Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Wednesday, 27 February 2013

Lễ cầu an xưa kia gọi là lễ tống gió, tống phong, tống ôn, là một lễ tục có từ lâu đời ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Tại Cần Thơ, lễ cầu an cho tới nay vẫn còn tồn tại ở một số địa phương, tuy hình thức tổ chức ngày càng đơn giản hơn.

< Tàu ghe hộ tống đưa bè ra sông Cái để thả trôi.

Lễ cầu an thường diễn ra từ ngày 12 đến 16 tháng giêng hằng năm, tùy theo từng địa phương, cùng với thời điểm Tết Nguyên tiêu - rằm tháng giêng. Chính vì vậy dân gian mới có câu “Lễ tết quanh năm không bằng rằm tháng giêng”. Đây là một ngày lễ dân gian mang tính cộng đồng khá cao do nhân dân tự nguyện đứng ra quyên góp cùng với sự hỗ trợ về an ninh trật tự của chính quyền địa phương.

Lễ cầu an là lễ tống tiễn, xua đuổi tất cả những cái xấu, cái xui xẻo và khí độc ô uế, bệnh tật ra khỏi dân làng (tống gió, tống ôn), đồng thời cầu xin thần linh và người khuất mặt ra sức độ trì cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Lễ cầu an còn là dịp cho dân làng tri ân những người quá cố, biểu hiện lòng thành kính đối với các vị anh hùng liệt sĩ và các bậc tiền hiền có công khai khẩn, mở mang bờ cõi.

< Bà con đốt lửa cúng cầu an trong đêm 13 -1 âm lịch.

Lễ tục cầu an nhằm biểu thị một nếp sinh hoạt thuộc về tín ngưỡng dân gian với nhiều hoạt động phong phú mà cao điểm là “đốt lửa” và “tống gió”, tức dùng bè chuối để tiễn đưa âm binh, các lực lượng vô hình theo dòng nước đi càng xa càng tốt. Trên bè còn chở đầy gạo muối, vàng bạc giấy tiền, đồ mả và thức ăn để cho các cô hồn sử dụng, đừng bao giờ quay lại phá phách xóm làng.

Năm nay tại ấp Nhơn Lộc I, thị trấn Phong Điền và Xóm Chài, phường Hưng Phú, TP Cần Thơ là những nơi tổ chức lễ cầu an long trọng nhất. Địa phương nào có miếu Ông, miếu Bà, miếu Thổ thần… đều có tụng kinh làm lễ cầu an, múa lân, múa bóng rỗi và thả bè thủy lục nhằm tống khứ tất cả những điều xúi quẩy, bệnh tật ra khỏi xóm làng, đồng thời đón nhận những điều may mắn, tốt lành trong những ngày đầu xuân.

Đặc biệt tại khu vực 3, khu vực 9, phường Hưng Phú, không khí diễn ra thật tưng bừng, dưới sông tàu ghe hộ tống chật ních, tiếng trống lân trầm hùng vang dội, trên bờ nhà nhà đều đặt bàn hương án và đốt lửa sáng rực. Các gia chủ vừa cúng lạy vừa rắc muối, gạo vào lửa với ý nghĩa cho âm binh ăn xong rồi đi không quay lại.

< Bà con khiêng bè lên tàu chuẩn bị tiễn đưa ra sông Cái.

Cụ Lê Quang Trinh, 83 tuổi, trưởng ban cúng tế miếu Bà ở khu vực 3, Xóm Chài cho biết từ thuở nhỏ cụ đã tham gia tổ chức lễ tống gió với nhiều hoạt động sôi nổi. Cụ kể bè thủy lục xưa kia làm rất công phu, theo kiểu thuyền rồng, xung quanh trang trí cờ hoa rực rỡ, màu sắc lộng lẫy. Phía trước bè có bố trí các tượng Quan Công, Quan Bình và Châu Xương.

Theo ghe còn có đoàn lân và nhiều ghe xuồng hộ tống, diễu hành trên các sông rạch thật náo nhiệt. Trong ghe có thêm một bè nhỏ làm bằng chuối cây rất xinh xắn dùng chứa đựng các vật tế để cúng cô hồn. Lúc bè thủy lục di chuyển trên sông, tiếng trống lân trầm hùng hòa cùng với tiếng pháo tre, pháo thăng thiên giòn giã khiến mọi người, nhất là bà con đứng dọc theo hai bên bờ sông vô cùng phấn khởi.
Trên đường tống tiễn, bè còn mang theo một thầy pháp đóng vai chúa Ôn để phất cờ ra oai xua đuổi các loại tà ma phá hoại dân lành.

< Đưa bè ra sông Cái vào buổi tối.

Thời ấy, khi bè tiến ra tới vàm sông lớn ban tế lễ mới thả bè nhỏ xuống sông với ước nguyện dòng nước sẽ mang theo tất cả những cái xấu, cái dở. Nếu bè trôi thẳng, trôi nhanh không tấp vào bờ thì đó là hiện tượng “cát tường”, năm mới làm ăn sẽ phát tài, phát lộc.

Theo tín ngưỡng dân gian, những người từng gắn bó với nông nghiệp thì “Đất có thổ công, sông có hà bá” và “Sống khôn thác thiêng”, bởi thế làng nào cũng thờ thần và biết ơn các vị tiền hiền, hậu hiền, những người đã ngày đêm tác động đến cuộc sống an cư lạc nghiệp của dân tình. Trái lại, thiên tai địch họa và những điềm xấu điềm dữ là đối tượng cần phải tiêu trừ.
Do vậy, lễ cầu an hằng năm của bà con là một hành động xuất phát từ nhu cầu tâm linh với khát vọng hòa bình và hạnh phúc ấm no.

Du lịch, GO! - Theo Hoài Vũ (TTO)
3g sáng mới chính thức quyết định người đi, 5g sáng khởi hành với những chiếc xe không thể… kỳ dị hơn cho một chuyến "phượt":  Wave, Attila… Nhưng sự háo hức khám phá Cầu Đất (Lâm Đồng), vùng trồng cà phê Arabica duy nhất tại VN, đã thổi bay lo âu của các chàng trai nhóm Porevol - Mystery Hunting.

< Những ngôi nhà bé nhỏ trong rẫy cà phê ở Cầu Đất.

Lên đường nào!

1. Khởi đầu chuyến đi, thay vì chọn quốc lộ 20, đoàn quyết định “đột phá” bằng cách đi đường Bình Thuận, leo đèo Tà Pứa. Biết đâu sẽ nhanh và dễ dàng hơn?

< Đèo Tà Pứa (ảnh Dulichgo).

Do môtô của một số thành viên bất ngờ bị hư tay côn, thắng không ăn phải thay bằng mấy chiếc xe "kỳ dị" trên nên kết quả sau khi bở hơi tai vượt qua được đèo Tà Pứa với hàng chục khúc cua cùi chỏ ngoắt ngoéo, cực kỳ nguy hiểm, đèo Bảo Lộc và đèo Prenn trở nên hết sức đơn giản với cả đoàn! Thật không biết nên gọi là quyết định sáng suốt hay dại dột?!

Đà Lạt, phố núi sau tết vẫn đông đúc đến mức nghẹt thở. Phòng khách sạn kiếm mãi không có, nhà hàng, quán ăn đông nghịt người. Thế là, thay vì nghỉ một đêm “sang trọng” lấy sức ở Đà Lạt, cả nhóm quyết định ngủ nhà dân và sáng hôm sau thẳng tiến thêm 24km đến khu vực Cầu Đất (Lâm Đồng).


< Các "chiến mã" đã vào đến địa phận Cầu Đất.

Cầu Đất (Lâm Đồng) là địa chỉ khá quen thuộc và đắt giá với dân trong ngành cà phê do đây gần như là vùng đất duy nhất tại VN có thể trồng cà phê Arabica, loại cà phê rất khó trồng, có vị đắng mạnh nhưng cực kỳ thơm và có ít cafein. Chính vì ưu thế này, trên thế giới Arabica được đánh giá cao hơn hẳn giống cà phê Robusta, hiện trồng chủ yếu tại Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum nước ta.

2. Trời lành lạnh, tiếng xe chạy rào rạo bởi sên lâu ngày bị rơ và còn vì một chặng đường quá dài đã qua, đường cũng khá quanh co và khó đi. Tuy nhiên, không ai than vãn lấy một lời, tất cả dường như choáng ngợp bởi vẻ đẹp của rừng thông liên tục lên cao xuống thấp, hòa vào mây phía dưới chân đồi phía xa.


< Trên cao lộng gió.

Hương cà phê lẩn khuất trong từng tán cây, phiến lá ven đường, say đắm như thực như ảo thật sự là một “đặc sản” quá quyến rũ của Cầu Đất…

Cuối cùng thị trấn Cầu Đất cũng đã xuất hiện trước mắt. Một thị trấn đẹp như thơ như tranh. Nhìn ngang, dãy nhà ở phố trung tâm đẹp cổ kính với kiểu kiếu kiến trúc Pháp đã có gần trăm năm tuổi. Ngước lên, chập chùng những ngọn đồi trà, cà phê, bao la như không có điểm dừng, trải dài vô tận về phía chân trời.
Không một bóng khách du lịch, không cả những lời chào mời, cò kéo, Đà Lạt của trăm năm trước dường như đang nằm ngủ yên bình, dịu dàng ở đây…

3. Uống xong ly cà phê Arabica đậm đà, thơm phức trong gió cao nguyên lạnh buốt, không ngừng lại ở thị trấn, chúng tôi quyết định tiến trực tiếp vào khu vực trồng cà phê.

< Bạt ngàn những cánh đồng trà, cà phê.

Đường vào rẫy cà phê nhỏ xíu, chỉ vừa đủ một bánh xe lọt vào. Những cây cà phê gần sát đến mức chỉ đưa tay ra là chạm đến, giống cà phê Arabica trứ danh, một đặc ân thật sự của vùng núi heo hút này.

Tuy nhiên, dù đất đai tốt, khí hậu ưu đãi, đời sống của nông dân trồng cà phê ở đây vẫn còn rất khó khăn. Nằm lọt thỏm giữa rẫy cà phê mênh mông, họ sống trong những căn chòi nhỏ xập xệ, gia đình bốn, năm người chui ra chui vào, quanh năm mở mắt ra chỉ thấy cây cà phê và núi đồi, và bầu trời trên cao. Thế là hết! Nhiều nhà ở khu này, chủ nhà về quê hết cả nhưng nhà thậm chí còn không có khóa hoặc khóa hết sức lỏng lẻo, thờ ơ, thì nhà có gì đâu mà lo, mà giữ.


< Một góc thị trấn Cầu Đất.

Đứng lặng trước những ngôi nhà này, không ai bảo ai đều khá ưu tư. Tiếng là dân ghiền cà phê, thậm chí đã mở quán cà phê nhưng đây mới là lần đầu tiên chúng tôi đến trực tiếp nơi trồng ra cây cà phê, nhìn thấy hạt cà phê còn đọng nguyên sương sớm và nhất là nhìn rõ được đời sống khó khăn của những người nông dân ở đây. Tự nhiên thấy mình cần phải làm cái gì đó có trách nhiệm hơn, không chỉ đơn thuần là mua bán lợi nhuận nữa.

4. Bốn giờ chiều, sương xuống, trời cũng bắt đầu tối dần, đoàn rời Cầu Đất trong sự luyến tiếc. Chưa xa đã nhớ. Nhớ hương cà phê Arabica vương vấn trên vai áo ướt sương, trên bàn tay xoay xoay ly cà phê nhỏ nhắn, ấm sực. Nhớ những ngôi nhà bé nhỏ trên rẻo cao lắt lay gió thổi...
Cà phê ở đây ngon không chỉ nhờ đất tốt, mà hình như còn vì linh hồn hãy còn thô ráp, nguyên sơ rất riêng, rất khác của miền sơn cước này…

Du lịch, GO! - Theo Đoàn Bảo Châu (Dulich.Tuoitre)
Huyện Nà Hang (Tuyên Quang) có 10 di tích lịch sử vừa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia.

Tại buổi lễ khai mạc Tuần Văn hóa - Du lịch với chủ đề “Hồ trên núi” của huyện Nà Hang nằm trong Tuần Văn hóa - Du lịch "Về với xứ Tuyên" năm 2009 của tỉnh diễn ra đêm 04/10/2009, Đảng bộ và nhân dân huyện Nà Hang đã tổ chức long trọng lễ đón nhận Bằng xếp hạng Di tích Quốc gia cho các di tích, gồm: Hang Phia Vài, động Song Long, thác Nặm Me (Khuôn Hà); hang Phia Muồn (Sơn Phú); đền Pác Tạ (thị trấn Nà Hang); chùa Phúc Lâm, Xưởng Quân khí H52, thắng cảnh Thượng Lâm (Thượng Lâm); Cơ quan Ấn loát đặc biệt Trung ương, Địa điểm sản xuất diêm tiêu (Năng Khả).

Động Song Long:

Thắng cảnh động Song Long (Khuôn Hà) là một hang động đẹp và và có quy mô khá lớn trong vùng, cách mặt nước hồ thủy điện trên 200m, lòng hang có chiều cao khoảng 40m, rộng khoảng 50m, sâu trên 200m, nhiều cột thạch nhũ với các hình thù kỳ thú, màu sắc lấp lánh như hoa cương, lòng hang được chia thành nhiều ngách ngăn nối tiếp nhau, hấp dẫn khách đến tham quan du lịch.

Hang Phia Vài:

Di tích hang Phia Vài (Khuôn Hà) là di chỉ khảo cổ điển hình, tìm thấy hàng nghìn công cụ lao động có niên đại cùng thời văn hóa Hòa Bình và bộ di cốt người nguyên thủy bán hóa thạch. Những di cốt động vật chủ yếu thuộc tập hợp bán hóa thạch của lớp địa tầng kết vón tầng văn hóa sớm, trong tập hợp di cốt bán hóa thạch có răng người khôn ngoan (Homo sapiens) và đại diện của quần động vật hậu kỳ Cánh tân như đười ươi (Pongo sp). Những di cốt này nằm trong lớp trầm tích có độ kết vón rắn chắc cùng với các di tích động thực vật khác như ốc núi, cua đá, hạt trám là những di vật đặc trưng cho giai đoạn văn hóa có niên đại từ 20.000 đến 11.000 năm cách ngày nay.

Những di cốt động vật bán hóa thạch tìm được ở Phia Vài bổ sung thêm những tư liệu quý để nghiên cứu về cổ môi trường và con người trong giai đoạn chuyển từ Cánh tân sang Toàn tân ở nước ta. Bếp lửa và mộ táng của di chỉ hang Phia Vài đã góp thêm tư liệu quý để tìm hiểu về táng tục, đời sống tinh thần cũng như cấu trúc xã hội của cư dân tiền sử. Bộ di cốt người nguyên thủy chôn nằm co, bó gối với cách khâm liệm độc đáo, táng thức bỏ ốc biển vào hốc mắt người quá cố đã cung cấp cho các nhà nghiên cứu cổ nhân học tìm được những chứng tích quan trọng về quá trình tiến hóa chủng tộc người, cũng là bộ di cốt điển hình, độc đáo ở Đông Nam Á. Di tích bếp lửa tìm được ở Phia Vài thuộc lớp văn hóa muộn có niên đại khoảng 8.000 năm cách ngày nay, diện tích bếp không lớn, có thể phục vụ việc sưởi ấm hoặc nướng thức ăn cho một nhóm cộng đồng người theo kiểu huyết thống.

Hang Phia Muồn:

Di tích hang Phia Muồn (Sơn Phú) nằm trong khu vực phổ biến là những núi đá phiến sét vôi xen kẽ những núi đất, những dải thung lũng hẹp và những thảm rừng nguyên sinh còn khá nguyên vẹn. Phia Muồn là một di chỉ cư trú và là khu mộ táng của cư dân thuộc nhiều giai đoạn tiền sử khác nhau. Địa tầng và di vật khảo cổ học kèm theo cho thấy có 2 mức văn hóa thuộc 2 giai đoạn phát triển hậu kỳ đá mới: Mức sớm chứa những công cụ tiêu biểu kỹ nghệ truyền thống Hòa Bình như rìu ngắn, công cụ hình đĩa, công cụ bầu dục vv...

Sự có mặt của nhiều mảnh tước chứng tỏ người nguyên thủy Phia Muồn đã chế tác công cụ ngay tại di chỉ. Lớp văn hóa sớm thuộc giai đoạn sớm của hậu kỳ đá mới, có niên đại khoảng từ 4.300 - 4.000 năm cách ngày nay. Lớp văn hóa muộn thuộc giai đoạn hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim khí có niên đại từ 4.000 - 3.500 năm cách ngày nay. Hai lớp văn hóa sớm và muộn nằm chồng trực tiếp lên nhau, phát triển liên tục, không có lớp giãn cách.

Táng tục và đồ tùy táng cho thấy, toàn bộ 12 ngôi mộ thuộc hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim khí là tục chôn người thân ngay trong di chỉ, với một số loại táng thức mới: bên cạnh táng thức truyền thống trước đó, kiểu chôn người chết nằm co, bó gối là táng thức nằm ngửa, duỗi tay chân và kè đá xung quanh.

Những tài liệu ở Phia Muồn đã cung cấp thêm về một loại táng thức cổ mới phát hiện ở Tuyên Quang, đó là tục chôn kè đá vây xung quanh huyệt mộ và rải đá lên thân thể người chết đã hình thành một loại hình văn hóa Hòa Bình thuộc lưu vực sông Gâm, với những sắc thái riêng, tạo nên diện mạo, bản sắc vùng, phản ánh tính đa dạng trong thống nhất của nền văn hóa Hòa Bình nổi tiếng.

Đền Pác Tạ:

Di tích đền Pác Tạ (thị trấn Nà Hang) là một trong những dấu tích còn lại minh chứng cho cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai năm 1285: vị tướng tài giỏi Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật lúc đó đương trấn thủ vùng đất Tuyên Quang đã khôn khéo chỉ huy quân chống giặc từ Vân Nam xuống. Theo những tư liệu lịch sử cho thấy, ngôi đền Pác Tạ được dựng lên bên Gâm giang dưới ngọn Tạ sơn để phụng thờ và ngưỡng vọng vị hôn phu (người vợ sắp cưới) của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật.

Hình ảnh về vị hôn phu của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đã được người dân nơi đây khoác lên tấm áo truyền thuyết ly kỳ lưu truyền từ đời này qua đời khác. Truyền thuyết kể lại rằng: Trong thời gian trấn thủ vùng đất Tuyên Quang xưa, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đã đem lòng ái mộ con gái một viên tù trưởng địa phương. Cô thiếu nữ miền sơn cước tài mạo, xinh đẹp, tính tình hiền thục lại xuất thân trong một gia đình hiếu học. Sau khi đánh đuổi quân xâm lược Nguyên - Mông, triều đình đứng ra tổ chức hôn lễ cho tướng quân Trần Nhật Duật với ái nữ xứ Tuyên.

Trên đường đón vị hôn phu của Tướng quân họ Trần về kinh đô, qua đây gặp cơn lốc xoáy dữ khiến thuyền bị lật. Người vợ trẻ của Trần Nhật Duật và cả đoàn tùy tùng bị chìm d­ưới dòng sông. Đã mấy ngày trôi qua, mà thân xác bà vẫn chưa được tìm thấy. Cảm thư­ơng trước tình cảnh của bà, triều đình đã ra lệnh cho toàn dân đôi bờ sông Gâm tổ chức tìm vớt thi thể bà và trọng thưởng cho ai tìm thấy. Khi đó có ng­ười trong dòng họ Ma đã vớt được thi thể bà. Để t­ưởng nhớ người vợ trẻ của Chiêu Văn v­ương Trần Nhật Duật, những ngư­ời dân địa phư­ơng đã lập đền thờ ngay tại nơi bà quy thác. Và dòng họ Ma đư­ợc quyền chăm lo hương khói cửa đền từ đó.

Chùa Phúc Lâm:

Di tích chùa Phúc Lâm (Thượng Lâm) được khởi dựng trong lịch sử đương đại thời nhà Trần lựa chọn Phật giáo làm hệ tư tưởng chính thống (hay còn gọi là Quốc giáo), đây là ý thức hệ làm cơ sở để triều đình phong kiến xây dựng đường lối trị nước của mình. Chính vì vậy, vào thời kỳ này, rất nhiều chùa tháp đã được dựng lên. Khác với các ngôi chùa thời Lý trước đây thường do triều đình xây dựng với quy mô lớn (đại danh lam), do các hoàng hậu, phi tần xây dựng (trung danh lam) và do các nhà sư cùng nhân dân xây dựng (tiểu danh lam).

Sang thời Trần, chùa chủ yếu do nhân dân quyên góp công sức, tiền của xây dựng (hay còn gọi là chùa làng) để phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân địa phương. Qua nghiên cứu các di vật lịch sử hiện còn lưu giữ tại chùa, như tảng kê chân cột bằng đá xanh, mảng trang trí vật liệu kiến trúc bằng đất nung, bình đồ kiến trúc của ngôi chùa xưa, các mảnh tháp đất nung cùng hệ thống tượng thờ độc dáo... cho phép khẳng định, ngôi chùa Phúc Lâm mang phong cách kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc từ thời Trần (thế kỷ XIII – XIV) và trải qua nhiều thời kỳ tồn tại cho tới các giai đoạn sau này.

Cơ quan ấn loát đặc biệt Trung Ương:

Di tích Cơ quan Ấn loát đặc biệt Trung ương (Năng Khả): Ngày 7-10-1947, giặc Pháp ồ ạt tấn công lên Việt Bắc hòng triệt phá cơ quan đầu não kháng chiến và các cơ sở kháng chiến của ta. Chúng nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn, tiến công thành hai gọng kìm chiếm đánh thị xã Tuyên Quang, đánh lên Bản Thi (Chiêm Hóa) và dò tìm, triệt phá cơ sở in bạc Việt Nam và đầu não kháng chiến của ta. Nắm bắt trước ý đồ của thực dân Pháp xâm lược, công nhân Cơ quan Ấn loát đã được lệnh đánh sập nhà xưởng, ngụy trang máy móc và di chuyển số tiền đã được sản xuất trị giá 20 triệu đồng lên cất giấu tại hang Nà Thẳm và hang Nà Bó, thôn Nà Chác, xã Năng Khả (Nà Hang). Nơi đây cũng là địa điểm tổ chức in tiền đầu tiên của nhà nước cách mạng Việt Nam.

Thắng cảnh Thượng Lâm:

Di tích Xưởng Quân khí H52 (Thượng Lâm) và địa điểm sản xuất diêm tiêu (Năng Khả) là 2 cơ sở trọng yếu khai thác và sản xuất diêm tiêu phục vụ kháng chiến chống thực dân Pháp giai đoạn từ năm 1950 đến 1954, nơi có vị trí bảo đảm bí mật, an toàn, là nơi có nguồn nguyên liệu dồi dào để sản xuất diêm tiêu thô và than củi (hai nguyên liệu chính để sản xuất thuốc súng).

Xưởng Quân khí H52 do đồng chí Ngô Gia Khảm làm giám đốc, chuyên sản xuất diêm tiêu làm thuốc súng (còn gọi là thuốc đen) đã đáp ứng một phần chế tạo vũ khí như lựu đạn, mìn, thuốc phóng, dây cháy chậm, pháo hiệu phục vụ chiến trường.

Thác Nặm Me:

Thắng cảnh thác Nặm Me (Khuôn Hà) là một con thác lớn tiêu biểu trong vùng, có chiều dài khoảng 4.000m, cao trên 200m so với mặt nước biển với 15 tầng thác lớn, xen giữa các tầng thác lớn là những tầng thác nhỏ với lưu lượng nước khá đều quanh năm.

Thác có bề mặt rộng và thoáng, nước chảy bốn mùa len lỏi qua những cánh rừng nguyên sinh và dãy núi đá vôi trùng điệp, cây rừng cổ thụ mang đặc trưng các loại gỗ quý hiếm vùng nhiệt đới, liền kề với mặt hồ thủy điện Tuyên Quang tạo nên phong cảnh đẹp và hấp dẫn.

Du lịch, GO! - Theo CTTĐT Tuyên Quang, internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống