp trong vòng 2 năm học đại cương. Trong chương trình học có rất nhiều giờ học liên quan đến lịch sử phát triển một số tôn giáo chính trong đó có thiên chúa giáo. Tôi được học sơ qua sự hình thành và phát triển của các tu viện cũng như các cộng đồng sống tuân theo một dòng Thánh nào đó và được biết qua sự khổ công tu luyện của họ. Nhưng trăm nghe không bằng một thấy, hành trình khám phá của tôi ở Cappadocia và sau này ở Syria và Ai Cập đã giúp tôi tích lũy thêm những hiểu biết phong phú hơn về thiên chúa giáo. 



 Tại quần thế tu viện Zelve, các tu sĩ tu luyện theo dòng thánh Saint Simeon, một vị thánh có đặc trưng là giành cả cuộc đời sống trên một mỏm đá cao chót vót hứng chịu mưa gió ở trên đó như một sự thiêu thân vì đạo. Ừa mà tại sao ông ta phải khổ thế nhỉ ? Ông thánh Simeon này thực ra cũng giống như nhiều tu sĩ ẩn dật khác ở Trung Đông, muốn bắt chước theo chúa Jesus, phải sống khổ thì mới đắc đạo. Noi theo phương pháp tu hành của Saint Simeon, các tu sĩ ở đây cũng tự xây cho mình một gian phòng cầu nguyện bằng cách khoét một lỗ nằm ở đỉnh các cột đá cao chót vót. 

phòng ăn chung của các tu sĩ.

 Thăm các vết tích ở Zelve, tôi chợt nhận ra rằng các bức vẽ bằng màu nước trên bề mặt tường có những vết xước rất đặc biệt được tạo ra từ các vật dụng sắc nhọn . Điều đó làm tôi nhớ lại một số thông tin tôi tìm được trước khi đến Cappadocia. Các vết xước này không phải là do thiên nhiên tạo ra mà là do con người và chính xác hơn, chúng được tạo ra dưới thời Ottoman. 


Vào thời điểm ấy, Ottoman là một đế chế theo đạo Hồi. Tuy rằng những thần dân theo đạo thiên chúa giáo được tự do tín ngưỡng, vẫn có một số đạo luật của đạo Hồi được áp đặt. Và tiêu biểu trong số đó là cách thể hiện tôn giáo thông qua nghệ thuật vẽ tranh. Theo tín ngưỡng của đạo Hồi, những con mắt là biểu tượng cho con mắt của quỷ sa tăng, không phải là điều lành. Thêm nữa, người hồi giáo rất sợ rằng khi người thường nhìn thẳng vào mắt của những tác phẩm tranh thì họ sẽ cảm nhận được sự linh thiêng của chúa jesus và sẽ chuyển đi quy theo đạo thiên chúa giáo. Người Hồi giáo sợ con chiên của họ phản đạo đi theo thiên chúa giáo vốn dĩ là một tôn giáo kẻ thù không đội trời chung. Vì thế, nhất thiết phải hủy tất cả những đôi mắt có trên khuôn mặt người trên các bức vẽ thiên chúa giáo. Đó là lý do vì sao tôi thấy các vết xước đều nhằm trúng mặt của chúa jesus hay đức mẹ đồng trinh hay bất cứ khuôn mặt người nào
 


Khi mà đế chế Ottoman tan rã vào đầu thế kỷ 19, cộng đồng thiên chúa giáo ở Zelve nói riêng và Cappadocia nói chung còn chịu thêm vài biến động xấu nữa. Vào năm 1924, sau một hiệp định thống nhất giữa hai người láng giềng Thổ và Hy Lạp, những người theo đạo thiên chúa giáo (được coi là thiểu số ở Thổ) bị ép buộc phải rời khỏi đây, chấm dứt một thời gian dài chung sống trong hòa bình giữa hai cộng đồng thiên chúa giáo và hồi giáo trong khu vực. Bản thân những người dân theo đạo hồi ở đây cũng không thể sống ở Zelve lâu dài. Vào những năm 1950, nguy cơ sói mòn sạt lở đất ngày càng trở nên nghiêm trọng ở Zelve và toàn bộ dân cư phải sơ tán sang khu mới với cái tên Yeni Zelve (Zelve mới). Còn khu Zelve cũ (hay Zelve Valley ngày nay) chỉ còn là một ngôi làng bỏ hoang. 




 Zelve Valley là điểm sáng nhất trong ngày và sau đó, tôi tìm đường quay trở lại Goreme. Trên đường về, tôi đi qua một ngôi làng mang tên Cavusin. Tôi nán lại thăm ngôi làng này một chút vì rất ấn tượng với bức tường đá khổng lồ được sử dụng làm khu cư trú của người dân. Rất độc đáo ! 


Nhìn từ dưới lên, ta có cảm giác như do bị đục khoét nhiều lỗ quá nên bức tường đá dường như sắp sập xuống đến nơi. Và trên thực tế đúng là như vậy. Lo sợ nguy cơ sạt lở đó, người dân địa phương quyết định từ bỏ những ngôi nhà trong các lỗ đó và chuyển xuống xây nhà ngay dưới chân bức tường. 


 Từ Cavusin, có một khúc đường mòn dẫn ra đại lộ rải đường nhựa và tôi cứ men theo con đường đó để trở về Goreme. Chiều dài của con đường này cũng phải tầm 4km và tôi bắt gặp khá nhiều xe du lịch 45 chỗ đi qua, chắc là để đến thung lũng Zelve. Trong lúc đi bộ thì tôi tình cờ thấy một chiếc xe chủ động dừng lại cho tôi đi nhờ. Tốt quá, đang mỏi chân! Hai người lái xe là khách du lịch thuê xe tự lái để khám phá loanh quanh. Sau một hồi nói chuyện, tôi phát hiện ra ngay âm nói tiếng Anh của họ đặc chất Pháp. Và thế là cuộc nói chuyện giữa tôi chuyển từ Anh sang Pháp. Hai nữ du hành gia Pháp cho tôi đỗ xuống giữa trung tâm Goreme. 

Để tổng kết lại khoảng thời gian 5 ngày đầu tiên ở vùng Cappadocia, có thể nói rằng việc khám phá các thung lũng xung quanh Goreme không gặp quá nhiều khó khăn vì khoảng cách cũng chỉ tầm 10km đổ lại và với đôi chân quen đi bộ thì đối với tôi điều đó không có gì là khó. Tuy nhiên, thăm hết những gì lân cận Goreme thì chỉ là 70% của vùng Cappadocia. Tôi bắt đầu lan tỏa ra đi khám phá những vùng xa hơn. Điểm mà tôi muốn đến thăm là thung lũng Ihlara Valley cách Goreme tầm 80km. Vấn đề nan giải ở đây là không có nhiều phương tiện công cộng giúp tôi có thể đến đây. Phương pháp duy nhất là bắt xe khách nhưng để đến được Ihlara Valley thì phải chuyển đến 3 tuyến và mất toi cả ngày. Vì thế, tôi đã không ngần ngại lựa chọn việc mua tour của một công ty du lịch địa phương nằm ở Goreme. Ngay gần bến xe của Goreme là một loạt các văn phòng nhỏ nằm san sát nhau và họ đều offer cùng một loại tour đến Ihlara Valley và giá thì cũng xấp xỉ nhau, tầm 35$. Lịch trình của tour cũng không tệ lắm, ngoài Ihlara Valley thì tôi còn được thăm làng Derinkuryu nằm sâu dưới lòng đất nhưng lí do chính để tôi mua tour này chẳng qua là để bám càng chiếc xe con của họ để có thể đến được Ihlara Valley và đi hiking ở đó. Thế thôi.


Theo như những thông tin tôi thu thập được, làng Derinkuyu rất nổi tiếng và hầu như tất cả các day trip từ Goreme đều phải thăm làng này. Vậy cái gì làm nó nổi tiểng ? Đó là vì đây là cả một hệ thống làng mạc nằm dưới lòng đất giống như địa đạo Củ Chi. Trong tiếng Thổ, derinkuyucó nghĩa là « cái giếng sâu ». Vì sao người ta lại đào sâu xuống lòng đất và sống ẩn dật chui lủi trong những điều kiện khó thở ? Có lẽ phải giải thích nguồn gốc từ những thế kỷ đầu sau khi chúa Jesus qua đời. Vùng Cappadocia vào những thế kỷ 2-3 là nơi có cộng đồng Thiên chúa giáo rất mạnh. 


Tuy nhiên, hồi ấy đạo này bị đế chế La Mã đàn áp thẳng tay do họ lo sợ sự cạnh tranh với lòng tin vào các vị thần thánh Hy-La. Bất cứ môn đồ nào của Thiên chúa giáo bị bắt là đều bị đem đi hành hình. Để trốn tránh sự truy lùng của quân La Mã, những người dân thường theo đạo Thiên Chúa phải đào sâu xuống lòng đất và chế tạo nhà ở dưới đó. Ban đầu thì chỉ lèo tèo một vài hộ gia đình làm hệ thống đường ngầm như vậy nhưng rồi dần dần các hộ liên kết với nhau, đào thêm đường hầm để nối nhà này với nhà kia và dần dần trở thành một thị trấn dưới lòng đất. Khuynh hướng xây dựng cả một hệ thống như vậy được nhất mạnh hơn khi mà người dân Cappadocia phải hứng chịu nhiều đợt tấn công từ các quốc gia ảrập bên cạnh. Thật vậy, vào khoảng thế kỷ thứ 7, rộ lên một làn sóng bành trướng của đạo Hồi với vô số các cuộc tấn công quy mô lớn của người Ảrập. 


Tuy nhiên, Thổ Nhĩ Kỳ nói chung và vùng Cappadocia nói riêng là lãnh thổ của đế chế Byzantine hùng mạnh nên người Ảrập không làm mưa làm gió được giống như ở những khu vực khác tại Bắc Phi. Do đó, trong vòng nhiều thế kỷ, người Ảrập chỉ có thể tạm bằng lòng với những cuộc tấn công nhỏ định kỳ hàng năm từ tháng 5 đến tháng 6 với mục đích cố định biên giới của thế giới Hồi giáo tại Thổ Nhĩ Kỳ. 


Đây chính là thời kỳ người dân vùng Cappadocia phải xây nhiều làng mạc dưới lòng đất giống như địa đạo Củ Chi để tránh những cuộc tấn công của người Ảrập. Ngày nay có khoảng 40 chục làng mạc dưới lòng đất nằm rải rác ở Cappadocia nhưng Derinkuyu có quy mô rộng nhất và có sức chứa tới 10.000 người. Do ở sâu dưới lòng đất, nhiệt độ luôn ở mức 15°C và khá khô ráo, rất thích hợp để bảo quản lương thực. Tại vùng Cappadocia, người ta ước tính một sản lượng khoai tây hàng năm là 30.000 tấn và tất cả đều được cất ở dưới lòng đất như thế này.


 Thời điểm tôi đến đây, chỉ có 10% diện tích của Derinkuyu được mở cho du khách đến thăm nên khó có thể mường tượng cụ thể quy mô thật của nó. Theo các thông số kỹ thuật, thị trấn này được đào sâu đến 85m so với mặt đất với hệ thống 8 tầng hầm. Theo các chuyên gia sử học, mục đích xây những thị trấn dưới lòng đất như Derinkuyu chỉ là một giải pháp tình thế nhằm tránh khỏi sự truy quét của người ảrập. Tuy nhiên, người dân địa phương không lường trước được rằng giải pháp « tạm thời » đó lại dai dẳng kéo dài đến hơn 1 thiên niên kỷ !  

Đến được Ihlara Valley thì cũng đã gần trưa. Trước khi book tour này, tôi đã trao đổi với văn phòng du lịch và chúng tôi đã thống nhất với nhau rằng khi đến Ihlara, tôi sẽ tách đoàn ra và tự đi hiking một mình rồi hẹn gặp nhau tại cửa ra của thung lũng này. Tại sao tôi lại quyết định như vậy ? Thung lũng Ihlara dài tổng cộng 16km và khu vực có thể đi hiking và có được góc nhìn đẹp nhất thì chỉ gói gọn trong 5km nhưng khu vực này lại không nằm trong chương trình tham quan của văn phòng du lịch. Công ty này chỉ cho đi thăm lèo tèo vài cái tu viện nằm trong vách đá và đi cưỡi ngựa xem hoa dưới đáy thung lũng khoảng 2km và hết vị. Trong khi đó, tôi thì đã thăm cả một đống tu viện trước đó và cái tôi cần ở thung lũng Ihlara là leo lên đỉnh vực thẳm để có cái nhìn toàn cảnh. Đến bây giờ nghĩ lại, tôi phải công nhận đó là một quyết định khá mạo hiểm nhưng hoàn toàn đáng đồng tiền bát gạo. 


 Khác hẳn với tất cả những gì tôi khám phá từ trước đó ở Cappadocia, thung lũng Ihlara được bao phủ bởi màu xanh của cây cối. Không phải là những cột đá hình cây nấm hay những tảng đá hình thù kỳ dị mà thay vào đó là một đại vực canyon thứ thiệt. Đây là nơi duy nhất tôi thấy có nhiều màu xanh đến thế. Cũng đúng thôi, dọc theo thung lũng dài 16km này là một con sông nhỏ chảy dưới đáy thung lũng và với sự hiện diện của một nguồn nước thường trực như vậy thì cây cối sẽ có điều kiện mọc tươi tốt. 


 Tôi đi theo đoàn tour tầm 1km rồi sau đó quyết định tách đoàn theo những thỏa thuận ban đầu với cậu hướng dẫn viên và bắt đầu chuyến khám phá một mình. Hướng chảy của con sông dưới đáy đại vực này giúp tôi xác định hướng đi khá dễ dàng. Theo lý thuyết, tôi cứ việc đi men theo nó thì kiểu gì cũng sẽ tìm đến đường ra tại một ngôi làng tên Selime, nơi tôi sẽ gặp lại nhóm khách theo tour và cậu hướng dẫn viên để tất cả cùng nhau lên xe trở về Goreme. Tuy nhiên, thực tế có một chút khác biệt so với kế hoạch ban đầu. Do trong suốt 1-2km đầu tiên tôi chỉ toàn gặp những du khách đi men theo sông, điều đó làm tôi hơi bực mình và tôi quyết định không men theo bờ sông nữa mà lại đi lách sang một con đường mòn dẫn tôi một lèo lên mép của đại vực ở độ cao 150m. 


 Đến được đó thì tôi hoàn toàn thỏa mãn vì chỉ có một mình mình đối mặt với thiên nhiên hùng vĩ. Tuy nhiên, một vấn đề bắt đầu hiện ra : làm thế nào để tìm đường xuống lại dưới đáy đại vực, gặp lại con sông và đi đến Selime như điểm hẹn. Thực ra, nếu tôi có đủ thời gian thì việc ấy không quá khó nhưng vấn đề là ở chỗ cậu hướng dẫn viên chỉ cho tôi đúng 2h để đi hết 5km dọc theo con sông. Trong khi đó thì tôi lại đi lòng vòng hơn 8km lên đến tận đỉnh rồi lọ mọ đi xuống mất rất nhiều thời gian. 


 Phải chờ đến lúc còn khoảng 30mn so với giờ hẹn thì tôi mới tìm thấy con đường ven sông nhưng vẫn còn cách Selime đến…4km. Có chạy thục mạng thì cũng chẳng thể đến đúng hẹn khi mà đường thì gồ ghề nhiều bụi cây. Chạy mãi trong tuyệt vọng, tôi nghĩ rằng có lẽ đoàn sẽ đợi quá lâu và bỏ mình về. Xác định trước tinh thần đó, tôi quyết định không chạy thục mạng nữa và tính đến tình huống xấu nhất là nghỉ đêm tại một nhà dân nào đó rồi hôm sau bắt xe dolmus quay trở về Goreme. 


Nhưng chính trong lúc tuyệt vọng đó thì phép màu lại xảy ra. Tôi tự nhiên nhìn thấy một ngôi làng nho nho, trông rưa rứa như làng Selime. Với một chút từ vựng Thổ học được, tôi bập bẹ hỏi một ông nông dân. Đúng là Selime ! Tìm được Selime, tôi bỗng tìm lại được một tia hy vọng và chạy thục mạng đến một bến xe nơi các xe du lịch thường đậu. Và thât tuyệt vời khi tôi thấy thấp thoáng bóng dáng những người cùng đoàn và cậu hướng dẫn viên đang cầm cờ. Tôi cứ ngỡ rằng hay là họ phải chờ mình quá lâu và đang phải chờ những câu đại loại như : « sao cậu đi đâu mà lâu thế ? Chúng tôi cứ chờ mãi tưởng cậu bị lạc ». 

làng Selime là điểm thoát khỏi thung lũng Ihlara Valley, nơi hầu hết các xe du lịch đón khách trở về Goreme
 Nhưng không, hóa ra bản thân họ cũng chỉ đến điểm hẹn được tầm 15 phút và chỉ phải đợi tôi hơn 10 phút thôi.  Vậy là suy cho cùng, tôi vẫn kịp nhập hội để trở về Goreme. Trên đường đi, mọi người hỏi tôi khá nhiều về những gì tôi trải nghiệm khi tách đoàn trong vòng 2 tiếng đồng hồ. Tôi trao đổi khá nhiều với cậu hướng dẫn viên về không hết lời khen ngợi vẻ đẹp hùng vĩ của thung lũng Ihlara và cậu ta vui mừng ra mặt. Chúng tôi có trao đổi thêm chút ít về những gì còn lại đáng để thăm ở vùng Cappadocia và tôi cũng được biết cậu này là hướng dẫn viên quốc gia nên thông thạo nhiều vùng khác ngoài Cappadocia. Chúng tôi có trao đổi sơ qua về một vùng núi tên Nemrut, cũng nằm trong kế hoạch của tôi. Nhưng chính nhờ cuộc nói chuyện này, tôi đã nảy ra ý định đi theo tour do chính cậu hướng dẫn viên này đảm nhận, thay vì mua tour thông qua một văn phòng ở Goreme. Có vẻ như giá mà cậu ta đưa ra rẻ hơn tầm 10$. OK, duyệt ! Và thế là lại thêm hai ngày viễn chinh phía đông của Thổ Nhĩ Kỳ.




  
<<<<CÒN TIẾP>>>>


Tuesday, 2 October 2012

Chùa Xà Tón là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng không chỉ của An Giang mà còn của cả nước. Chùa Xà Tón được xây dựng cách nay khoảng 300 năm, trên một khu đất rộng nằm ngay trung tâm thị trấn Tri Tôn, huyện Tri Tôn.

Theo lời kể, thuở đó, vùng này còn là khu đất hoang vu, cây cối rậm rạp. Trên những ngọn cây, từng đàn khỉ chuyền cành, đôi lúc chúng còn cả gan chọc ghẹo, níu kéo khách qua đường. Cảnh quan đẹp, u nhã xứng đáng là nơi thờ tự tôn nghiêm, nên đồng bào Khmer quyết định chọn khu đất này làm nơi lập chùa.

Đầu tiên chùa được xây bằng gỗ, lợp lá, nền đất đơn sơ. Với đặc thù có nhiều khỉ sinh sống và thường hay níu kéo khách qua đường nên chùa được đặt tên theo tiếng Khmer là Xvayton (Xvay là khỉ và ton là kéo). Xvayton đọc âm là Xà Tón. Tên gọi Xà Tón này một thời gian dài còn dùng gọi luôn tên thị trấn và tên huyện lỵ miền biên giới này cho đến khi đổi lại là Tri Tôn.

Chùa Xà Tón là một ngôi chùa thờ Phật theo phái Tiểu thừa của đồng bào Khmer Nam bộ. Cũng giống như bất cứ ngôi chùa Khmer Nam bộ khác, chùa Xà Tón được các vị sư cho xây dựng lần hồi, theo kiểu “tàm thực”. Nghĩa là khi con sóc (bổn đạo) quyên cúng tiền đến đâu thì chùa được tiến hành xây cất đến đó cho tới khi hoàn tất. Năm 1896 và năm 1933, chùa Xà Tón được xây dựng lại bằng gạch ngói, cột gỗ căm xe, nền chùa bằng đá xanh vôi ô dước (cao 1,8 m), theo kiến trúc cổ truyền của người Khmer Nam bộ.

Chính điện nằm ngay trung tâm khuôn viên chùa, mặt quay về hướng Đông Tây, nóc nhọn và hai mái cong gộp lại gợi hình ảnh rắn thần Naga (tượng trưng cho sự bất diệt và dũng mãnh) nằm dài. Mái chùa được cấu trúc hình tam cấp ngói đỏ, xanh, vàng. Trong ánh nắng, lớp mái ngói này hừng lên một sắc màu đẹp mắt. Quanh ngôi chính điện có khá nhiều những ngôi tháp nhỏ màu sắc rực rỡ.

Trên đỉnh các ngôi tháp này đều được chạm tượng thần Bayon (thần Bốn Mặt, thần Sáng Tạo) bằng đá. Đây là nơi thờ tự hài cốt của các vị sư trụ trì đã viên tịch. Phía trước chính điện có một ao rộng trồng sen và súng phủ bóng mát một hàng dừa. Những khi sen và súng nở bông, cả mặt ao rực màu hoa phớt đỏ lá xanh non, rất đẹp. Cạnh hàng dừa có một tượng Phật lớn được tạc trong thế thiền định dưới bóng cây lâm vồ. Cây lâm vồ này, theo các sư, có tuổi thọ trên trăm năm, gốc khoảng mười người ôm, cành lá xum xuê, mát rượi.

Trong chính điện có 4 hàng cột bằng gỗ căm xe, mỗi hàng có 7 cây cột. Nền chùa lát gạch bông, tường gạch vôi ô dước. Trên các vách tường là các bức bích họa nhiều màu sắc tái hiện một phần Phật thoại. Đặc biệt, ở một bên vách, có một tượng Phật lớn bằng xi măng, thể hiện cảnh Phật ngồi kiết già trên bệ cao với nhiều tượng gỗ sắp xếp xung quanh. Chính điện chùa là nơi hành lễ và thuyết pháp của các sư đối với con sóc. Trong khuôn viên chùa còn có một số dãy nhà khác gồm: nhà khách, hội trường, nhà tăng lữ, nhà bếp... Các dãy nhà này xây nhỏ hơn chính điện nhưng nhà nào cũng có hai mái cong gộp lại, nóc nhọn, hai bên mái tạc đuôi rắn thần Naga.

Hiện nay, chùa Xà Tón còn lưu giữ trên 100 bộ kinh bằng chữ Phạn được viết trên những chiếc lá buông mà người Khmer gọi là bộ sách “Sa Tra”. Chính vì vậy mà vào năm 2006 chùa đã được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục giữ nhiều sách kinh lá có tại Việt Nam. Trước đó, năm 1986, chùa Xà Tón được Bộ Văn hóa công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.

Cũng giống như các ngôi chùa Khmer khác, theo truyền thống, chùa Xà Tón ngoài thờ Phật còn là trung tâm văn hóa, nơi gìn giữ những phong tục, tập quán, kiến trúc, điêu khắc, nghệ thuật cổ truyền của đồng bào Khmer.

Ngoài những cuộc lễ nhỏ, mỗi năm chùa Xà Tón còn tổ chức 5 lễ lớn là: Chol Chnam Thmay (tết mừng năm mới) vào các ngày 13, 14, 15 tháng 4 dương lịch. Lễ Pi-sát bô-chia vào ngày rằm tháng 4 âm lịch nhằm nhớ ơn Phật tổ (ngày Phật đản sinh). Lễ Chôl Neasa là lễ cấm ba tháng sư không ra khỏi chùa (từ rằm tháng 6 đến rằm tháng 9 âm lịch). Lễ Kà Thận là lễ sắm quần áo cho sư cùng các vật dụng cho nhà chùa hoặc cho trường học địa phương. Đặc biệt nhất là lễ Dolta (còn gọi là Pha chun bênh), lễ ông bà (giống như lễ Thanh minh), kéo dài từ mồng 1 đến 15 tháng 10 âm lịch. Suốt những ngày này, con sóc mang bánh tét, hoa quả, cơm canh đến chùa cúng tế để tỏ lòng biết ơn người quá cố cũng như cầu an, cầu phúc cho gia đình...

Với nhiều lễ hội truyền thống ấy, với vị trí địa lý thuận lợi, với giá trị lịch sử văn hóa dân tộc, chùa Xà Tón là điểm tham quan hấp dẫn của hầu như tất cả mọi du khách đi đến khu vực này.

Du lịch, GO! - Theo Phương Kiều (Haugiangonline), ảnh internet
Đầu bếp nổi tiếng Martin Yan vừa qua 15 ngày hành trình khám phá Việt Nam trong vai trò là người dẫn chương trình, đồng thời là nhân vật chính thực hiện những món ăn độc đáo của Việt Nam, được quay thành những tập phim để thông qua du lịch và ẩm thực, ông sẽ giới thiệu hình ảnh Việt Nam ra thế giới.

< Martin Yan vi vu bằng xe đạp tại Bến Tre.

Trước khi về Mỹ, ông Martin Yan đã có cuộc trò chuyện với phóng viên báo Sài Gòn Tiếp Thị.

Martin Yan nói: “Tôi không đi du lịch bình thường, ngay khi đặt bút ký hợp tác với công ty TNHH sản phẩm và dịch vụ truyền thông Điền Quân sản xuất chương trình “Khám phá Việt Nam cùng Martin Yan”, tôi đã tự đặt cho mình một áp lực: mang trọng trách quảng bá những nét đẹp, điều hay và những món ăn đặc sắc của Việt Nam đến thế giới.

Mới qua đợt hành trình đầu tiên tôi đã có thể khẳng định tất cả cảnh quan đất nước, con người và ẩm thực Việt Nam đáng để thế giới phải biết đến”.

Trước khi đồng ý hợp tác với chương trình này, ông đã biết được ẩm thực của bao nhiêu vùng miền và nghĩ gì về ẩm thực Việt Nam?

Tôi đã tìm hiểu ẩm thực Việt Nam nhiều trước khi tham gia dự án này.

Tôi chuẩn bị khai trương nhà hàng ở San Francisco, tôi hy vọng sẽ giới thiệu một số món ăn Việt Nam tôi vừa học được.

Ông không ngại khi một đầu bếp chuyên nghiệp có danh tiếng lại vào nhà dân học nấu ăn?

Tôi là đầu bếp chuyên nghiệp, có nghĩa là đi đến đâu phải học hỏi đến đó. Mặc dù tôi được thuê và được trả công, nhưng với tôi dự án này không còn là làm thuê, mà trên đó là sứ mệnh và niềm đam mê. Các bạn thấy hiếm có người dẫn chương trình nào lăn xả như tôi. Tôi xuống những ruộng lúa đang vào mùa gặt, nông dân gặt thế nào tôi cũng làm như vậy. Có hôm dự kiến buổi sáng trời khô ráo, quay phim được, nhưng không ngờ trời đổ mưa, tôi vẫn đứng giữa đống bùn lầy, tiếp tục gặt lúa bởi vì tôi muốn chia sẻ những gì đẹp nhất, thật nhất về Việt Nam với bạn bè thế giới.

Ông học thêm những gia vị hoặc cách chế biến nào của người dân Việt Nam mà ông thấy thú vị?

Có lẽ vì tính chất vùng miền địa lý khác nhau đó, nên Việt Nam không chỉ có một loại gạo, mà có nhiều gạo đặc sản khác nhau, còn có nếp. Mỗi địa phương có sản vật đặc trưng và đương nhiên khẩu vị ẩm thực của người từng vùng miền cũng khác nhau. Bởi thế đi đến đâu tôi cũng nhìn thật kỹ, sau đó nếm thử để cảm nhận sự khác biệt. Khát vọng của tôi là tìm kiếm những cái mới. Nếu không như thế thì tôi chẳng thấy điều gì mới để giới thiệu.

Tôi cảm nhận sự khác biệt của ẩm thực Việt Nam chính là có quá nhiều gia vị tươi, chứ không phải gia vị chế biến mà nhiều nước và ở Mỹ có, như ớt tươi hái ngoài vườn, một số loại rau, củ, quả, lá cây có hương vị riêng và dùng tươi. Một số nguyên liệu tươi như hạt sen từ ao hồ, măng hái trong rừng, ở Mỹ chúng tôi toàn phải dùng hạt sen khô, măng khô. Điều đặc biệt nữa của ẩm thực Việt Nam là tính dinh dưỡng cao vì thịt, cá luôn kèm rau củ quả trong hầu hết món ăn.

Đến đồng bằng sông Cửu Long, tôi ấn tượng với dừa, đặc biệt ở Bến Tre. Tôi đã nấu ăn trong nhà dân với các món toàn được chế biến bằng dừa: cơm nấu trong trái dừa, gỏi củ hũ dừa, tép rang dừa, uống nước dừa. Người chủ nhà còn dạy tôi cách ương một trái dừa để lên cây dừa con thế nào. Tôi cũng đi xem người ta lấy dừa làm bánh tráng, kẹo dừa, làm chén, muỗng sử dụng trong bữa tiệc. Rất tuyệt! Tôi sẽ chia sẻ sự hứng thú, đam mê đó cho tất cả mọi người.

Với những gì đã trải nghiệm trong những ngày qua, theo ông, đã đủ để ông giới thiệu cho bất cứ ai về Việt Nam và họ có thể cảm thụ được?

Để quảng bá tốt nhất phải có nỗ lực của rất nhiều người, từ người dân, người làm du lịch và quan chức nhà nước. Ẩm thực Việt Nam quá phong phú, nhưng thử hỏi đã có ai cho du khách hiểu bánh phở làm từ gạo thế nào, nước nấu phở có gì đặc biệt. Đó mới là cách quảng bá Việt Nam qua ẩm thực. Du khách phải cảm nhận từ nguyên liệu làm nên món ăn, yêu thích món phở ngay khi họ nhìn thấy ruộng lúa. Sản xuất một chương trình để quảng bá du lịch kết hợp quảng bá ẩm thực Việt Nam là một nỗ lực đầu tiên giới thiệu đầy đủ về Việt Nam ra thế giới, tôi và các chuyên gia ẩm thực Việt Nam cũng đóng góp một phần trong nỗ lực đó.

Tôi đã đi nhiều, khi đến một nơi nào đó, ngoài quan tâm ẩm thực, tôi còn quan tâm con người và cảnh quan tự nhiên. Tôi nghĩ những du khách nước ngoài cũng như tôi, không đến Việt Nam để xem có bao nhiêu toà nhà cao tầng mới mọc lên hay những công trình hiện đại nào, mà họ tìm những gì đất nước họ không có, đó là cảnh quan thiên nhiên, văn hoá, lối sống của người Việt Nam. Cả đời tôi chưa bao giờ thấy một chợ bán cả trâu như ở chợ Bắc Hà. Ở Sa Pa, người ta mua những con heo mọi rồi cắp nách về, gọi là lợn cắp nách. Vô cùng lạ đối với tôi.

Tôi dự định sang năm sau sẽ dẫn một đoàn khoảng 40 người gồm các chuyên gia ẩm thực Mỹ và những người bạn của tôi sang tìm hiểu về Việt Nam. Martin Yan sẽ nói với thế giới: “Hãy khám phá Việt Nam”. Còn với các bạn là người Việt Nam, nếu các bạn không làm mọi thứ bằng nhiệt huyết, sự đam mê thì các bạn sẽ không làm cho thế giới thấy Việt Nam tuyệt vời.

Du lịch, GO! - Theo SGTT, ảnh Nguoibentre, Hamluongtourist, Zing...

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống