Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Sunday, 3 February 2013

Tết Quý Tỵ 2013 đánh dấu lần thứ 10 Đường hoa Nguyễn Huệ (TP.HCM) khai hội. Năm nay, lần đầu tiên Đà Nẵng có đường hoa và sẽ phát triển thành thương hiệu riêng.

Những ngày này, Đường hoa Nguyễn Huệ đang trong giai đoạn tất bật thi công để kịp hoàn thành cho lễ khai mạc vào tối 7.2 (tức 27 tháng chạp).

Ông Trần Hùng Việt, Tổng giám đốc Tổng công ty du lịch Sài Gòn Saigontourist), đơn vị 10 năm thực hiện công trình Đường hoa Nguyễn Huệ, hãnh diện cho rằng đường hoa đã thật sự đi vào lòng người dân TP.

Theo nhiều nguồn tư liệu, Đường hoa Nguyễn Huệ xưa kia vốn là một chợ hoa tết. Gần tết, các con thuyền chở hoa từ những tỉnh miền Tây cập bến Bạch Đằng, tập trung hoa lên đường Nguyễn Huệ hiện nay để bán, đến gần giao thừa thì dọn. Tuy nhiên, do chợ bán buôn có phần nhếch nhác, nên sau này, khi chính quyền TP có chủ trương chỉnh trang đô thị, tạo nét đẹp văn minh đường phố, chợ hoa tồn tại giữa trung tâm bao năm bị dẹp bỏ, chuyển về công viên 23.9.

Ông Nguyễn Thành Tài, nguyên Phó chủ tịch UBND TP.HCM, người gắn bó với Đường hoa Nguyễn Huệ từ ngày đầu, kể: Chợ hoa tết ăn sâu trong tiềm thức người dân, nên khi dẹp bỏ nhiều người cảm thấy thiếu thốn, buộc TP phải tìm một cái gì đó thay thế chợ hoa. Không còn chợ hoa, trung tâm TP trở nên vô cùng vắng vẻ trong những ngày tết, trong khi người dân lại thiếu chỗ vui chơi giải trí mấy ngày này. Cán bộ Saigontourist đi nước ngoài, thấy người ta làm lễ hội hoa đẹp quá, nên trình bày ý tưởng với lãnh đạo TP. Saigontourist lại có nguồn lực, cộng với nhiều người muốn làm đường hoa nên ý tưởng được đồng thuận.

Ông Tài cho rằng, đưa lên bàn cân để thấy cái được của 1 - 2 tỉ đồng ngân sách bỏ ra làm đường hoa cùng với xã hội hóa là rất khó, bởi những cái đó không thể đong đếm. Người dân sau một năm làm việc vất vả, chỉ có mấy ngày tết nghỉ ngơi để lấy lại năng lượng cho một năm tiếp theo. Đường hoa là nơi để họ phục hồi năng lượng, vui chơi. “Xong giao thừa, đường hoa chẳng có hư hỏng gì. Thậm chí có người lỡ chân bước vào thảm hoa vội vàng ngồi xuống xin lỗi rồi sắp xếp lại. Hành vi đó là vô cùng đẹp!”, ông Tài khẳng định.

Họa sĩ, nhà nghiên cứu Nguyễn Quân, thừa nhận đường hoa Nguyễn Huệ là một sáng kiến hay và đẹp. Chất lượng đường hoa mỗi năm có khác nhau, nhưng chung quy vẫn là điểm sinh hoạt văn hóa lành mạnh của người dân Sài Gòn mỗi dịp tết đến. “Có điểm khác lạ là trong những ngày diễn ra đường hoa, dù lượng người đổ về đại lộ Nguyễn Huệ rất đông để xem pháo hoa và ngắm hoa, nhưng không thấy cảnh bẻ cành, ngắt hoa ở đây. Có vẻ như người dân TP đã quen với nếp sống đô thị và thể hiện tinh thần tôn trọng cái đẹp rất rõ ràng”, họa sĩ Nguyễn Quân phát biểu.

Cùng quan điểm, nhà nghiên cứu văn hóa - TS Nguyễn Thị Hậu cho rằng đường hoa luôn thiết kế những không gian mang tính hoài niệm về cội nguồn, quê hương, như đồng lúa, giàn bầu, xe thổ mộ, chiếc thuyền… Ban tổ chức đã thành công khi đưa làng quê về phố, để khơi gợi ký ức của người dân về quê hương. Dù là người TP chính gốc, hay từ các tỉnh về đây làm ăn, cũng dễ dàng thấy mình ở trong đó và chính mình được tôn vinh. Theo TS Hậu, người dân TP đã quen với những công trình công cộng, nên họ ý thức rõ ràng về việc giữ gìn không gian chung của cộng đồng. Thói quen đó đủ sức mạnh lan truyền tới nhiều người khác, khiến họ xử sự theo đám đông”.

Không chỉ thu hút người dân trong nước, đường hoa dần trở thành một thương hiệu để các hãng lữ hành giới thiệu với du khách nước ngoài. Mỗi năm, đường hoa lại có một chủ đề, gắn kết sát sườn với đời sống, tâm tư nguyện vọng của người dân. Năm nay, chủ đề của đường hoa là Trái tim Việt Nam, với các phân đoạn: Xuân non cao, Xuân đồng bằng, Xuân biển đảo. Trong đó, khu vực biển đảo được thiết kế rất ấn tượng và quy mô với những chiếc thuyền vượt sóng, kéo lưới bội thu mùa cá là những sắc hoa rực rỡ; những chiếc thuyền thúng nằm trên đồi cát; xóm chài bình yên; cô gái Việt trong tà áo dài đứng trước biển tung những cánh chim bồ câu hòa bình như khẳng định với thế giới về chủ quyền biển đảo quê hương.

Chủ đề của đường hoa năm nay là Trái tim Việt Nam, với các phân đoạn thể hiện những nét đẹp đặc trưng của các vùng miền đất nước: Xuân Non cao (đoạn từ đường Lê Lợi đến đường Mạc Thị Bưởi), Xuân đồng bằng (đoạn từ đường Mạc Thị Bưởi đến đường Ngô Đức Kế) và Xuân biển đảo (từ đường Ngô Đức Kế đến đường Tôn Đức Thắng).

Đặc biệt, tại khu vực Xuân đồng bằng, sẽ trưng bày mô hình thu nhỏ hình tượng 10 con giáp của giai đoạn 10 năm qua, đánh dấu chặng đường phát triển, không ngừng hoàn thiện của đường hoa Nguyễn Huệ.

Ở khu vực Xuân non cao, lần đầu tiên du khách sẽ được thưởng lãm những tiểu cảnh mô tả vẻ đẹp và văn hóa của miền rừng núi như Rừng hoa, Đàn Tơ rưng hoa, Trống Paranưng hoa, Cồng chiêng, Khèn hoa...

Một con thuyền hoa khổng lồ, được các nghệ nhân gia công tỉ mỉ sẽ hiện diện tại khu vực Xuân biển đảo, thể hiện hình ảnh chiếc thuyền gỗ mộc cưỡi trên đầu ngọn sóng đang kéo tấm lưới bội thu hoa đủ màu sắc, với ý nghĩa thu hoạch thành quả lao động, đón mừng một năm mới ra khơi và đạt được nhiều thành tựu.

Thương hiệu riêng cho Đà Nẵng

Đây là lần đầu tiên TP.Đà Nẵng có đường hoa để phục vụ nhu cầu thưởng lãm cho người dân và du khách dịp Tết Nguyên đán. Theo kế hoạch, đường hoa sẽ diễn ra trong 8 ngày, từ 19 giờ ngày 7.2.2013 (27 âm lịch) đến 22 giờ ngày 14.2.2013 (mùng 5 âm lịch), được trang trí, sắp đặt, kết nối theo từng chủ đề trên đường Bạch Đằng, kéo dài trong khoảng 1 cây số bắt đầu từ ngã ba Bạch Đằng - Phan Đình Phùng đến ngã ba Bạch Đằng - Lê Văn Duyệt. Đường hoa này có tên gọi đầy đủ là Đường hoa xuân Bạch Đằng, do Công ty TNHH VietArt OOH tổ chức, mức kinh phí tương đương 17 tỉ đồng. Với 6 phân đoạn chủ đề đặc sắc từ hơn 100.000 giỏ hoa cây xanh các loại, trong đó có hơn 100 loại hoa được sử dụng, Đường hoa xuân Bạch Đằng sẽ còn gắn với các hoạt động xã hội như nấu bánh chưng, bánh tét tặng người nghèo; trao quà tết cho  các hoàn cảnh khó khăn…

Được biết, đơn vị thực hiện tư vấn thiết kế đường hoa xuân ở Đà Nẵng là Công ty TA Landscape Architecture, cùng  đơn vị thiết kế Đường hoa Nguyễn Huệ ở TP.HCM. Trao đổi với Thanh Niên, bà Nguyễn Lê Phương Thảo, Chủ tịch HĐQT VietArt, Tổng giám đốc VietArt OOH chia sẻ: “Đây sẽ là hoạt động được VietArt OOH cam kết duy trì hằng năm vào dịp tết cổ truyền với mong muốn phát triển nó thành thương hiệu riêng của Đà Nẵng. Tuy cùng một nhà thiết kế nhưng việc trùng lặp ý tưởng sẽ không xảy ra, bởi Đường hoa xuân Bạch Đằng sẽ có những nét đặc trưng riêng biệt gắn với thành phố biển miền Trung năng động, tươi trẻ”.

Vì Trường Sa thân yêu

Cùng thời điểm diễn ra Đường hoa Nguyễn Huệ (7 - 13.2), Lễ hội Đường sách Tết Quý Tỵ 2013 có chủ đề Sách và 54 dân tộc với điểm nhấn là khu triển lãm tư liệu, bản đồ quý giá khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Đường sách năm nay diễn ra tại khu vực đường Mạc Thị Bưởi - Nguyễn Huệ - Ngô Đức Kế, chính là nơi tôn vinh văn hóa đọc của người dân.

Đặc biệt, cũng tại Đường sách 2013, ban tổ chức dành không gian cho Báo Thanh Niên triển lãm bộ 60 bức ảnh mới nhất của phóng viên, cộng tác viên của báo, có chủ đề Vì Trường Sa thân yêu. Bộ ảnh phản ánh nỗ lực lớn lao, sự hy sinh cao cả của những người dân đất đảo, những người lính hải quân ngày đêm miệt mài canh giữ vùng biển trời thiêng liêng của Tổ quốc.

Du lịch, GO! - Theo Thanhnien

Saturday, 2 February 2013

Bắt đầu từ sáng sớm hôm nay, ngày 3-2-2013 (tức ngày 23 tháng chạp năm Nhâm Thìn), đoàn nghệ nhân và người dân Bát Tràng tập hợp đông đủ tại đình làng Bát Tràng để chuẩn bị cho lễ rước ông Công - ông Táo về trung tâm thành phố Hà Nội.

Đây là lần đầu tiên Hà Nội có một lễ rước ông Công - ông Táo nhiều ý nghĩa được tổ chức.

Theo văn hóa dân gian, ngày 23 tháng Chạp hàng năm, các gia đình Việt Nam sẽ làm lễ tiễn ông Công - ông Táo về chầu trời, gửi gắm niềm tin về một năm mới tốt lành sắp tới. Năm nay, trong khuôn khổ Hội hoa chợ Tết tôn vinh làng nghề và hàng nông sản chất lượng cao do Bộ VH-TT và DL phối hợp với UBND TP Hà Nội, Hội Nông dân TP Hà Nội, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam tổ chức.

Người dân Hà Nội sẽ được chứng kiến một Lễ hội ông Công - ông Táo nhiều ý nghĩa. Đây cũng là dịp để người dân Hà Nội thêm hiểu hơn về  những nghi lễ truyền thống - những di sản phi vật thể có giá trị đang dần bị mai một.

Lễ hội dân gian ông Công - ông Táo do làng gốm cổ Bát Tràng thực hiện với các nghi thức dân gian, truyền thống, bao gồm nghi lễ rước ba “ông đầu rau” khổng lồ được làm bằng vàng mã, rước cá chép dài tới 3,5m làm từ giấy và đặc biệt là chiếc bếp cổ được làm từ trấu và đất sét với chiều dài 1m, chiều rộng 65cm và chiều cao 45cm. Cùng với đó là 12 mâm sản vật, lễ vật của địa phương gồm bánh chưng, bánh dày, bánh đậu xanh, kẹo sìu châu, bánh cu đơ, bánh cáy, bánh phu thê, bưởi ngọt, nhãn muộn, mâm ngũ quả…

Chuẩn bị lễ hội ông Công, ông Táo lần đầu tiên

Để có được lễ rước hoành tráng này, từ hàng tháng nay, khoảng 20 nghệ nhân và hàng trăm thợ giỏi cùng người dân làng nghề Bát Tràng đã phấn khởi bắt tay vào công tác chuẩn bị, mọi công việc được tiến hành tại đình làng Bát Tràng. Ai cũng háo hức, tự hào khi được đại diện cho nghệ nhân, thợ giỏi của các làng nghề trong cả nước tham gia vào việc chuẩn bị cho Lễ hội. Kỳ công nhất là công đoạn làm chiếc bếp bằng trấu và đất sét.

Từ trước đó cả tháng, đại diện Hiệp hội làng nghề Việt Nam và nghệ nhân làng nghề Bát Tràng đã khởi hành lên tận Đền Hùng (Phú Thọ) để làm lễ xin đất Đền Hùng và nước Giếng Ngọc đưa về đình làng Bát Tràng để làm lễ. Sau đó đất và nước này đượcc giao cho anh em thợ giỏi bắt tay vào làm chiếc bếp cổ. Khó nữa là nhiều năm trở lại đây, bà con đã chuyển hết việc nấu nướng sang bếp than tổ ong, bếp ga nên hầu như chẳng ai còn giữ chiếc bếp cổ, vì vậy các nghệ nhân phải lục lại khắp nơi để tìm một mô hình chiếc bếp cổ và chế tác một chiếc bếp khổng lồ giống y như thế từ trấu và đất sét.

Lễ rước sẽ bắt đầu từ làng gốm Bát Tràng với 9 xe kiệu dẫn đầu là cụ trưởng làng Bát Tràng, đội tế nam - tế nữ - sênh tiền và bà con, nghệ nhân làng Bát Tràng, dọc theo đê sông Hồng, qua cầu Chương Dương và các mâm lễ vật sẽ được dâng cúng tại các điểm: tượng đài Lý Thái Tổ, đền Ngọc Sơn, tượng đài vua Lê Thái Tổ… và dừng tại Trung tâm Triển lãm Văn hóa nghệ thuật Việt Nam nơi diễn ra hội hoa, chợ Tết.

May thay, Tết ông Táo vẫn còn!

Đưa ông Táo về trời, nhà nhà đang bận rộn từ sáng lo cúng lễ; nhưng có lẽ không nhiều người hiểu kỹ nguồn gốc, ý nghĩa của mỹ tục này, một tập quán ngày càng có giá trị sâu sắc trong đời sống hiện đại.

Vẫn bảo, đời sống khấm khá hơn, chẳng phải dành dụm chuẩn bị Tết từ… Hè, Thu như thời bao cấp, nhưng các bà các mẹ vẫn giữ nếp lo xa. Cứ ỉ bây giờ cái gì cũng sẵn, sát Tết mới sắm sanh thì lại cập rập hoặc đắt đỏ.

Xu hướng phát triển toàn cầu dẫn con người mật thiết thế giới tâm linh ngày càng rõ. Tôn giáo, tín ngưỡng trong nguyên bản ý nghĩa (không tính những phái sinh lệch lạc, biến tướng) cho chúng ta được nương tựa, chở che, hướng thiện.

Tết Nguyên đán có ý nghĩa với hơn 1,5 tỷ dân thế giới, người gốc Hoa, người Việt Nam thực sự sôi động từ ngày tiễn thần Bếp lên trời.
Từ đầu Chạp, qua Hàng Mã - một phố trong khu phố cổ (quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) còn giữ nghề theo tên gọi, đã bày bán mũ, áo, hia, vàng thoi - đồ mã cúng Táo Công.

Tại Thủ đô, chợ lâu năm dần được thay thế bằng các siêu thị, trung tâm thương mại, không khí mua sắm ở chợ vẫn gần gũi đời sống nhân quần. Tại các chợ, hàng  mã cuối năm tấp  nập. Chợ Tết xưa có quầy tranh tết, trong đó có tranh Táo Quân. Quầy tranh Tết lâu không còn, chỉ có hàng trăm cửa hàng tranh chép. Tết đến gần, qua những hàng rong bán đào, gánh hàng mã ruổi khắp phố.
Cùng Tết Nguyên đán, Tết ông Công ông Táo là tập tục qua truyền khẩu ghi chép, có biến thể khác nhau. Theo nguồn tài liệu đáng tin cậy, thì tích này vắn tắt như sau:

Đôi vợ chồng Trọng Cao và Thị Nhi lấy nhau nhiều năm mà không thể có con, sinh ra cáu gắt, hay cãi cọ. Một hôm, người chồng nổi nóng đánh vợ, Thị Nhi bỏ nhà đi. Nàng nằm nghỉ gần một ngã tư đường, gặp người nông dân cày về, nàng đi theo và chàng chú ý. Đó là Phạm Lang, và họ thành vợ chồng. Trọng Cao bị bất hạnh, nếm trải nỗi cơ hàn (có tài liệu ghi Trọng Cao ân hận đi tìm vợ) phải đi ăn xin. Lang thang mãi, hết tiền, mệt và đói lả, Cao ngã xuống trước cửa, ngờ đâu là nhà Thị Nhi. Thị Nhi cho Trọng Cao ăn uống.

Người đàn ông khốn khổ ăn nhiều, say rượu, ngã lăn ra. Vì không muốn để chồng cũ chồng mới giáp mặt, Thị Nhi sai người khênh Trọng Cao giấu vào đống rơm (có phiên bản ghi Trọng Cao xin lỗi vợ và Thị Nhi ân hận đã lấy Phạm Lang, bảo Cao trốn vào đống rơm). Phạm Lang về, trước lúc đi ngủ, nhớ ra mai phải bón ruộng, nên ra đốt rơm lấy tro. Trọng Cao bị chết trong đó. Thị Nhi tự trừng phạt mình, nhảy vào lửa. Phạm Lang yêu vợ, thấy quá bất ngờ, nhảy tiếp vào đống rơm cháy, chết theo.

Linh hồn ba người lên Thượng đế - thấy ba người có nghĩa, Thượng đế sắc phong làm Táo Quân, gọi chung là Định Phúc Táo Quân, mỗi người giữ một việc. Phạm Long làm Thổ Công, trông coi việc bếp. Trọng Cao làm Thổ Địa, trông coi nhà cửa. Thị Nhi làm Thổ Kỳ, trông coi chợ búa.

Kết thúc của các tích, dù biến thể nào, nhân vật đều chết thảm. Truyện kể theo sách GS Nguyễn Văn Huyên còn có phần kết: “Anh đầy tớ thấy ông bà chủ chết bèn lao đầu vào lửa tỏ lòng trung thành. Thượng đế xúc động về tinh thần hỉ xả ấy, giao cho họ trông nom bếp núc của tất cả các gia đình trên thế gian và đánh giá mọi hành vi của con người. Tập tục cúng ông Táo cũng là tưởng nhớ tấn bi kịch gia đình. Hai hòn đá hai bên là ông (hai ông chồng), hòn phía trước là bà (người vợ). Viên cuội đặt trên than để nó không cháy quá nhanh, là hòn lộc (người đầy tớ trung thành).

Táo, nghĩa là bếp. Táo Quân Trung Hoa có truyền thuyết khác  nhau. Nền văn minh phong kiến Trung Hoa 5.000 năm đề cao gia trưởng, thứ bậc, trọng nam, nhưng sách Ngũ kinh di nghĩa cho Táo Thần là “lão phụ” (người đàn bà). Dù truyền thuyết, sự tích nào, ở quốc gia nào, thì lửa là may mắn và không sai khác là phần báo cáo hàng năm của những vị thần trong bếp mỗi nhà. Người Trung Quốc bày bàn thờ gần bếp, có bài vị chữ Hán, cúng thịt, cá, rượu, bánh kẹo. Tín ngưỡng dân gian Việt Nam Việt hoá huyền tích “Hai ông một bà” thành Thần Đất, thần Nhà, thần Bếp núc, gọi chung là Táo Quân, ông Táo do kết quả thuyết Tam vị nhất thể (thuyết Ba ngôi).

Nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng, cách gọi “ông hóa” về ba vị, dù trong đó có 1 bà, cũng như cách gọi chung “ông đồ” (mà thực tế có cả các bà đồ) là ảnh hưởng của tinh thần nam quyền.

Ở nông thôn từ xa xưa, bếp được bắc bằng ba hòn đất (gạch), gọi là ba ông đầu rau. Ngày 23 tháng Chạp, đem 3 ông đầu rau cũ ra gốc cây đa, cây gạo, thay 3 ông mới, chỉ nổi lửa vào ngày 28 tại chỗ đầu rau mới, để cầu may. Thế “kiềng ba chân” từ ba ông đầu rau mà nên.

Chẳng phải phú quý sinh lễ nghĩa, mà quan niệm, “luật cúng” đã đúc kết nhiều đời thành tục cổ truyền. Ai chẳng muốn được báo cáo tốt, nên phải sửa soạn trang phục, phương tiện, lệ phí, cơm rượu mời các Táo, cúng bái nghiêm cẩn để Táo báo cáo Trời (Ngọc Hoàng) chuyện cả năm của nhà mình và phù trợ cho gia đình một năm may mắn. Mũ cho ông Táo có hai cánh chuồn, Táo bà không có. Tất cả đều có gương tròn nhỏ lóng lánh, dây kim tuyến sặc sỡ. Tùy năm, màu sắc, mũ, áo, hia của ông Táo ông Công thay đổi theo ngũ hành: Hành Kim - màu vàng; Hành Mộc: trắng; Hành Thủy: xanh; Hành Hoả: đỏ; Hành Thổ: đen. Năm Quý Tỵ này là Hành Thủy.

Cá chép để các thần cưỡi về trời, có nơi lại thay bằng cá chép hàng mã, cũng như lệ cúng giản lược chỉ còn mũ cánh chuồn cho Táo ông; trước Tết giờ còn mấy ai dựng cây nêu nữa?
Phú quý sinh lễ nghĩa. Nhiều người vì lệ cúng này, làm ảnh hưởng môi trường, vàng mã đốt quá nhiều, thả cá ra ao hồ thì quăng cả túi nilon gây tắc, ô nhiễm.

Táo miền Bắc cúng cá chép, ngụ ý cá hóa rồng đưa ông Táo về trời khi “phóng sinh” thả ra ao, hồ. Miền Trung, bà con cúng ngựa giấy có yên, cương đầy đủ. Miền Nam nhiều sông nước, mà có nơi cũng chẳng cúng cá. Lễ vật cúng có thể là lễ mặn (xôi, gà, chân giò luộc, canh măng, nấm), lễ chay (trầu cau, hoa quả) kèm theo vàng bạc mã để tiễn Táo công.

Theo nhà sử học Dương Trung Quốc: “Tết ông Công ông Táo thể hiện mối quan hệ của con người với dương trần và thiên đàng, với đất Mẹ và Thượng đế. Qua đây, ta thấy vai trò gia đình của xã hội truyền thống rất lớn. Thần Bếp - 3 ông đầu rau, biết hết mọi việc trong nhà, kể cả các bí mật, chuyện riêng tư. Mọi việc ta làm, sống thế nào ở trần gian này, Thượng đế sẽ biết hết, bởi ông Công ông Táo trong nhà ta nắm bắt và báo cáo. Điều này nhắc nhở người ta phải nhớ thuyết/luật Nhân - Quả, các giá trị đạo lý, ở hiền gặp lành.

Xã hội ngày càng phát triển, những lễ tục truyền thống ngày một giản lược, mai một. May thay Tết ông Công ông Táo vẫn còn. Đấy là cách để giữ được mối gắn bó giữa con người với con người, cuộc sống quanh mình, tính chịu trách nhiệm về cử chỉ, hành động, công việc của mình. Tôi lo lắng, liệu tập quán tốt đẹp này sẽ bị mất đi không?”. Những ai làm điều xấu khi nắm rõ vai trò các ông Táo, hẳn lòng không thanh thản. Đúng như J. Simon cho rằng: “Chỉ khi nào con người có tinh thần bổn phận, thì mới làm chủ định mệnh của mình”.

Bộ trưởng Bộ Giáo dục đầu tiên và lâu năm nhất của nước Việt Nam từ ngày thành lập 2-9-1945 cho đến nay là GS Nguyễn Văn Huyên (1905-1975). Ông chính là nhà dân tộc học hàng đầu của nước ta. Tên ông được đặt cho con đường thuộc quận Cầu Giấy, nơi toạ lạc Bảo tàng Dân tộc học mà con trai ông - PGS.TS Nguyễn Văn Huy (SN 1945) đã có nhiều đóng góp lớn từ ngày đầu thành lập đến khi về hưu (2008).

Bảo tàng này đã làm nên “cuộc cách mạng” khi không chỉ đóng khép với mô hình tư liệu, hiện vật, mà mở cửa sống động gần gũi. Người xem tham gia các trò chơi dân gian hay cách phong tục thể hiện theo nguyên bản cho mọi người chiêm ngưỡng, bảo tồn. Tết Nguyên đán là dịp các tập quán đẹp được thực hiện và phục dựng tại đây.

Gần 80 năm trước, năm 1934, tại Paris, chàng trai 29 tuổi Nguyễn Văn Huyên nhận bằng Tiến sĩ Dân tộc học tại Đại học Sorbonre. Trong cuốn “Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam” (một tác phẩm nhận giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1”), dù tiêu đề là “góp phần”, nhưng GS Huyên đã viết rất kỹ, hay bằng kiến thức lịch sử và văn hóa đồ sộ.

Ông viết: “Về thực tế, việc chuẩn bị cho Tết bắt đầu ngay hôm sau ngày cúng Thần Bếp, 23 tháng Chạp. Hôm đó, Táo Quân, thần trông coi đời sống của gia đình mà ngài che chở và giám sát, lên Trời để tấu trình tỉ mỉ với Thượng đế về cách ăn ở của mọi người trong gia đình năm qua. Thần Bếp, Táo Quân thường hay bị lẫn với Thổ Công hay Thổ Địa, là thần đất trong nhà, bản thân thần này lệ thuộc vào thần Thành hoàng, tức thần đất của làng và thần Xã tắc là vị thần vua, hiện thân của đất nước.

Đôi khi, ý thức dân gian tìm cách phân biệt những thần này, nhưng sự phân biệt luôn luôn rất mơ hồ. Dù sao, khi người ta phân biệt được các thần đó, thì Thổ Công được trình bày trên bàn thờ bằng một cặp vợ chồng, còn Táo Quân là bộ ba gồm một thần nữ có hai thần nam kèm bên. Tuy nhiên, người ta thường công nhận rằng Thổ Công được gộp trong bộ ba đó, gồm Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ, theo lời dạy của các nhà nho. Các vị này được tiêu biểu bằng ba hòn gạch xếp thành kiềng đun bếp: hòn thứ nhất là đất nói chung, hòn thứ hai là đất trong nhà và hòn thứ ba là thần Bếp”.

Tết ông Công ông Táo như “lá cờ lệnh” phất lên khí Xuân ở tuần chót năm. Năm Nhâm Thìn lưu luyến, năm Quý Tỵ sát gần. Đúng 1 tuần nữa, là lễ trọng nhất: Lễ cúng Giao thừa, mâm cơm cúng tất niên quá đỗi thiêng liêng.

Tối 30 Tết, chương trình “Gặp nhau cuối năm” do Hãng phim Truyền hình Việt Nam thực hiện luôn được chú ý đón xem. Các nghệ sĩ đóng vai Táo các lĩnh vực báo cáo Ngọc Hoàng về hiện trạng năm qua. Được ghi hình hôm 25, 26, 27-1-2013 tại Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội, đặc thù của chương trình Táo Quân năm nay vẫn tiếp tục chất hài hước sâu cay, dám phê phán những bất ổn trong luật pháp và đời sống.

Dù ăn Tết to hay nhỏ, giản đơn hay linh đình, Tết nhà nào cũng nổi lửa. Đun điện, gạch, than, củi, bếp nào cũng có năng lượng, lửa ấm. Có lửa, là ông Công ông Táo lại thấy chúng ta. Hãy sống tốt, sống thiện, chăm chỉ mỗi ngày, để cuối năm thanh thản, ăn Tết an vui và đón năm mới nhiều hy vọng.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ ANTĐ, internet
Ít ai ngờ rằng, dưới chân núi Nứa, thuộc Vũng Tàu – một trong những thành phố sầm uất nhất cả nước lại có một ngôi làng còn lưu giữ những tập quán và nếp sống của người dân Nam Bộ cổ xưa. Đó chính là làng biển Long Sơn – nơi còn truyền đời phong tục 'chết chung hòm' vô cùng độc đáo và có phần lạ lùng, kỳ bí.

Đạo “Ông Trần”

Từ thành phố Hồ Chí Minh chạy dọc theo quốc lộ 51, quẹo phải ngã ba Long Sơn, qua cầu Bà Nanh là đến làng biển Long Sơn nằm yên bình dưới chân núi Nứa. Ngoài những phong tục tập quán đậm chất truyền thống, làng biển Long Sơn còn khá nổi danh với đặc sản hàu tươi sống.

Dọc con đường nhựa chạy quanh làng, khá nhiều hộ dân đang tất bật bóc tách vỏ hàu để kịp phục vụ nhu cầu dịp cuối năm, khiến không khí sinh hoạt nơi đây càng thêm phần sung túc.


< Núi Nứa trên đảo Long Sơn.

Chạy thêm một đoạn nữa là đến khu di tích Nhà Lớn. Đây chính là nơi lưu giữ những lễ nghi, phong tục độc đáo của những người theo đạo “Ông Trần”, là vị tiên hiền có công khai hoang lập nên làng Long Sơn ngày nay. Chính “Ông Trần” cũng là người đã xây dựng lên quần thể kiến trúc Nhà Lớn nên người dân nơi đây còn kính cẩn tôn là “Ông Nhà Lớn”.

Nhà Lớn rộng gần hai ha, bao gồm: Nhà hội, đền thờ, dãy phố, nhà thuyền, khu chợ, trường học và khu mồ mả “Ông Trần”. Nhà Lớn trước kia hoàn toàn làm bằng các loại gỗ quý như lim, sến, trắc, gu … Đặc biệt là kiến trúc các dãy phố, nơi xưa kia để dành làm chỗ nghỉ ngơi của khách phương xa, vẫn còn nguyên màu gỗ nâu bóng, với những hàng chữ Nho được điêu khắc tỉ mỉ phía ngoài.

Cụ Võ Văn Chót, 77 tuổi, là vị cao niên được trông coi nhà Lớn cho biết: “Vào những năm 70, một số nơi trong quần thể Nhà Lớn bị xuống cấp phải trùng tu và xây dựng lại bằng xi măng. Còn sáu dãy phố cũng bị đánh bom cháy mất một dãy, giờ chỉ còn lại năm”.

Nhờ sự hướng dẫn của người dân nơi đây, chúng tôi đã tìm gặp và được tiếp xúc với bà Lê Thị Kiềm, cháu đời thứ tư của “Ông Trần”. Bà Lê Thị Kiềm năm nay đã hơn 67 tuổi, vẻ mặt hiền hòa, phong thái nhã nhặn, rất có cung cách của một người đảm nhận nhiệm vụ trông coi nhà lớn. Bà Kiềm vận bộ đồ bà ba đen, tóc búi gọn sau gáy, xung quanh, có rất nhiều người cũng diện trang phục tương tự.

Thấy chúng tôi hiếu kỳ về cách ăn mặc của mình, bà cười hiền hòa và bảo: “Từ rất lâu rồi, dân Long Sơn vẫn có thói quen mặc đồ bà đen, búi tóc, bất kể đàn ông hay đàn bà, già cả hay trẻ trai”. Quả thật, đến Long Sơn, rất dễ dàng bắt gặp hình ảnh những người diện đồ bà đen, búi tóc, chân trần, đi lại ngoài phố chợ khiến khách lạ ngỡ như đang lạc vào một làng quê Nam Bộ ở cái thời cách đây mấy trăm năm về trước.

< Hình ảnh những người Nam Bộ xưa với áo bà ba đen, tóc búi sau ót.

Theo bà Kiềm, lý do người dân nơi đây có thói quen ăn mặc như vậy là vì ngày xưa, “Ông Trần” lúc nào cũng bận đồ bà ba đen để thuận tiện cho những công việc lao động nặng nhọc hàng ngày. Người dân thấy áo bà ba đen ít lấm bẩn, nên học theo và cho đến nay, thói quen ấy đã in sâu vào nếp sống của người làng Long Sơn.

Tên thật của “Ông Trần” là Lê Văn Mưu, sinh năm 1865, tại làng Thiện Khánh, tổng Hà Thành, quận Giang Thành, tỉnh Hà Tiên (nay là Kiên Giang). Ông là nghĩa binh chống Pháp vùng Bảy Thưa - Láng Linh (nay thuộc Anh Giang) do quản cơ Trần Văn Thành thống lĩnh. Sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, nghĩa binh bị truy sát gắt gao, ông Lê Văn Mưu phải lưu lạc, lánh nạn khắp nơi.

< Người dân làng biển Long Sơn.

Đến năm 1900, ông cùng gia quyến đã vượt biển đến định cư dưới chân núi Nứa, lập nên ấp Bà Trao, nay là xã Long Sơn. Hiện, chiếc thuyền ông Lê Văn Mưu dùng để vượt biển còn gọi là Ghe Sấm, vẫn được lưu giữ và trưng bày tại Nhà Thuyền ở khu di tích Nhà Lớn. Theo bà Lê Thị Kiềm, thì sở dĩ gọi ông Lê Văn Mưu là “Ông Trần” vì vị tiên hiền này có thói quen đi chân trần, để đầu trần, suốt ngày lao động, phong thái chân chất như một người nông dân bình thường.

Ngoài ra, việc đi chân trần, để đầu trần còn mang ý nghĩa “đầu đội trời, chân đạp đất” của bậc anh hùng ngày xa xưa. Cho đến giờ, người dân Long Sơn vẫn tôn kính gọi “Ông Trần” bằng độc nhất một chữ “Ông”. Cụ Võ Văn Chót kể lại:

“Ông đã khai hoang mở đất, còn sẵn lòng cưu mang dân tứ xứ trôi dạt đến đây. Ông cắt đất, cắt ruộng cấp cho người mới đến, kêu gọi dân nơi đây cùng lao động, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau. Ông còn xây chợ, xây trường học rồi bỏ tiền rước thầy giáo từ Bà Rịa về Long Sơn để dạy cho dân chữ nghĩa. Ơn của Ông rất lớn, nên từ bao đời nay, dân làng Long Sơn vẫn một lòng tôn kính Ông”.

Chính vì thế, nên sau khi ông Lê Văn Mưu mất, trong dân gian đã hình thành tín ngưỡng đạo “Ông Trần”. Lấy những lời dạy của “Ông Trần” lúc sinh thời như: “Trai thời trung hiếu làm đầu – Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình” để làm phương châm sống. Đạo “Ông Trần” độc đáo ở chỗ không hề có chuông mõ, kinh kệ, giáo lý, không mê tín dị đoan mà chỉ là những lời được truyền khẩu qua nhiều đời về đạo đức, lối sống.

Bà Lê Thị Kiềm chia sẻ: “Thật ra, đạo Ông Trần chính là đạo làm người mà Ông đã truyền dạy cho con cái đời sau. Lúc sinh thời, Ông vẫn hay răn dạy những phẩm chất làm người như: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, hiếu kính với cha mẹ …”.

Tục “chết chung hòm”

Nghe theo đạo “Ông Trần” không bị buộc phải “li gia cắt ái” mà vẫn được phép lấy vợ, lấy chồng, xây dựng cuộc sống gia đình như bình thường. Ngoài ra, họ còn lưu giữ những phong tục tập quán riêng do “Ông Trần” chỉ dạy nhưng đặc biệt nhất, phải kể đến tục “chết chung hòm”.

< Nhà Lớn Long Sơn.

Theo bà Lê Thị Kiềm, tục này bắt nguồn từ câu “Ông Trần” đã dạy: "Sống đồng tịch đồng sàng, chết đồng quan đồng quách”. Theo đó, khi một gia đình trong làng báo có tang, thì những người hàng xóm xung quanh liền cùng nhau sang giúp đỡ. Người lo khăn áo, người chạy đi thỉnh chiếc “bao quan dùng chung” để về khâm liệm thi hài … và đám tang được gọi là “đám xác”.

Bà Đặng Thị My, được gọi là bà Bảy Chùm, năm nay 85 tuổi, ngụ ấp 1, xã Long Sơn cho biết: “Người đã mất được quấn trong ba lớp. Lớp thứ nhất là 4 thước 5 vải trắng, lớp thứ hai là một đôi chiếu, lớp thứ ba là 4 thước 5 vải đỏ. Sau đó quấn tiếp bằng 5 ruột vải trắng, gọi là “võng thân” – dùng để đưa thi hài xuống huyệt, rồi thi hài mới được đặt vào chiếc bao quan thỉnh ở Nhà Lớn về”.

Dưới đáy huyệt đã được để sẵn một đôi đệm, một đôi chiếu. Sau khi đưa thi hài xuống, người ta dùng 6 tấm lá chằm (lá dừa bện lại thành tấm, người xưa dùng để lợp nhà) xếp vào huyệt, mỗi bên ba tấm, mô phỏng hình nóc nhà hai mái.

Theo bà Phạm Thị Năm, 75 tuổi, thì sở dĩ vậy là do dân nơi đây luôn có ý niệm người đã khuất cũng cần có nhà đẻ không phải bơ vơ, hoang lạnh. Bà Lê Thị Kiềm cho biết thêm: “Xưa Ông dạy: “Sáng tử chiều táng, chiều tử sáng táng”, nên đám xác ở đây được tiến hành rất nhanh, trong vòng 24 giờ đã xong xuôi, hoàn tất. Không cần coi ngày, coi giờ cũng không quàn thi hài quá lâu như những nơi khác”.

Sau khi an táng xong, chiếc “bao quan dùng chung” kia lại được kính cẩn đưa về Nhà Lớn. Chúng tôi may mắn được đưa đi xem chiếc bao quan đã ủ ấm thi hài hàng ngàn người đã khuất tại Long Sơn. Chiếc bao quan được đặt trong khu nhà hội.

Qua vài lớp khóa, cánh cửa căn phòng nhỏ mở ra, ánh sáng buổi chiều le lói hắt qua những ô thông gió nhỏ chiếu lên chiếc bao quan màu đỏ như máu nằm im lìm trên hai chiếc ghế gỗ dài … cảnh tượng ấy khiến chúng tôi hơi gai mình. Lại gần một chút mới biết, màu đỏ tươi kia không phải là do sơn phết mà do sáp đèn cầy tan chảy, qua hàng ngàn “đám xác” lớp sáp cứ dày lên và bao phủ hết mặt ngoài của chiếc bao quan.

Cụ Võ Văn Chót, người đưa chúng tôi đi chiêm ngưỡng chiếc bao quan kể thêm: “Nắp của chiếc bao quan này được đan bằng lồ ô (một loại tre lớn – phóng viên), các cạnh cũng được viền bằng thân lồ ô, mặt dưới bằng gỗ, mặt trước được vẽ trang trí hình hoa sen cách điệu. Khi Long Sơn có tang gia, họ chỉ cần liên hệ Nhà Lớn thỉnh bao quan về, đặt thi hài người đã khuất vào, đập nắp, thắp đèn cầy lên, đưa ra huyệt chôn rồi lại đưa bao quan về đặt tại nơi đây”.

Khi được hỏi, tại sao ở Long Sơn lại có tục khâm liệm chung một bao quan hết sức lạ lùng này thì bà Lê Thị Kiềm chỉ cười hiền hòa: “Ngoài triết lý 'chết đồng quan đồng quách' thì Ông dạy làm đám xác như vậy còn là để dân nơi đây tập tính tiết kiệm. Và do an táng nhanh, không cúng bái, giết gà, mổ heo đãi khách linh đình nên hầu như đám xác ở Long Sơn rất ít khi tốn kém. Người phụ giúp chỉ dùng bữa cơm đạm bạc với gia chủ hữu sự rồi về”. Và độc đáo hơn, nghi thức xã tang được thực hiện ngay sau khi chôn cất người đã khuất.

Chúng tôi còn được đưa đi thăm khu mồ mả. Trái với tưởng tượng, khu mồ Ông Trần, có thể được gọi là vị Thành hoàng làng lại khá giản dị như bao nấm mồ khác. Mồ ở đây lại không có bia mộ, với mục đích sâu xa là tránh đi sự khoe mẽ, háo danh của những dòng tộc lớn muốn thể hiện sự giàu có của mình thông qua việc xây mồ mả khang trang.

Bà Lê Thị Kiềm điềm đạm nói: “Tục chôn cất chung một bao quan, mồ mả giản dị mang một thông điệp sâu xa rằng kẻ hèn, người sang, dân nghèo hay người có chức có quyền đều ngang hàng, bình đẳng như nhau. Và cũng là để tránh những lãng phí, rình rang không đáng có”.

Trong khi xã hội ngày càng nhiều những đám tang xa hoa phung phí, những khu lăng mộ được xây dựng hoành tránh để khuếch trương thanh thế liên tục mọc lên, thì tục an táng nhanh gọn, vừa tiết kiệm lại vừa mang lại những triết lý sâu xa của người làng Long Sơn quả thật mang nhiều nét tiến bộ vượt bậc.

Du lịch, GO! - Theo Pháp luật & Cuộc sống, ảnh internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống