Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Sunday, 17 March 2013

Hồ Lắk – một trong những hồ nước ngọt lớn nhất ở Việt Nam - nằm ở huyện Lắk, cách TP.Buôn Ma Thuột hơn 50km. Thay vì đi thuyền độc mộc theo cách bình thường, tôi khuyên bạn hãy thêm vào “từ điển giao thông” của mình một cách di chuyển mới: Bơi cùng voi trên hồ Lắk.

Truyền thuyết hồ Lắk của người Mơ Nông là câu chuyện về một chàng trai tìm hồ nước cứu buôn làng Mơ Nông. Chàng trai được sinh ra bởi một thần lửa và một cô gái Mơ Nông. Khi đó, thần lửa đã chiến thắng thần nước sau cuộc chiến kéo dài khiến buôn làng của người Mơ Nông hạn hán kéo dài...

Để sửa chữa sai lầm của người cha, chàng trai đã tìm được vùng đất có hồ nước mênh mông giúp người Mơ Nông định cư, sinh sống. Hồ nước đó có tên là hồ Lắk.

Muốn khám phá vẻ đẹp tự nhiên của hồ Lắk, có hai lựa chọn: Đi thuyền độc mộc hoặc ngồi chễm trệ trên những thớt voi. Dù đã có dịp cưỡi voi ở buôn Đôn, nhưng vẫn nên chọn cách thứ hai.

Mỗi chú voi cõng một quản tượng và hai người khách trên lưng lúc lắc đuôi rồi từ từ trầm mình xuống nước. Cảm giác không gian mở rộng òa. Những nếp nhà, cây cối không còn là vật cản nữa. Voi càng tiến ra xa, cảm giác mình là trung tâm của khung cảnh hồ Lắk càng rõ rệt.

Ngấn nước dần cao gần đến mắt voi, trên gương mặt vài vị khách nữ thoảng xuất hiện nét lo lắng. Đáp lại, quản tượng vẫn điềm tĩnh điều khiển voi tiếp tục tiến ra xa. Rồi các vị khách cũng nhận ra chân voi không còn chạm đáy hồ nữa: các chú voi thật sự bơi ở hồ Lắk. Có chú voi nghịch ngợm nhúng vòi hút nước rồi phun phì phì. Khi đã hòa mình vào không gian xung quanh thì sự chống chếnh khi ngồi trên lưng voi bơi giữa hồ không còn đem lại sự lo lắng, sợ hãi cho du khách nữa. Thay vào đó là trải nghiệm thú vị trên một phương tiện vận chuyển cồng kềnh giữa hồ nước mênh mông. Rõ ràng, trải nghiệm này ăn đứt việc lướt đều đều trên mặt nước bằng thuyền độc mộc.

Hành trình dạo chơi hồ Lắk trên lưng voi thường kéo dài 30 phút, khách cũng có thể đàm phán trước nếu muốn có thêm thời gian khám phá vẻ đẹp huyền bí của hồ. Sau hành trình, có thể tặng một nải chuối cho voi. Tận tay đưa chuối để voi dùng vòi cuốn lấy cũng là một cảm giác thú vị nên thử.

Hơn thế, ngoài khoản tiền vé, không có bất cứ sự phiền hà nào từ các quản tượng khi du khách muốn chụp ảnh cùng voi hay hỏi thêm thông tin về những nét độc đáo của hồ Lắk.

Du lịch, GO! - Theo báo Lao Động, ảnh internet
Phước Tường là một ngôi chùa cổ tọa lạc ở đường 102, KP7, P. Tăng Nhơn Phú A, Q9, TP.HCM. Chùa Phước Tường cũng là di tích lich sử văn hóa cấp quốc gia, được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận cấp bằng ngày 27/7/1993 và công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật theo quyết định VH/QĐ 43 ngày 7/1/1993.

Phước Tường là một ngôi chùa cổ tọa lạc ở đường 102, KP7, P. Tăng Nhơn Phú A, Q9, TP.HCM. Chùa theo hệ phái Bắc tông, do thiền sư Linh Quang – Phật chiếu (1736-1788), đời thứ 35 thiền phái Lâm Tế khai sơn. Ngài là đệ tử Hòa thượng Thành Nhạc - Ấn Sơn, pháp tôn của Hòa thượng Nguyên Thiều – Thọ Tông. Chùa Phước Tường Được khai sơn vào năm 1741. Nhưng theo lời các bô lão thì ngôi chùa bấy giờ ở gần chợ Nhỏ (Tăng Nhơn Phú), cách địa điểm hiện nay khá xa.

Sau khi Tổ khai sơn tịch, đệ tử là Tổ Thuận – Đức Ấn kế thế, rồi tiếp tục sư đệ là Tổ Chơn – Phước Quang từ chùa Phước Hưng đến thay. Hòa thượng Phước Quang có 2 đệ tử là Thiền sư Tiên Hiền – Từ Minh (Diệu Minh).

Đến năm Giáp Ngọ (1834) đời Minh Mạng, trụ trì đời thứ tư là Từ Minh, dời chùa đến địa điểm hiện nay, tái thiết quy mô. Sau Thiền sư Tiên Hiền, trụ trì chùa Phước Tường là Thiền sư Minh Huệ - Thắng Phước, Như Tần – Phước Huệ, Kiểu Lượng – Tâm Thọ. Đến đầu thế kỷ thứ XX, trụ trì chùa là Thích Hóa Thông. Đại sư là một tu sĩ có khí chất của một hào kiệt, tham gia phong trào Thiên Địa Hội (1913-1916) nên bị bắt tù đầy, hy sinh. Chùa Phước Tường do không có trụ trì bị suy sụp. Mãi đến 5, 6 năm sau, bổn đạo mới thỉnh Hòa thượng Thích Pháp Ấn về trụ trì. Hòa thượng Thích Pháp Ấn là đệ tử của Hòa thượng Minh Phương – Chơn Hương ở chùa Linh Nguyên (Đức Hòa) đã trùng tu chùa Phước Tường năm 1930.

Sau khi Hòa thượng Thích Pháp Ấn tịch, đệ tử Hồng Diệp – Bửu Ngọc kế thế ngài đã trùng tu chùa Phước Tường năm 1950, xây dựng một số công trình phụ năm 1990. Trụ trì chùa Phứơc Tường hiện nay là Đại đức Thích Nhựt An, đệ tử Hòa thượng Thích Bửu Ngọc.

Chùa Phước Tường hiện nay nằm trên khu đất khá rộng, gần 3ha, ngôi chùa nép mình dưới nhiều cây cổ thụ rậm như một khu rừng. Từ ngoài cỗng bước vào nhìn qua bên phải là một khu đất rộng dành cho rừng cây. Giữa cảnh ấy lại điểm thêm một vài ngôi tháp, một vài ngôi mộ cổ rêu phong thì không đâu sánh bằng. Quả là sơn lâm hóa thành thị, thành thị hóa sơn lâm.

Cổng tam quan của chùa quay về hướng bắc. Trước đây chùa Phước Tường ở trên khu đất rộng không rào, không cổng. Mãi đến năm 1990, Hòa thượng Thích Bửu Ngọc mới xây một chiếc cổng hình cổ lâu hai bên có một đoạn rào ngắn, vẫn còn trống trước trống sau. Cho đến nay, chùa đã được xây lại cổng tam quan và xây rào hoàn chỉnh.

Chùa được xây dựng theo chữ L ngược, có trục chính và trục phụ. Trục chính là một tập thể qui mô. Kiến trúc bao gồm: chánh điện, tổ đường, giảng đường, sân thiên tĩnh, tăng đường. Trục phụ gồm Đông lan nằm bên trái trục chính.

Quy mô chùa Phước Tường hiện nay, tuy được trùng tu vào năm 1930, nhưng vẫn còn giữ được nét truyền thống. Chùa có 3 nóc xếp đọi theo hình chữ “khẩu”. Phía trước là tiền điện, một ngôi nhà ba gian hai chái; giữa là chánh điện, sau là giảng đường, sau rốt là nhà Giám Trai và nhà kho. Các công trình này đều bằng gỗ quý, mái ngói âm dương, rêu phong cổ kính. Đa số các công trình này đều thiết kế theo qui mô hình nhà tứ trụ, trừ các công trình phía phía sau, không cần thiết. Trước đây, vách chùa và cửa chùa đều bằng gỗ, mái ngói âm dương nhiều lớp, nên nội điện mát mẻ. Nhưng càng về sau, theo khuynh hướng chung của xã hội, vách ván được thay thế bằng vách gạch kiên cố, gỗ được sơn son, đẹp mắt hơn trước.

Tiền điện có bố trí tượng Hộ Pháp. Tại đây có thờ Hộ pháp Di Đà (giữa), hai bên là Thiện Hữu, Ác Hữu. Đại Hùng Bảo Điện tức là chánh điện rộng rãi. Bàn thờ chính thờ Tam Thế Phật (quá khứ, hiện tại, vị lai), bộ tượng bằng gỗ, thếp vàng. Cũng tại bàn thờ này còn có thờ Di Đà Tam Tôn (Di Đà, Quan Âm, Đại Thế Chí), Thích Ca thành đạo (phong cách Khmer), Tất Đạt Đa giáng thế, Di Lặc, Kim Cương, kể cả Ngọc Hoàng Thượng Đế, Nam Tào, Bắc Đẩu.

Xung quanh chánh điện là bàn thờ Thập Điện Minh Vương, Quan Thánh Đế Quân, Phật Dược Sư, Long Vương,… Trên có tấm hoành phi khắc bốn chữ “Thôi tà phụ chính” (Đuối tà giúp chính).

Chùa Phước Tường cũng như các chùa ở Nam Nộ đều bày trí theo công thức “Tiền Phật hậu Tổ”. Thế nên, phía sau bàn thờ chánh điện là bàn thờ Tổ, thờ Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma và 10 vị cao tăng đã trụ trì chùa. Tượng Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma chùa Phước Tường bàng gỗ, đã được Việt hóa nhân chủng. Theo các nhà nghiên cứu, pho tượng này trước kia thờ bên phải bàn thờ chính, gần đây được đưa ra phía sau, để thay thế vào đó là tượng Long Vương,… Nơi đây có bức hoành phi và những câu đối hàng trăm năm tuổi.

Trước bàn thờ Tổ sư tiền bối là bàn thờ Chuẩn Đề Vương. Hai bên là bàn thờ Thập phương bổn đạo quá vãng, mà lúc sinh thời họ thường đến thăm chùa. Giảng đường (tức Bác Nhã đường) là ngôi nhà khá rộng. Giữa là tượng Chuẩn Đề Vương, vị Bồ Tát Mật Tông có 3 mắt, 18 tay. Phía sau là quá đường (nơi tổ chức trai tăng), hai bên là hai bộ phản, dùng làm nơi bày tiệc chay đãi chư tăng hoặc đãi khách quý. Giảng đường là nơi học tập của chư tăng chùa.

Sau giảng đường là sân Thiên tĩnh, nơi đây giống như một cái giếng trời, ở dưới có Hòn non bộ, trên là khoảng trống giữa bốn bên mái ngói. Nơi đây nước chảy róc rách, thỉnh thoảng có vài tiếng chim kêu, giữa một không gian với những mái ngói rêu phong, lại thêm vào đó là những cặp liễn đối, bức hoành phi làm cho nơi đây đậm chất cổ kính thật không đâu sánh bằng.

Tiếp sau sân Thiên tĩnh là nhà Giám Trai. Nơi đây có bàn thờ Mẹ Sanh – Mẹ Độ (bộ tượng có 7 nữ thần chính và 2 nữ thần bồng con đứng hầu). Tương truyền các vị nữ thần này rất thiêng, những gia đình hiếm muộn hoặc sinh con khó nuôi đều đến đây cầu khẩn. Đặc biệt, tại bàn thờ Mẹ Sanh – Mẹ Độ còn thờ một bức tượng nữ thần bằng sa thạch, có từ đời Phù Nam. Bức tượng này tìm được trong khuôn viên chùa Phước Tường, đào thấy trong lòng đất, khi đốn một cây cổ thụ, cách nay khá lâu.

Vị thần này búi tóc trên đỉnh đầu có trang sức, mắt lộ, môi mỏng. Đối diện bàn thờ Mẹ Sanh – Mẹ Độ là bàn thờ Quan Âm Thị Kính bồng con (đứng), và tượng Giám Trai sứ giả Bồ Tát. Tương truyền ông Giám Trai là một nông dân chất phát, chỉ có sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật” mà cũng không thuộc nổi. Thế nhưng với lòng chân thật, siêng năng công quả mà ông đã thành một vị hộ trì ngôi Tam Bảo.

Đặc biệt hai bàn thờ này được tương truyền là cho xăm rất linh. Khách thập phương đến đây xin xăm rất nhiều, để biết được điềm kiết hung cho mình. Sau nhà giám trai là nhà bếp, công trình phụ, nhà kho. Bên tây nhà Giám Trai là Hội trường, nơi các giảng sư giảng dạy Phật học cho Phật tử. Hiện nay nhà chùa xây dựng thêm nhà Tịnh Độ đạo tràng để phục vụ cho Phật tử tu học trong các khóa tu Phật thất.

Hiện nay chùa Phước Tường có 53 pho tượng, 13 bức hoành phi, câu đối và nhiều bao lam, thần vọng, bài vị. Bao lam chùa Phước Tường chạm trong khoảng năm 1921, lấy đề tài tứ linh, chim hạc và cây tùng, chim trĩ và hoa mẫu đơn, chim phượng và hoa sen…

Tượng thờ có nhiều loại. Có tượng bằng đá, bằng đất, nhiều nhất là bằng gỗ. Một số tương gỗ ở chùa tạc vào đầu thế kỷ XIX, còn nét thô phát nhưng có giá trị lớn của cổ vật niên đại hàng trăm năm. Chùa Phước Tường đặc biệt còn có nhiều câu đối văn hay, chữ đẹp, chạm trổ tinh xảo, sơn son thếp vàng rực rỡ. Có ba câu đối quán thủ hai chữ “Phước Tường”:

Nội dung câu đối này bày tỏ quan niệm đại đức theo quan niệm Tam giáo đồng nguyên. Đặc biệt, nếu viết chữ Hán, thì câu “Hiệu uông nhương, cần miễn lễ, động cù lao” đều có bộ “lực”. Câu “Chí trung thứ, niệm từ bi, tư cảm ứng” đều có bộ “tâm”.

Du lịch, GO! - Theo Theo Phatgiao.org.vn, internet
huyện miền núi Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi có đến 90% là đồng bào H’rê. 
Nhưng bây giờ, muốn tìm một bản làng có nhà sàn đẹp, còn mang đậm nét nguyên sơ của người dân tộc thiểu số H’rê để nghe họ gõ túc chiêng, hay nghe các điệu kà lêu, kà choi thì nên về xã Ba Nam, cách huyện lỵ Ba Tơ 40km, giáp huyện An Lão, tỉnh Bình Định.

< Một góc thôn Làng Dút.

Mùa xuân, dòng suối Lếch nước trong xanh. Phía trên dòng suối là thôn Làng Dút 1 gồm 45 hộ, với trên 200 nhân khẩu cư trú, chỉ toàn là những ngôi nhà sàn, có cột làm bằng gỗ ké, sàn bằng gỗ lim và vách là gỗ chò.

Giữ cho dòng suối trong xanh

Đưa tay chỉ chiếc cột nhà bằng gỗ ké có đường kính hơn một vòng tay ôm, ông trưởng thôn Phạm Văn Hải nói, hồi đó, Ba Nam có những cánh rừng lim, chò cao ngút tầm mắt. Nhưng để giữ cho con suối trong xanh, theo lệ của làng, hộ dân nào muốn chặt cây gỗ để làm nhà, thì họ phải xin phép các già làng, chọn những cây gỗ lớn nằm trong khu vực cho phép mới được khai thác, chứ không được chặt phá tràn lan.

Sau khi được các già làng đồng thuận, chủ hộ về bày lễ cúng Giàng rồi mới nhờ bà con cùng vào núi khai thác gỗ. Cây gỗ ké – mối mọt đục không thủng, nắng mưa không mục – được người H’rê chọn để làm cột cái chống đỡ nhà sàn. Muốn làm cột, đồng bào phải đốn hạ và để giữa trời cho nắng mưa làm bong tróc vỏ, sau đó, họ mới lấy lõi cây khiêng về. Còn cây lim, cây gõ, sau khi đốn hạ, cưa xẻ xong chuyển về nhà cũng để cả năm trời, họ mới đem làm ván sàn, vách gỗ.

Khi bước vào những ngôi nhà sàn của người dân tộc H’rê ở xã Ba Nam, ai cũng có thể cảm nhận một không khí mát rượi vào những buổi trưa hè và thật ấm áp trong những ngày mùa đông giá rét. Tại nơi đây, có những ngôi nhà “tam đại đồng đường”, người H’rê cho ngăn ra, mà khi đứng phía ngoài nhìn, ai cũng có thể phân biệt bằng những cửa sổ ngay bên hông nhà sàn.

Tuy nhiên, chừng mười năm trước, khi con đường từ thị trấn Ba Tơ về Ba Nam được mở, thanh niên người dân tộc thiểu số có dịp tiếp xúc, làm ăn với người Kinh, nên họ muốn làm nhà trệt, mái lợp ngói. Nhưng rồi, với cái giá lạnh buốt xương của miền rừng núi, cộng với sinh hoạt bất tiện, nên sau khi suy đi tính lại, nhiều thanh niên dân tộc thiểu số đã từ bỏ ý định làm nhà trệt, mái ngói như người Kinh.

Trong khi đó, theo tháng năm, những ngôi nhà sàn của người H’rê với những cây cột gỗ ké, ván sàn bằng gỗ lim, vách bằng gỗ chò đã lên nước, ngày càng trở nên bóng láng. “Ở làng, có lúc, có những người Kinh giàu có, họ lên đây tìm mua cả xác nhà sàn, rồi họ thuê cả chủ nhà cùng người dân trong thôn xuống dưới xuôi để dựng lại nhà sàn trong vườn nhà của họ. Nhiều người ra giá cho một nhà sàn trên trăm triệu đồng, nhưng bà con mình do sinh ra, lớn lên từ nếp nhà sàn, nên họ không chịu mua bán gì đâu”, già làng Phạm Văn Măng nói giọng tự hào.

Nên bảo tồn nhà sàn của đồng bào H’Rê

Theo phó chủ tịch UBND xã Ba Nam, ông Nguyễn Duy Minh Phụng, những năm gần đây, xã vận động đồng bào H’rê thực hiện chủ trương vui xuân đón tết phải đảm bảo an toàn, tiết kiệm; không được đón tết kéo dài làm ảnh hưởng đến việc học hành của con em. Trước tình trạng các ngôi nhà sàn đang mất dần trên nhiều bản vùng cao, xã chủ trương vận động đồng bào gìn giữ nề nếp ở nhà sàn và xã có kế hoạch kiến nghị cấp trên nên cho bảo tồn nhà sàn, cùng các làn điệu dân ca của đồng bào H’rê ở xã Ba Nam.

Không như người Kinh cùng nhau đón tết, người H’rê ở Ba Nam lại đón tết theo từng bản. Khi bản này tổ chức đón tết thì họ mời sui gia, người thân ở các bản khác đến dự, sau đó, bản khác tổ chức đón tết thì bản này lại kéo nhau sang. Theo già làng Phạm Văn Huyền ở bản Xà Ây, xã Ba Nam, để đón tết, từ đầu năm trước, mỗi hộ đều chọn con chua (con heo) nuôi cho thật lớn để tết giết thịt làm món cúng Giàng.

Nhấp chén nước chè tươi, già làng Phạm Văn Tành kể: “Đồng bào mình trước đây một năm đón hai cái tết: tết Đeang’Yoh vào tháng 7 âm lịch, tết này họ cúng heo, gà, nhưng chỉ dừng lại ở từng gia đình, chứ không mời khách. Còn tết quan trọng nhất là tết deng kân – tức tết ngã rạ mừng mùa lúa mới vào tháng 3 âm lịch. Ngày tết của người H’rê, nhà nhà cúng Giàng, cúng thần linh, thần nước, cúng con trâu, bà con uống rượu cần và hát múa những điệu hát truyền thống”.

Trước ngày tết một tháng, cánh trai tráng trong làng kéo nhau vào rừng tìm rễ cây loangblo đem về cùng với củ gừng, củ riềng đem cắt nhỏ trộn bột nếp ủ thành men; sau đó, họ chọn loại nếp rẫy dẻo quánh, có mùi thơm đem nấu, rồi ngâm ủ cho lên men thành rượu cần Ba Nam (nổi tiếng khắp vùng tây Quảng Ngãi). Sau đó, họ tổ chức săn nhím, săn chồn lấy thịt phơi khô để lên giàn bếp. Đến ngày giáp tết, bà con lại ra suối bắt cá niêng, vào rừng hái măng, bắt con chuột lách để cho bữa cơm ngày tết được thêm thịnh soạn.

Tết của người H’rê diễn ra trong ba ngày. Trong đêm tết đầu tiên, giữa đêm khuya, nhà nhà tổ chức lễ vô lá, tức lễ cúng Giàng, vật cúng là nắm cơm, nắm muối và một quả trứng gà. Sau lễ cúng, những người mẹ, người vợ, những cô gái bắt đầu gói bánh ga gu – loại bánh nếp lá dong không nhân, rồi nấu để sáng sớm ra, họ vớt bánh làm lễ vật cúng thần nước và cúng con trâu.

Ông Phạm Văn Tành, cho biết: “Với đồng bào H’rê, nguồn nước là nơi nữ thần Va Da ngự trị, là nơi giữ hồn người, giữ gia tài, súc vật của bản làng. Đồng bào cúng thần nước là để tri ân nguồn nước đã giúp cho người dân bản cấy cày, gieo hạt trên nương, có được sự no đủ, đồng thời, họ mời thần nước về cùng ăn tết với dân bản”. Sau lễ cúng thần nước, nhà nhà cúng rước ông bà cùng về đón tết. Nghi lễ cũng có rượu cần, có bánh ga gu và đầu heo.

Tiếp theo lễ cúng thần nước, cúng rước ông bà, người H’rê lại cúng chuồng trâu (gọi là quay ca pơ) với những lễ vật gồm: gà, bánh ga gu và rượu trắng. “Người H’rê quý con trâu lắm! Nhờ có con trâu cày bừa, đồng bào làm ra lúa gạo, nên đồng bào làm lễ vật cúng thần linh phù hộ cho con trâu khoẻ mạnh, để giúp mình cày cấy”, ông Tành nói.

“Không say không về”

Trong ngày tết thứ hai, sau khi cúng thần nước, cúng trâu, người làng thường gõ túc chiêng, vỗ ra vút bằng ống lồ ô để báo mùa xuân đã về, hay họ hát điệu kà lêu, kà choi. Khi vỗ đàn ra vút, một người dùng tay bịt đầu ống để nén âm, một người giữ ống lồ ô, còn một người dùng tay để vỗ. Những tiếng chiêng, tiếng ra vút, tiếng hát điệu kà lêu (điệu hát kể về thần linh, về người anh hùng của cộng đồng), tiếng hát điệu kà choi (tức hát đối đáp với giai điệu rất mượt mà, tình cảm với những đề tài tình yêu quê hương, lứa đôi) cùng hoà âm, vang vọng khắp bản thôn, ngân vang cả núi rừng.

Sau khi hát múa, những thanh niên lại sà vào những mâm cơm được dọn sẵn gồm: cơm nếp, thịt kho, canh rau dớn nấu ốc đá, thịt luộc, bánh ga gu, rượu cần, cá niêng nướng chấm muối ớt, đặt ở giữa giữa sàn để họ cùng nhau chia sẻ. Họ ăn món cá niêng chấm muối béo ngậy, món bánh ga gu dẻo quánh, cùng nếm với rượu cần Ba Nam nổi tiếng thơm lừng, thế rồi, tất cả họ cùng ngất ngây...

Rồi đêm xuống, trong tiết trời lành lạnh, cánh thanh niên lại chất củi ngoài sân đốt lửa, lại tiếp tục hát múa, họ gõ túc chiêng và uống rượu cần cho đến ngày thứ ba, người dân trong bản mới chấm dứt cuộc vui và chủ nhà này lại đến thăm chúc tụng nhau. Do người H’rê vốn hiếu khách, nên sau khi chếnh choáng men say, họ vẫn cứ vít cần rượu bảo nhau cùng uống thêm chén nữa. Bởi lẽ, theo họ, khi vui thì phải uống cho say; nếu không say, thì không về; mà đã say thì sao còn tìm được lối mà về nữa.

Du lịch, GO! - Theo Cẩm Thư (SGTT), ảnh internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống