Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Sunday, 23 December 2012

Trong tất cả các quốc gia tôi đã từng đi qua, Ba Lan có một vị trí đặc biệt trong trái tim tôi. Không phải vì Ba Lan có vẻ đẹp tuyệt đỉnh hơn hẳn các quốc gia khác, mà là vì quốc gia này là điểm mốc lịch sử quan trọng đánh dấu lần đi du lịch bụi solo đầu tiên trong quộc đời tôi. Và lúc ấy, tôi mới chỉ 19 tuổi, còn thiếu sót nhiều kinh nghiệm. Còn nhớ lại năm 2005, tôi phải mất đến hơn 3 tháng để chuẩn bị cho cuộc chinh phục đầu tiên trong đời. Tại sao tôi lại chọn Ba Lan vào thời điểm ấy? Đơn giản là vì tôi có quen một cô bạn sinh viên người Ba Lan đang du học theo chương trình trao đổi Erasmus. Từ một người Ba Lan, tôi dần dần quen đến hơn 10 người và tôi mường tượng ra hình ảnh đất nước Ba Lan với những người dân tốt bụng và sùng đạo. 


 Ý định đi Ba Lan được quyết khi tôi được thông tin có chuyến bay giá rẻ sang thành phố Warsaw với hãng hàng không Skyeurope (sập tiệm năm 2009). Đã 7 năm trôi qua rồi, tôi khó có thể nhớ chi li hành trình hai tuần phiêu lưu tại quê hương của nhạc sỹ Chopin. Tuy nhiên, những gì tôi có thể hồi tưởng được là những giây phút trải nghiệm khó quên và đáng ngạc nhiên thay, rất nhiều trong số đó lại là những giây phút tôi gặp khó khăn và vượt qua được. Nói đến chuyến đi Ba Lan, không thể không nói đến sự giúp đỡ tận tình của gia đình cô bạn Ba Lan. Chân ướt chân ráo đến sân bay Warsaw, chính bà ấy là người giúp tôi tìm phòng ngủ ở ký túc xá một trường đại học, đặt mua vé tàu và tư vấn chương trình khám phá giúp tôi. 

Trước khi đặt chân đến Ba Lan, hình ảnh quốc gia này rất mờ nhạt trong tâm trí tôi. Cũng như bao người khác, tôi gom Ba Lan thành một khối gọi là “dân Đông Âu” hoặc “hội Nga ngố”. Thực ra định nghĩa ấy hoàn toàn sai bét và thậm chí còn là một điều sỉ nhục với người dân Ba Lan. Quan hệ của người Ba Lan với người láng giềng Nga không được tốt đẹp cho lắm. Đây cũng là tình trạng chung của phần lớn các quốc gia Liên Xô cũ nằm giáp ranh với Nga (Ukraina, Lithuania, Latvia, Belarus, vv). Người Ba Lan rất ghét người Nga vì đã từng chịu áp bức của người láng giềng trong vòng nhiều thập kỷ. Vì thế, dân Ba Lan rất ghét người ta nói họ giống người Nga, cũng giống như người Việt mình chẳng ai thích bị nói giống thằng Tàu. Nhưng nói gì thì nói, Ba Lan ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng văn hóa và kiến trúc của Nga cũng như Đức, Áo vì xưa kia người Ba Lan chịu sự áp bức đô hộ của cả 3 nước láng giềng. Nếu tôi nhớ không nhầm, vào khoảng hơn 100 năm (từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20), nước Ba Lan bị xóa sổ hoàn toàn trên bản đồ chính trị Châu Âu. Lãnh thổ Ba La hồi ấy như một miếng bánh bị chia thành 3 phần, mỗi phần chịu sự đô hộ của Nga, Đức và Áo. Với khoảng thời gian lâu như thế, khó có thể tránh khỏi tầm ảnh hưởng về văn hóa. Khu phố cổ của thủ đô Warsaw có lẽ là minh chứng hùng hồn nhất cho nét kiến trúc pha tạp Đức,Nga Áo và truyền thống yêu nước của người dân Ba Lan. Và có lẽ khu phố cổ đó là ký ức duy nhất còn đọng lại trong tâm trí tôi bởi nói chung thủ đô Warsaw là một thành phố hiện đại cũng giống nhiều thành phố Châu Âu khác và phần lớn các công trình kiến trúc cổ đều đã bị thiêu trụi trong thế chiến thứ hai.  

bom đạn của thế chiến đã phá hủy bộ mặt gốc của Warsaw
 Điều làm tôi thán phục nhất ở Warsaw là khả năng trùng tu kiến trúc rất tiên tiến của người Ba Lan. Theo tôi, Warsaw không phải là một thành phố bình thường, mà là một huyền thoại thách thức lịch sử. Bị thiêu trụi đến 84% sau thế chiến, toàn bộ khu phố cổ được xây dựng lại từ từng phiến đá. Điều kỳ diệu ở đây là người Ba Lan không xây lại theo bản thiết kế gốc (đã bị thất lạc) mà lại theo những bức tranh phong cảnh của những họa sỹ lừng danh như Canaletto vào thế kỷ 18. 

người Ba Lan lấy tư liệu trùng tu từ những bức tranh phong cảnh thế kỷ 18 của một họa sỹ Italia
 Bản thân ông này không phải là người Ba Lan mà lại là người Ý, qua Ba Lan thấy mấy công trình cổ đẹp quá thì làm vài tác phẩm nghệ thuật. Có lẽ vì công nghệ trùng tu tiên tiến mà các kỹ sư Ba Lan được Việt Nam mời về để trùng tu khuôn viên cổng thành Cửa Bắc ở Hà Nội.   


 Trái tim của khu phố cổ chính là quảng trường Castle Square với lâu đài hoàng gia Royal Castle là trung tâm. Ngay khi nhìn từ xa, lối kiến trúc của nó đã đập ngay vào mắt tôi. Dòng kiến trúc trung cổ chịu ảnh hưởng của Đức thể hiện ngay từ bên ngoài với sự xuất hiện của gạch nung màu đỏ. Từ việc chỉ là một chòi canh phòng thủ vào thế kỷ 14, cung điện này nhanh chóng trở thành nơi ở thường trực của nhà vua và là thủ đô của nước Ba Lan ngay từ thế kỷ 16. 


Có nguồn gốc từ thời trung cổ, khu phố này có điểm chung với bất kỳ thành phố trung cổ nào ở Châu Âu đặc biệt là khu quảng trường Market Square rất sầm uất với những người cuộc giao lưu bán hàng hay những họa sĩ rong trổ tài nghệ thuật. Bao quanh quảng trường này là những tòa nhà tráng lệ xưa kia là nhà ở của các gia đình thương nhân giàu có nhất của thành phố. 


Đi qua những con phố cổ, khó có thể tưởng tượng được rằng những ngôi nhà rêu phong trước mặt chỉ là phiên bản làm lại trên đống tro tàn của thể chiến thứ hai. Từng chi tiết, từ vật liệu xây nhà đến họa tiết điêu khắc được trùng tu chính xác đến từng milimét, để rồi tạo dựng lại ánh hào quang trước kia của một Warsaw sầm uất. Có thể những phiến gạch xây lại không có thâm niên hơn 100 năm, nhưng những gì mà người Ba Lan làm đã được Unesco ban thưởng xứng đáng, khu phố cổ được công nhận là di sản văn hóa thế giới. 


Ngay giữa quảng trường Market Square, tọa lạc một pho tượng nàng tiên cá. Thoạt đầu nhìn thấy, tôi lập tức liên tưởng đến câu truyện cổ tích cùng tên hoặc pho tượng ở Copenhagen. Theo truyền thuyết nói, việc liên tưởng đến nàng tiên cá ở Đan Mạch không phải là không có lý. Cô nàng bị mắc cạn ở đâu đó ven biển Baltic và được một nhóm người dân chài Ba Lan cứu sống. Để cảm ơn, nàng tiên hứa với họ sẽ bảo vệ thủ đô Warsaw nếu có giặc ngoại xâm. Đó là lý do vì sao nàng tiên cá ở Warsaw được trang bị thêm kiếm và khiên và trở thành biểu tượng của thủ đô. Khắp nơi tôi đều thấy logo nàng tiên cá, từ viên gạch lát đường đến thùng rác. 


Thăm được xong quần thể Market Square và cung điện hoàng gia thì cũng có thể coi là đã thăm xong những gì cổ nhất của thủ đô. Tôi chỉ mất tầm 2 tiếng là xem hết tất cả. Những gì cổ nhất chỉ có từng ấy, có lẽ không xứng tầm với vị thế của một thủ đô Châu Âu nhưng nếu nhìn vào hoàn cảnh của một thành phố bị phá hủy tan tác trong thế chiến thì như vậy là quá ổn rồi. Warsaw không có số phận may mắn như Paris hay Rome, những thành phố sống phần lớn thời gian trong hòa bình. Vì thế, trước khi đến Ba Lan, tôi đã chuẩn bị trước tinh thần, người ta không đến Warsaw để dành nhiều ngày chỉ ngắm các công trình kiến trúc cổ, mà là để trải nghiệm một cái gì khác biệt. 


 Khu phố cổ được bao bọc bởi một lớp tường thành, cũng được xây bằng gạch nung đỏ đặc trưng kiểu trung cổ. Cổng thành Nowomiejska là công trình tiêu biểu nhất cho di sản kiến trúc trung cổ của Warsaw. Được xây dựng vào thế kỷ 16 và dài hơn 1km nhưng nó bị phá hủy hoàn toàn trong thế chiến và được xây dựng theo phiên bản gốc vài thập kỷ sau đó 


Trên đường đi dọc theo vành đai tường thành cổ, tôi bỗng bắt gặp pho tượng một bé gái với dáng vẻ như đồng chí Lượm. Theo lời giải thích thì đây là một đài tưởng niệm được xây lên để kỷ niệm sự kiện nhân dân thủ đô nổi dậy chống lại phát xít Đức. Nói đến đây, tôi chợt nhớ đến những tài liệu tôi đọc được về quá khứ đau buồn của đất nước Ba Lan dưới sự chiếm đóng của Đức quốc xã. 

trục đường xưa kia được nhà vua dùng để đi đến cung điện mùa hè, ngày nay là một đại lộ với nhiều cửa hiệu sầm uất hai bên
 Ra khỏi quần thể kiến trúc thành cổ, tôi lập tức trở lại thế giới Warsaw hiện đại hơn với các tòa nhà chủ yếu xây dựng lại sau thế chiến. Tuy quy hoạch thành phố có nhiều thay đổi nhưng trục đường chính từ thời trung cổ vẫn được giữ nguyên. Trục đương này được mệnh danh là con đường hoàng gia do xưa kia vua chúa Ba Lan thường dùng con đường này để đi từ cung điện hoàng gia đến các cung điện khác phục vụ cho nhu cầu nghỉ dưỡng hoặc săn bắn.  Nằm trên trục đường hoàng gia ngày nay vẫn còn giữ lại 3 công trình chủ đạo : cung điện hoàng gia, khuôn viên Lazienki (khu săn bắn hoàng gia) và cung điện Wilanow (cung điện nghỉ dưỡng mùa hè).

Không còn chế độ vua chúa nữa, công viên Lazienki ngày nay là một trong những nơi đi dạo ưa chuộng nhất của thủ đô. Cứ vào cuối tuần, vào những ngày đẹp trời, người dân Warsaw từ già đến trẻ đều lui tới đây tận ưởng những giây phút thư giãn giữa một vùng được coi như lá phổi xanh của thủ đô, người thì chạy bộ, người thì đạp xe, …


Ngay từ cổng vào, tôi đã thấy ngay một đài tưởng niệm Frederik Chopin to đùng án ngữ ngay ở giữa. Phải rồi, Ba Lan chính là quê hương của vị nhạc sỹ huyền thoại và ngay tại công viên Lazienki, người ta tổ chức hòa nhạc piano miễn phí ngay tại khuôn viên vào cuối tuần. 


Vào dịp mùa cưới, các đôi uyên ương lại lui đến đây để chụp cho mình những album cưới để đời. Đó cũng là dịp để các con thuyền kiểu Venice kiếm chác tý tiền. 


Nằm giữa trung tâm công viên là Palac na Wyspie, tạm dịch là cung điện trên nước. Công trình này được xây trên một hòn đảo nhân tạo nằm giữa hồ, tất cả được nối với đất liền bằng hai chiếc cầu đá. Ở bên trong, nội thất được thiết kế theo kiểu đầu thế kỷ 19. Nếu không đọc trước thông tin, chắc tôi cũng chẳng biết được rằng trước mắt tôi chỉ là phiên bản trùng tu được xây lại hoàn toàn trên đống đổ nát cũ. Phát xít Đức cho thiêu cháy toàn bộ cung điện năm 1944 và tịch thu toàn bộ đồ cổ bên trong. Những gì có bây giờ tuy đều là fake nhưng các chi tiết đều được tạo ra một cách chi li, sao cho đúng với phiên bản gốc. 


Điểm dừng chân cuối cùng của trục đường hoàng gia là cung điện Wilanow, nơi nghỉ dưỡng mùa hè của vua Ba Lan xưa kia. Nằm khá xa trung tâm (khoảng 10km về phía nam), tôi chọn phương án đi xe bus để tiết kiệm thời gian. Khác với tất cả công trình cổ khác ở Warsaw, cung điện này may mắn thoát khỏi sự tàn phá của chiến tranh và nhờ đó vẫn giữ được nguyên dáng vẻ gốc. Trong con mắt người Ba Lan. Cung điện Wilanow được sánh ngang với quần thể lâu đài Versailles của Pháp. So sánh như vậy là vì cấu trúc của nó chịu nhiều ảnh hưởng của nước Pháp đặc biệt là phần vườn tược. 


 Nói đến cung điện này thì phải nói đến cái tên vị vua Sobiesky, người đã từng ở đây vào thế kỷ 18. Thực ra, ông này thì cũng không có nhiều điều nổi bật hơn những vị vua khác ngoài việc đánh đuổi được giặc Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, điều khiến tôi nhớ được tên ông ta là do vị vua này đại diện cho một thời kỳ chính trị rất đặc biệt của vương quốc Ba Lan thế kỷ 18 : một kiểu lai tạp ngộ ngĩnh giữa chế độ phong kiến vua chúa và chế độ cộng hòa. Vua ở đây không theo chế độ cha truyền con nối mà được bầu lên như kiểu tổng thống (vì thế nên được gọi là cộng hòa). Các phiếu bầu chủ yếu tập trung vào quốc hội với thành viên chủ yếu là giới quý tộc. Họ có thể bầu bất cứ ai có tài không quan trọng quốc tịch. Chính vì thế, phần lớn người lên ngôi vua ở Ba Lan vào thời kỳ đó đều là người ngoại quốc : Thụy Điển, Hungary, Pháp, Đức…Bản thân Sobeski xuất thân là tầng lớp quý tộc chứ không có giòng máu hoàng gia gì với vị vua cầm quyền trước đó. 


 Hết vua ở thì lại đến các gia đình quý tộc ở, cung điện Wilanow qua tay nhiều chủ khác nhau và mỗi một lần đổi chủ là lại có một chút thay đổi về kiểu cách nội thất cũng như cách bài trí vườn tược tùy theo thị hiếu của từng thời kỳ. Khuôn viên thượng uyển ở đây là một sự hòa trộn của nhiều trường phái qua nhiều thế kỷ : dòng barốc kiểu Pháp-Ý thế kỷ 17, dòng lãng mạn kiểu Anh-Trung Quốc đầu thế kỷ 19, dòng Anh Quốc thế kỷ 18


Nếu như hai ngày khám phá đầu tiên tập trung vào các công trình cổ, cái nôi lịch sử của Warsaw thì ngày thứ ba của tôi tập trung vào lịch sử cận đại nhiều hơn. Và giai đoạn mà tôi quan tâm tìm hiểu là từ thế chiến thứ hai đến khi bức tường Berlin sụp đổ. Warsaw ngày nay có mối quan hệ mật thiết với quá khứ của nó. Trong suốt thời gian tôi nán lại thủ đô, tôi bắt gặp rất nhiều đài tưởng niệm liên quan đến nạn nhân chiến tranh. Đối với tôi, hiểu được Ba Lan thời kỳ thế chiến có thể là một điều hữu ích để hiểu được người Ba Lan ngày nay và quan hệ của họ với các nước láng giềng. Thế là tôi quyết định thăm viện bảo tàng Museum of Insurrection để có được một cái nhìn tổng quan vào thời kỳ này. Khánh thành vào năm 2004, viện bảo tàng như một thông điệp vạch trần một sự kiện lịch sử bị các thế lực chính trị phương Tây cố tình ỉm đi. 


  Gọi là insurrection (cuộc nổi dậy) là để nhớ lại cuộc chiến đấu kiên cường của nhân dân thủ đô vào giai đoạn cuối của thế chiến. Vào năm 1944, Hồng quân Liên Xô đang trên đà mạnh mẽ tiến về nước Đức và chắc chắn phải băng qua lãnh thổ Ba Lan.  Không muốn để số phận của mình vào tay bất cứ ai (cả Nga và Đức), người dân thủ đô tự quyết định số phận của mình bằng một cuộc nổi dậy đẫm máu. Quân đội Đức đang chiếm đóng ở Warsaw không ngờ đến một sự kiện táo bạo như vậy trong suốt 5 năm trên đất Ba Lan. Bằng chiến thuật đánh du kích đường phố, người dân thủ đô nhanh chóng nắm kiểm soát hầu hết các đường phố, khiến cho quân Đức buộc phải gọi thêm quân tiếp viện thuộc loại thiện chiến nhất lúc bấy giờ. Nhờ đó, quân Đức lật lại thế cờ và tàn sát hầu hết dân số Warsaw  và đánh sập 85% công trình kiến trúc.  


Theo tôi, đây là một trong những viện bảo tàng lịch sử tốt nhất trong số vài chục điểm tôi đã từng thăm trên thế giới, trên phương diện bài trí để du khách dễ hiểu. Các vật dụng như súng, quang cảnh đương phố được dựng lại như thật khiến cho du khách như thể sống lại thời điểm năm 1944. Khắp nơi, người ta thiết kế lắp đặt âm thanh bom đạn và điện đàm radio rất khéo léo. Đó là những kỹ thuật tiên tiến mà tôi cũng đã được biết đến khi thăm vùng đổ bộ Normandie (phía Bắc nước Pháp). Các viện bảo tàng lịch sử của Việt Nam còn phải học nhiều điều để đạt được đẳng cấp đó. Cái quan trọng ở viện bảo tàng Museum of Insurrection là việc thông điệp đưa ra hoàn toàn không mang tính chính trị hóa mặc dầu nó nói về tình yêu nước của người dân thủ đô. Ở Việt Nam, lòng yêu nước của người dân luôn bị đưa ra dưới cái bóng quá lớn của Đảng. 

Ở một nơi khác, tôi còn thấy một đài tưởng niệm kháng chiến bảo vệ thủ đô. Cái kiểu cách điêu khắc và chất liệu thì mang đạc tính tuyên truyền xã hội chủ nghĩa, rất quen thuộc với những quốc gia xưa kia theo trường phái Xô Viết (trong đó có Việt Nam). Do vấn đề ngoại giao tế nhị với Liên bang Xô Viết, đài tưởng niệm này chỉ được xây vào năm 1989, thời điểm đế chế Xô Viết sụp đổ. Nguyên nhân là do đài tưởng niệm tung hô sự nổi dậy của người dân thủ đô trong thời điểm mà có nhiều nghi vấn quanh việc chính Hồng quân Liên Xô cố tình móc ngoặc với phát xít Đức để triệt tiêu Warsaw. Theo rất nhiều người Ba Lan kể lại cho tôi, nước Nga chưa bao giờ có nhã ý giúp đỡ giải phóng Ba Lan trong thế chiến. Tất cả chỉ là giả tạo và lạ thay trong những cuốn sách giáo khoa lịch sử trong trường học Việt Nam, Nga nhiễm nhiên là một anh hùng giải phóng các quốc gia Đông Âu. Con cháu những người dân thủ đô hi sinh trong năm 1944 ấy vẫn còn thù hằn sự lặt lọng của Nga, hứa cứu viện nhưng rồi bỏ mặc cho hơn 20.000 sinh mạng tự thân vận động và bỏ thây trong biển máu. Những ai còn sống sót sau thế chiến thì lại bị đối xử rất tệ bạc trong vài thập kỷ sau đó, dưới một thế lực khác : chủ nghĩa cộng sản. Bị đối xử tệ bạc, nhưng những người sống sót ấy không quên truyền lại cho con cháu họ lòng yêu nước. Chính những người con này, trưởng thành vào những năm 1970-1980, đóng góp vào sự sụp đổ không thể tránh khỏi của hệ thống cộng sản Đông Âu cũng như đế chế Xô Viết.  

Chế độ cộng sản, đó chính là điểm nhấn thứ hai nếu nói về lịch sử Warsaw thờ hậu chiến tranh. Thế chiến qua rồi, tưởng như ác mộng phát xít Đức sẽ nhường chỗ cho hòa bình nhưng không, người Ba Lan còn phải chịu thêm vài thập kỷ dưới sự can thiệp chính trị của người Nga. Và đi kèm với chính trị là những ảnh hưởng về mặt kiến trúc, có thể nhìn thấy rất rõ ở Warsaw ngày nay. Tôi thấy rất nhiều tòa nhà cao tầng với chất liệu thép và kính xây theo trường phái Staline vào đầu những năm 1990. Dòng kiến trúc này pha trộn với những tòa nhà trùng tu theo lối kiến trúc cổ khiến cho người ta có cảm giác như Warsaw là một mớ hổ lốn chẳng ra đâu vào đâu…chí ít thì đó là lời khẳng định chủ quan của chính những người dân sống ở thủ đô. 

kiểu dáng tramway này rất phổ biến ở các quốc gia chịu ảnh hưởng của Nga. Tôi đi qua Ba Lan, CH Séc, Hungary và đều thấy cùng một trường phái
Cũng phải thôi, sau thế chiến thứ hai, thủ đô Warsaw cũng như nhiều quốc gia Trung và Đông Âu khác chịu sự chi phối rất lớn từ “người anh em” Nga. Người Nga gây tác động phía sau để cho xây lên rất nhiều công trình kiến trúc theo chủ nghĩa cộng sản để phô trương tầm ảnh hưởng ở các quốc gia được cho là bộ xậu của họ. Điển hình nhất chính là cung văn hóa và khoa học được coi như một trong những biểu tượng của thủ đô, một quà tặng của Staline năm 1951. 


 Tuy nhiên, người dân Warsaw chẳng lấy gì làm hãnh diện với sự tồn tại của nó. Cũng phải thôi, trong những năm chiến tranh lạnh, người Nga ăn hiếp hầu hết các quốc gia Liên Xô cũ. Họ cho xây những tòa nhà hoành tráng như cung văn hóa để thể hiện sự nổi trội của nền văn minh Nga tại các nước Đông Âu, hay nói cách khác, sự đô hộ của họ. Chấp nhận sự tồn tại của nó tức là chấp nhận sự thống trị của Nga. Và đó là lý do vì sao người Ba Lan phủ nhận tòa nhà nay như một di sản quốc gia. Vào những năm 1960, một câu cửa miệng mang tính châm biếm của Ba Lan đã thể hiện rất rõ quan điểm này : “người dân hạnh phúc nhất của Warsaw chính là người gác cổng cho cung văn hóa, bởi vì khi anh ta đứng ở đó thì anh là người duy nhất  không nhìn thấy cung văn hóa…”. Trước khi có cái tên cung văn hóa và khoa học, tòa nhà này có tên…Joseph Staline. Qua dễ hiểu tại sao người Ba Lan phải đổi tên. Hãy cứ tưởng tượng cung văn hóa hữu nghị Việt Xô của mình có tên là Hồ Cẩm Đào hay Đặng Tiểu Bình. 


Cung văn hóa : nhìn từ trên cao xuống, có thể thấy rằng bộ mặt thủ đô cũng hiện đại chẳng khác gì mấy so với nhiều thành phố Châu Âu khác.

Thời gian trôi đi thật nhanh và tôi đã ở thành phố Warsaw được 4 ngày rồi. Ấy thế mà tất cả những gì tôi thăm được mới chỉ nằm vỏn vẹn bờ tây của thủ đô. Bên kia dòng sông Vistule là một thế giới khác, thế giới của người dân địa phương, không mấy địa danh du lịch, không mấy du khách ngoại quốc. Nhưng điều đó không có nghĩa là không có ngoại quốc, thậm chí còn rất nhiều là khác. Tôi đang nói đến khu chợ giời Targowisko Bakalarska, lớn bậc nhất Châu Âu, nơi có rất nhiều dân buôn bán ngoại quốc đến từ 5 châu, từ Việt Nam, Bulgaria, Châu Phi…Thật đáng tiếc là khu chợ này không còn tồn tại nữa, nó đã bị phá hủy để xây sân vận động chuẩn bị cho Euro 2012. 

kiểu bán hàng rất chi là Việt Nam
 Giờ đây, khi viết blog này, tôi chỉ còn cách hồi tưởng lại thời hoàng kim của khu chợ cách đây 7 năm, nơi mà người địa phương vẫn thường gọi là “chợ Nga”, có lẽ là do có nhiều băng đảng xã hội đen, mà tại cái đất Ba Lan này, cái gì xấu xa nhất đều gán cho bọn Nga hết. Lạc vào chốn chợ giời này, tôi như lạc vào một ốc đảo đa sắc tộc trong một đất nước mà 96% là chủng tộc Ba Lan. Ấy thế mà tại xứ chợ giời này, cứ trên 100 người thì 1 người gốc Việt Nam. Đây chính là điểm nhấn quan trọng nhất trong chuyến viếng thăm bờ đông của Warsaw. Trước khi đến Ba Lan, tôi hoàn toàn mù tịt chẳng biết gì về cuộc sống cộng đồng Việt Nam tại các nước Liên Xô cũ. Tất cả những gì tôi được nghe nói đến thì không tốt lắm : trộm cướp, mafia, buôn lậu, vượt biên…

chợ giời đầy ắp quần áo giá rẻ treo giá theo tiền tệ Ba Lan
 Vậy sự thực về cộng đồng kiều bào ở Warsaw như thế nào? Cũng như bên Nga, cộng đồng Việt Nam ở đây thuộc dạng khủng nhất trong số dân nhập cư. Thế hệ nhập cư đầu tiên đến từ những năm 1950, giai đoạn Việt Nam gia nhập CLB các nước cộng sản. Những làn sóng nhập cư mạnh nhất phải kể đến những năm 1980, giai đoạn hấp hối của khối Xô Viết và cũng là giai đoạn chế độ chính trị bê bết của Việt Nam đang dồn những người con yêu dấu phải dứt áo ra đi để tìm một tương lai tươi sáng hơn. Người Ba Lan nghĩ gì về người Việt tại đây? Có lẽ cũng khá giống với rất nhiều người Việt ở các quốc gia Châu Âu khác : họ không hoàn toàn hòa nhập vào xã hội địa phương, họ làm việc rất chăm chỉ , có lòng tự trọng nhưng không mấy khi có nhiều cơ hội tiếp xúc với dân địa phương ngoài phương diện mua bán thương mại. Rất nhiều người dân thủ đô không biết sự tồn tại của một xã hội Việt Nam ngay trong lòng nước Ba Lan, không biết nó nằm ở khu vực nào. Tôi tình cờ bắt chuyện với một chị bán hàng quần áo ở khu chợ và nhanh chóng nhận được sự niềm nở của chị (cũng quê Hà Nội như tôi). Rất nhanh, chúng tôi rôm rả nói chuyện như những người bạn biết nhau từ lâu và tôi được chị mời về nhà ăn bữa cơm gia đình. Qua cuộc nói chuyện thân mật trong vòng 3 tiếng, tôi biết thêm được nhiều điều bổ ích từ cuộc sống của Việt kiều trên đất Ba Lan. Điều làm tôi ấn tượng là sự chuyển giao thế hệ từ những bậc cha mẹ nhập cư những năm 1960-1980 và con cái họ. Những đứa trẻ này khi đã trưởng thành rồi thì hầu như không cảm thấy mình là người Việt Nam nữa mà là người Ba Lan chính thống. Có thể họ nói một chút tiếng Việt, tham gia các hoạt động văn hóa theo truyền thống cha mẹ (Tết nguyên đáng) hoặc về Việt Nam thăm vài lần nhưng có một điều chắc chắn : họ là người Ba Lan 100% và sẽ lập nghiệp và chết đi tại đây. 
Có thể nói cuộc khám phá cộng đồng Việt Nam ở Warsaw đã đánh thức trí tò mò, khiến tôi tìm đọc thêm nhiều tài liệu nghiên cứu của các chuyên gia và nhờ đó, có được những đánh giá chính xác hơn về họ. Tôi chỉ lấy một ví dụ rất đơn giản : Việt Kiều ở Pháp và ở Đông Âu không hề giống nhau mặc dầu cùng là người Việt. Nếu như làn sóng di cư sáng Pháp bắt đầu ngay từ những năm sau Điện Biên Phủ thì bên phía Đông Âu chủ yếu bắt đầu vào những năm sau kháng chiến chống Mỹ. Đối tượng di cư cũng không giống nhau. Người sang Pháp có rất nhiều thành phần tư sản hoặc thương nhân có tri thức rất cao, sau khi giặc Pháp thua, do sợ bị chế độ cộng sản thủ tiêu nên phải trốn chạy sang Pháp. Con cái thế hệ này được cho ăn học tử tế nên có trình độ văn hóa cao và sau này tìm được những vị trí công ăn việc làm khá là ngon. Còn đối với cộng đồng Việt Nam ở Đông Âu thì sao? Có rất nhiều xuất khẩu lao động hoặc sinh viên sang học đại học rồi trốn ở lại đi buôn. Đấy là chưa kể các làn sóng thuyền nhân vượt biên (boat people) gia nhập vào những năm 80. Vì thế, có thể nói trình độ văn hóa của họ thấp hơn rất nhiều. Ở Ba Lan, thật khó có thể kiếm được một người Việt Nam nào làm nghề khác ngoài nghề đi buôn.  

<<<CÒN TIẾP>>>

Wednesday, 5 December 2012


Sống theo đạo đức của Bác Hồ 
Đi phượt theo kiểu Thái Ba Lô
Ngàn người chẳng mấy ai có dịp
Trèo đèo lội suối gặm lương khô

Saturday, 3 November 2012


Nói thật là khu vực Baltic chưa bao giờ là vùng đất ưa thích của tôi. Nguyên nhân chính cũng là do hình ảnh của vùng này qua mờ nhạt trong con mắt tôi và ngay cả số lượng các đầu sách hay cẩm nang du lịch cũng nói lên điều đó. Tôi còn nhớ thời điểm săn tìm tài liệu ở nhiều thư viện thành phố ở Paris, quả thực là không dễ dàng. Nhưng cuối cùng, có 2 nguyên nhân khiến tôi quyết định chọn dành gần 10 ngày đặt chân đến vùng này : thứ nhất cả Estonia, Litva và Latvia đều đã gia nhập khối Schengen năm 2004 nên tôi không mất visa, thứ 2 có tuyến bay giá rẻ của Ryanair và Easyjet.

Khu vực biển Baltic là một ví dụ điển hình chứng minh cho tiêu chí du lịch của tôi. Tôi rất hiếm khi đi hẳn một lèo thăm nhiều quốc gia một lúc. Điều đó chỉ xảy ra khi tôi chủ ý muốn kết hợp thăm những quốc gia đó để phục vụ cho việc tìm hiểu sâu hơn về một khía cạnh kiến thức nào đó. Trong trường hợp của các quốc gia Baltic, mục đích khám phá của tôi trước hết là về mặt địa lý. Các bạn hãy tưởng tượng một trò chơi puzzle xếp các mảnh vỡ và Châu Âu là một bức tranh hoàn chỉnh. Bức tranh puzzle của tôi còn một số chỗ hổng và trong đó có một lỗ to đùng nằm giữa Phần Lan, Nga và Ba Lan. Mục đích thứ hai là về văn hóa, tôi chỉ biết qua là vùng Baltic trong qua khứ luôn là lãnh thổ chịu sự đô hộ của nhiều nền văn hóa khác nhau : Ba Lan, Đức, Nga, đủ cả. Câu hỏi mà tôi đặt ra là sau gần một thiên niên kỷ bị áp đặt văn hóa như vậy, suy cho cùng, đâu là nền văn hóa hiện nay của 3 quốc gia. Đọc sách thì quả thật hơi khó mường tượng. Phải đến trực tiếp và cảm nhận, chỉ có vậy mới giúp tôi hiểu thấu đáo vấn đề.

Việc cả 3 quốc gia Estonia, Litva và Latvia thường được gộp vào thành một cái tên chung « các quốc gia Baltic » có thể có lý do riêng của nó. Cả 3 quốc gia anh em này đều có điểm chung là nằm ven biển Baltic và trong suốt qua trình lịch sử từ khi khai sinh lập địa, cả 3 đều luôn phải chịu đựng sự đô hộ của các thế lực vây quanh như Đức, Ba Lan, Thụy Điển, Đan Mạch và Nga.  Cả 3 quốc gia Baltic đều sinh ra vào thế kỷ 12 sau CN vào thời điểm xuất hiện hệ thống thương mại Hanse. Nói chính xác hơn, Hanse là liên minh tập hơn gần 30 thành phố cảng ven các vùng biển Baltic và Bắc Âu với nhiệm vụ là đoàn kết để trở thành một hiệp hội kinh tế đủ lớn để giao lưu với các khu vực khác của Châu Âu đặc biệt là Địa Trung Hải.  Nằm kẹp giữa Ba Lan phía tây và Nga phía Đông, 3 quốc gia Baltic tuy có lợi thế gần biển nhưng lại không có may mắn như những thành phố cảng khác trong khu vực. Họ luôn phải đề phòng sự tấn công của nhiều thế lực xung quanh, không phải cướp biển thì cũng là sức ép từ phía Đan Mạch hoặc những cuộc tấn công của người Phổ trong suốt thời Trung Cổ. Từ thời trung cổ đến thế kỷ 20, chưa bao giờ các lãnh thổ khu vực này được hưởng giây phút độc lập hoàn toàn, không bị người Ba Lan phía tây sát nhập vào vương quốc của họ thì cũng bị người Nga phía Đông sở hữu lại. Cái mà tôi hay bất cứ du khách nào đến đây phải thán phục, đó là ý chí dân tộc và chủ quyền của họ. Bất chấp sự đô hộ vài trăm năm của các thế lực láng giềng, họ đã biết cách lĩnh hội các nét văn hóa nước ngoài kết hợp với truyền thống địa phương để tạo ra một nền văn hóa mới hết sức độc đáo. Đến thăm 3 quốc gia Baltic, tôi bị ấn tượng ngay bởi sự pha trộn giữa 3 nền văn hóa xưa kia đã từng là kẻ đô hộ trên quốc gia của họ : slavơ (đến từ Nga và Ba Lan) , giéc-manh (đến từ Đức) và scandinavia (đến từ Đan Mạch và Thụy Điển).

Hành trình của tôi bắt đầu từ đất nước Lituania. Hãng hàng không Ryanair oái oăm không thiết lập đường bay thẳng từ Paris đến thủ đô Vilnius mà lại đặt đại bản doanh ở thành phố Kaunas cách đó đến gần 100km. Đã thế, giờ giấc thì cực xấu đến nơi thì cũng đến nửa đêm. Nhưng mà thôi, giá rẻ thì chỉ được vậy thôi. Ra khỏi sân bay thì tôi thấy sẵn một biệt đội ô tô chờ sẵn để đón khách đi Vilnius, chắc cũng chỉ đợi chuyến bay của tôi vì đây là chuyến bay cuối cùng. Thế là mất đứt ngày đầu tiên.
Buổi sáng hôm sau, tôi háo hức tiến hành cuộc khám phá Vilnius nhưng khá bất ngờ với quy mô khiêm tốn của thủ đô. Dân số nước này cũng chỉ xấp xỉ 2 triệu, ấy thế mà trong quá khứ, đất nước Lituania là một lãnh thổ rộng lớn (có lúc kéo đến tận nước Ucraina và Belarus) và là một công quốc độc lập trong vòng 500 năm. Theo sổ sách, Lituania là đất nước có bề dày lịch sử lâu đời hơn so với Estonia và Latvia. Ngay từ thế kỷ 13 sau CN, tòa thánh Vatican đã công nhận Lituania là một vương quốc theo đạo thiên chúa và chịu ảnh hưởng của nền văn minh Châu Âu. Khoảng thời gian từ 13 đến 16 là thời kỳ phồn thịnh nhất của quốc gia này khi công quốc Lituania xát nhập nhiều lãnh thổ xung quanh trong đó có Ba Lan, Ucraina và Belarus và trở thành vương quốc rộng nhất của Đông Âu. Đó là những gì tôi đọc được trong cẩm nang du lịch nhưng phải nói thật là tôi không mấy ấn tượng với những gì còn lại ngày nay, có lẽ là vì đất nước Lituania nói riêng và các quốc gia Baltic nói chung đã phải chịu quá nhiều tàn phá trong vòng vài trăm năm đấy tranh để bảo vệ chủ quyền.

Lại nói về vấn đề chủ quyền, đặt chân đến xứ sở Baltic, tôi đã học thêm nhiều điều về bộ mặt thật của nước Nga với cái quá khứ xã hội chủ nghĩa thối nát của chúng. Giáo trình lịch sử của Việt Nam quá đỗi tung hô nước Nga như một vị anh hùng đánh bại chủ nghĩa phát xít. Thế nhưng càng đi thăm các quốc gia thuộc xã hội chủ nghĩa cũ bao nhiêu (Ba Lan, Estonia, Lituania, Latvia, Romania, Hungary, Cộng Hòa Séc, Slovakia) thì tôi càng thấy bọn Nga đáng khinh thường bấy nhiêu. Để dễ so sánh, Việt Nam ta ghét bọn Trung Quốc thế nào thì nước Lituania nói riêng và các nước Trung Âu nói chung ghét bọn Nga như thế. Nếu nói trắng ra, trong con mắt các quốc gia này, Nga chính là « phát xít » phiên bản bêta. Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, thoát khỏi thằng Đức sau gần 6 năm chịu khổ trong thế chiến thứ hai, họ lại rơi vào cảnh bị « ông anh cả » Nga áp bức trong vòng vài chục năm cho đến khi bức tường Berlin sụp đổ năm 1989. 

Hễ một thành phố nào có bề dày lịch sử hơn 500 năm thì ngay lập tức sẽ có những câu chuyện thú vị xoay quanh sự khai sinh của nó. Vilnius không nằm ngoại lệ.  Tại đỉnh ngọn đồi Gedimino, trái tim của thủ đô, đã xảy ra một sự tích với kiểu cách giống như chuyện vua Lý Thái Tổ cho rời đô về Thăng Long. Truyền thuyết kể rằng quận công Gediminas đã ngủ mơ thấy một con sói bằng sắt khổng lồ xuất hiện trên đỉnh một ngọn đồi và cất tiếng rú như thể có hơn 100 con sói đang rú. 


Khi tỉnh dậy lúc bình minh, quận công kể lại giấc mơ cho một vị tu sĩ và ông này nói rằng đó là điềm báo rằng Gedimino sẽ trở thành nhà lãnh đạo của một vùng đất rộng lớn và cần phải cho xây một pháo đài trên đỉnh ngọn đồi nơi con sói cất tiếng rú. Đó là nguồn gốc của ngọn đồi Gedimino. Vị quận công Gediminas đăt tên thủ đô là Vilnius, phỏng theo tên con sông Vilnia chảy dọc thành phố. Ngày nay, chiếc pháo đài hình bát giác vẫn ngự trị ngọn đồi mang tên vị quận công trước kia. Từ đỉnh đồi có thể nhìn thấy toàn cảnh thành phố Vilnius với những nóc nhà ngói đỏ và những ngôi nhà tường nhiều màu.  

 
Khi xuống đồi rồi, tôi bắt đầu chuyến khám phá trung tâm thành phố Vilnius. Thành phố nói chung là nhỏ, chỉ bằng quận Ba Đình của Hà Nội nên tôi chỉ mất một buổi sáng là coi như thăm được hết. Không quá khó để xác định phương hướng vì quanh đi quẩn lại cũng chỉ có một vài trục đường chính trong đó có đường Pilies, được coi như đại lộ Champs-Elysees của Vilnius với rất nhiều quán càphê tấp nập. Xưa kia, hoàng gia và các phái đoàn đi sứ đều dùng con đường này để đến lâu đài hoàng gia. 
Tuy sinh ra từ rất sớm vào thời trung cổ nhưng những di tích từ thời kỳ này không còn mấy. Chỉ lác đác đây đó những bức tường thành đánh dấu rõ biên giới giữa nội thành và ngoại thành. 



 Nếu như trước kia có 9 cổng thành thì ngày nay chỉ còn lại đúng một cái có tên là Gate of Dawn, không còn giá trị gì về mặt quân sự nhưng lại trở nên nổi tiếng nhờ chứa bức ảnh của đức mẹ đồng trinh Maria. Người ta nói rằng bức ảnh này rất linh thiêng, trong quá khứ đã từng là thần hộ mệnh giúp cho Vilnius đánh lui được biết bao nhiêu cuộc xâm lăng của các thế lực xung quanh. 


Toàn bộ khu phố cổ của Vilnius đều được Unesco công nhận là di sản văn hóa thế giới. Định nghĩa « phố cổ » ở đây, về mặt địa lý, rộng hơn so với khu phố cổ vốn dĩ tồn tại từ thời trung cổ bị giới hạn trong  vành đai tường thành. Khu phố cổ mà Unesco công nhận còn bao gồm một phần ngoại ô, trong đó đáng kể nhất là khu phố Uzupis, được mệnh danh như là « nước cộng hòa » của dân nghệ sĩ. Uzupis có quốc ca riêng, bộ máy chính quyền riêng, tổng thống riêng ! Khu phố còn có cả « quân đội » riêng với…12 người. Nghe như kiểu Vatican giữa lòng nước Ý. 


Trung tâm phố cổ của Vilnius còn sót lại khá nhiều tòa nhà tráng lệ, chứng minh cho một quá khứ hào hùng của một thành thị được coi là trung tâm thương mại một thời của Đông Âu. Vậy, điều gì khiến Vilnius giàu có ? Đó chính là nhờ ngành công nghiệp khai thác và xuất khẩu đá amber, một loại đá quý chỉ có ở ven biển Baltic. Nếu nối lại chuyến viếng thăm thành phố cảng Gdansk (Ba Lan) năm 2005 thì tôi đã hiểu rõ hơn phần nào về loại đá quý này. 


Hầu như ở bất cứ nơi nào đã từng trao đổi buôn bán mặt hàng này thì ngày nay đều có một viện bảo tàng giải thích lịch sử phát triển của nó. Tại Vilnius cũng vậy. Đá amber có nguồn gốc từ nhựa thông ở thềm đáy biển Baltic và trải qua nhiều triệu năm hóa thạch chuyển hóa thành đá cứng có màu giống mật ong và trong suốt. Vào thời kỳ trung cổ, đây là một mặt hàng xa xỉ giúp cho nhiều thành phố ven biển Baltic phất lên, trong đó có Vilnius. Viện bảo tàng Amber Museum Gallery ở Vilnius có một gian trưng bày các sản phẩm đá amber rất đẹp mắt  


Cũng tại khu trung tâm này, tôi khám phá ra một nét lịch sử khác khá thú vị : Vilnius xưa kia là một nơi đón nhận cộng đồng Do Thái lớn nhất Châu Âu chỉ đứng sau Jerusalem. Chính vì lý do này mà Vilnius được mệnh danh là « Jerusalem của phương Bắc ». Trước chuyến đi đến đây, tôi luôn lầm tưởng rằng Ba Lan mới là quốc gia có cộng đồng do thái lớn nhất Châu Âu, có lẽ là do nhầm lẫn với số lượng người bị giết ở trại tập trung Auswitz. Theo số liệu thống kê, trước thế chiến thứ hai, dân số gốc do thái ở thủ đô Vilnius chiếm đến 40% tức là khoảng 100.000 người. Số lượng nhà thờ do thái thì nhiều vô kể, gần như cứ một con phố thì có đến gần 10 cái. Hồi ấy, tiếng do thái được sử dụng rất phổ biến ở thủ đô và là một trong những ngoại ngữ chủ đạo. 


Thế nhưng trong thế chiến thứ hai, người do thái nơi đây đã chịu cảnh tàn sát của Đức quốc xã để rồi chỉ còn lại vỏn vẹn gần 5000 người ngày nay.  Khu phố này giúp tôi hiểu rõ hơn phần nào định nghĩa của dân tộc do thái, một điều không phải đơn giản. Người ta thường thì chỉ biết nhiều hơn về những giai đoạn tăm tối của dân tộc do thái thời kỳ thế chiến thứ hai, khi mà phát xít Đức bắt bớ và dồn họ ở những trại tập trung rồi giết hại họ. 



Thế nhưng không có nhiều thông tấn xã nói về giai đoạn sinh sống của dân tộc này trước đó. Tại Vilnius, ngay từ thế kỷ 16 thì cộng đồng do thái đã sinh sống rất đông, thậm chí còn được quận công Lituania đặc ân lập hẳn một khu phố giữa lòng thủ đô. Thế nhưng họ đã bị Đức quốc xã giết hại 90%. Sau khi Đức quốc xã cho giết hầu hết, những ngôi nhà còn sót lại thì bị liên bang Xô Viết phá hủy vào những năm sau thế chiến thứ hai. 



Cái này thì cũng không chỉ riêng nước Lituania và là tình cảnh trung của phần lớn lãnh thổ ven rìa Liên Bang Nga. Giới chóp bu đảng xã hội chủ nghĩa không khoái những gì liên quan đến tôn giáo (thiên chúa giáo hay đạo do thái) nên đàn áp hết, bao gồm cả cộng đồng thiên chúa ngay trong lòng nước Nga. Những gì còn lại của di sản văn hóa do thái tại Vilnius gần như là con số không ngoài lèo tèo mấy cái đài tưởng niệm và một nhà thờ do thái. Ngần ấy là không đủ để tôi có thể mường tượng ra tầm quan trọng của cộng đồng này trong quá khứ.  

Nếu tổng kết ấn tượng đầu tiên của tôi về thành phố Vilnius, có thể nói rằng tôi không thấy có nhiều ảnh hưởng của văn hóa Nga. Ngược lại, về mặt kiến trúc, tôi lại thấy có nét gì đó rất giống một thị trấn văn hóa Đức thời trung cổ. Sở dĩ tôi có cảm nhận này vì năm 2005, tôi đã từng khám phá miên bắc Ba Lan và ở đó cũng có một số công trình kiến trúc đặc trưng kiểu Đức thời trung cổ, ví dụ như thành phố cảng Gdansk hay pháo đài Malbork. Người Đức xưa kia cũng đã từng nắm giữ Lituania vào cùng thời kỳ, có thể ảnh hưởng kiến trúc bắt nguồn từ thời kỳ đó. Cảm nhận của tôi càng rõ nét hơn khi thăm lâu đài Trakai, cách thủ đô Vilnius chỉ tầm 30km với kiểu xây dựng bằng gạch nung, đúng là kiểu Đức trung cổ. 


Với nhiều tuyến xe bus, không khó để đến được nơi từng được cho là thủ đô thứ hai của Lituania. Được xây dựng vào thế kỷ 15 với mục đích làm tấm bình phong bảo vệ thủ đô Vilnius, lâu đài Trakai sau đó trở thành nơi ở thường trực của nhiều thế hệ quận công Lituania và nhờ thế trở thành một trung tâm chính trị quan trọng thứ hai chỉ sau thủ đô. 



Khi mà đất nước Lituania bị sát nhập vào đế chế nga hoàng thì cũng là lúc lâu đài Trakai bị rơi vào quên lãng và xuống cấp trầm trọng. Những gì mà chúng ta nhìn thấy ngày nay là thành quả của công cuộc trùng tu lâu đài từ những năm 1950. Nếu không có sự can thiệp kịp thời của chính phủ Lituania, có lẽ Trakai chỉ còn là một đống gạch vụn. Theo nhiều nguồn thông tin, Trakai là điểm hút khách tham quan thứ hai của cả nước. Nói thành thật, nếu mà để đem ra so sánh với rất nhiều lâu đài tôi đã từng thăm trước đó ở nhiều quốc gia Châu Âu, Trakai không thể so bì được, cả về thâm niên, độ hoành tráng cũng như sự tinh hoa nghệ thuật. Tuy nhiên, nếu nhìn vào đất nước Lituania một cách tổng thể, có thể nhận thấy rằng Trakai tuy chỉ có 600 năm tuổi nhưng là một trong số hiếm công trình lịch sử còn sót lại tại một quốc gia chịu nhiều tàn phá của chiến tranh. Có lẽ nhờ sự hiếm có ấy mà Trakai mới có giá trị đến như vậy. 



 Để đến được cổng thành lâu đài, tôi phải đi mem theo ven hồ và qua những con đường làng rất lãng mạn. Cũng nhờ đi qua các con đường này mà tôi có dịp khám phá một nét lịch sử thú vị về một cộng đồng người thiểu số có tên là Karaite. Vào thế kỷ 14 sau CN, quận công Lituania đã chiêu mộ người Karaite phục vụ cho việc phòng thủ lâu đài Trakai.


Sự thú vị ở đây nằm ở nguồn gốc và phong tục tập quán của bộ tộc này. Vào những thế kỷ đầu lúc khai sinh lập địa ra nước Lituania, có rất nhiều mối nguy hiểm đến từ xung quanh, đặc biệt là người tatar (tổ tiên của người Mông Cổ). Quận công Lituania chiêu mộ người Karaite từ bán đảo Crimea (nay thuộc Ukraina). Ông ta tin tưởng vào sự trung thành của họ vì đã từng sát cánh cùng họ trong một số cuộc chiến ở trên lãnh thổ Ukraina ngày nay. Người Karaite có tên gọi như vậy là vì họ theo đạo karaism, một nhánh của đạo do thái và có nguồn gốc từ nước Irak xa xôi. Kính nể sự tin tưởng của nhà vua và cũng do nhu cầu cần tìm một nơi trú chân bền vững lâu dài, rất nhiều người karaite định cư dọc biên giới phía bắc của Lituania với nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. 


Quay lại với lâu đài Trakai, tôi không mất quá nhiều thời gian để thăm hết một vòng bên trong, chắc chỉ hết tầm 1h. Đối với tôi, ấn tượng lớn nhất mà tôi có được là viện bảo tàng lịch sử, nằm ngay trong khuôn viên. Những hiện vật, đặc biệt là các trang phục truyền thống cho phép du khách có mường tượng cụ thể về cuộc sống của người dân Lituania thời trung cổ.  


Hành trình khám phá trên lãnh thổ Lituania của tôi khá ngắn ngủi, chỉ nằm vỏn vẹn trong vòng 3 ngày. Sau khi thăm thủ đô Vilnius, tôi bắt xe quá giang qua thành phố Kaunas rồi tiến thẳng đến nước Latvia láng giềng. Tuy nhiên, do thời gian đi đường cũng như chờ đợi quá lâu, tôi phải tính đến nước ngủ tạm qua đêm tại một thị trấn Siauliai (cách Kaunas 140km về phía bắc) để hôm sau mới vượt biên giới. Tôi chủ ý chọn thị trấn này vì gần đó có một địa danh rất nổi tiếng : Kryziu Kalnas, « ngọn đồi thánh giá » theo tiếng Lituania. 

  
Theo như người dân địa phương nói, những chiếc thánh giá đầu tiên được cắm ở đây từ thế kỷ 14 sau CN. Hàng trăm năm đã trôi qua và biết bao thế hệ đã hành hương từ phương xa đến đây cắm thánh giá để tỏ lòng sùng đạo. Dần dần, ngoài tính chất tôn giáo, Kryziu Kalnas còn trở thành nơi người ta đến cầu nguyện cho sự độc lập của quốc gia sẽ đến một ngày nào đó. Thật vậy, hãy nhìn vào quá khứ hẩm hiu của đất nước Lituania từ thế kỷ 18 là biết liền. Trong vòng 2 thế kỷ, quốc gia này biến mất khỏi bản đồ hành chính thế giới và trở thành lãnh thổ của sa hoàng Nga. 


 Đã có rất nhiều cuộc nổi dậy chống lại sự đô hộ của Nga, đặc biệt là vào cuối thế kỷ 19 và giai đoạn sau thế chiến thứ hai. Quân đội Nga đã thẳng tay đàn áp và giết hại rất nhiều người yêu nước. Để tỏ lòng kính trọng những người con hi sinh vì độc lập tự do, người dân Lituania đến đây cắm thánh giá để tưởng niệm. Truyền thống cứ thế tiếp diễn ngày này qua ngày khác. Ý chí dân tộc cành phát triển mạnh bao nhiêu thì người ta càng đến đây cắm thánh giá bấy nhiêu. Người Nga không ít lần hạ lệnh san bằng tất cả những cây thánh giá nhưng san phẳng thì lại mọc lại. Khi Liên Bang Nga sụp đổ, Lituania chính là một trong những quốc gia hạnh phúc nhất. Kẻ hàng xóm khó chịu đã cút đi, lời cầu nguyện của biết bao thế hệ tại Kryziu Kalnas đã thành hiện thực. Vì thế, nơi đây trở thành biểu tượng của ý chí dân tộc chống lại thế lực ngoại xâm. 


Có thể nói, chỉ khi đặt chân đến đây, tôi mới thực sự thấu hiểu lòng căm thù của người Lituania đối với người Nga, có lẽ cũng không khác gì nhiều so với sự căm ghét của dân tộc Việt Nam với nước Trung Quốc. Chỉ có điều, người Nga có vẻ có nhiều dân tộc căm thù hơn người Trung Quốc. Ngoài Lituania, còn có Estonia, Latvia, Ba Lan, Cộng Hòa Séc, Romania, và còn có thể có một số quốc gia khác nữa. Theo tôi, Kryziu Kalnas là một bằng chứng hùng hồn đưa ra thê giới sự ghê tởm và đáng khinh thường đối với giới chóp bu Nga trong quá khứ. 


Ngày nay, người ta ước tính có tổng cộng 60.000 chiếc thánh giá từ nhỏ đến to, từ 5cm đến 5m, bằng gỗ hay bằng kim loại. Chính nhờ địa danh này mà đất nước Lituania còn được mệnh danh là « xứ sở của những cây thánh giá ». Đi qua cả một rừng cây thánh giá, tôi có cảm giác như đang rơi vào cảnh phim kinh dị với những con ma cà rồng hay người sói. Cảm nhận tổng thể mà tôi có được ở đây chủ yếu thiên về tín ngưỡng nên tôi cũng khó có thể hiểu tại sao người Lituania lại tôn sùng nó như biểu tượng của chủ quyền dân tộc. Có lẽ phải là người sinh ra và lớn lên ở đây thì mới thấu hiểu được điều đó. 

<<<CÒN TIẾP>>>

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống