Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Tuesday, 26 March 2013

Mỗi khi có dịp hàn huyên tâm sự, chúng tôi vẫn nhắc đến mâm cơm với nồi cơm độn nóng hổi và chén muối nén thơm ngon đã gắn bó suốt những năm tháng tuổi thơ nghèo khó với những yêu thương, nhung nhớ giăng đầy… 

< Củ nén.

Nén vừa là loại rau vừa là gia vị như hành, tỏi nhưng vị nén rất nồng và đậm. Củ nén thuộc họ hành còn được gọi là hành hoa, hành tăm. Nén có thể làm món chiên, xào, kho, hấp hoặc nấu chè, nấu cháo.

Theo kinh nghiệm dân gian, nén có tác dụng sát trùng đường hô hấp, chống sình bụng, bổ thận, ấm lưng, chống cảm cúm, ho. Có thể dùng nén nấu nước xông hơi, chưng với đường phèn để ngậm khi bị ho khan hay ngâm rượu.

Ngoài các công dụng chữa bệnh, nén cũng là thứ gia vị tuyệt vời, mang đến hương thơm nồng đượm cho các món ăn nên hầu như nhà nào ở quê tôi cũng dành một khoảnh đất nhỏ trong vườn để trồng nén.

Nén ưa đất cát, dễ gieo trồng và chăm bón. Khi nén già, rụi lá, người ta đào lấy củ, giũ sạch đất cát, để khô ráo, mang ra chợ bán và cũng không quên để dành lại cho gia đình một lượng nén vừa đủ, bảo quản nơi khô ráo, thoáng gió, để dành ăn quanh năm.

Nén được dùng để ướp thịt, cá hay dùng để phi thơm dầu phụng, giúp các món ăn thêm nồng đượm, dậy mùi. Củ nén được đập giập chứ không bị giã nhuyễn khi ướp thức ăn, để người ăn còn có cơ hội nhẩn nha những hương vị thơm ngon ẩn chứa trong từng củ nén nhỏ xinh.

Ngoài ra, nén còn được chế biến thành các món ăn đậm chất quê. Một trong những món ăn từ nén mà những ai sinh ra và lớn lên trong những ngày quê nhà miền Trung còn nhiều gian khó sẽ không thể nào quên được chính là muối nén.

Muối nén từng là thức ăn chính và là thức ăn duy nhất trong những bữa cơm của nhiều gia đình ở quê ngày ấy. Lấy một ít muối sống cho vào nồi nhỏ, đậy nắp nồi lại, bắc lên bếp nấu cho muối chín, vỡ vụn thành bột muối, trút bột muối ra chén. Đổ dầu phụng đã được phi thơm với củ nén đập giập vào chén muối còn đang nóng, thêm một ít lá nén cắt nhỏ rồi trộn đều lên sẽ được chén muối nén thơm ngan ngát, dậy mùi hương quyến rũ, gọi mời.

Hương thơm của củ nén quyện lẫn vị béo, thơm của dầu phụng quê, đậm đà của muối hầm và màu xanh tươi của những cọng lá nén bé nhỏ rất hấp dẫn, ăn với cơm nóng trong những ngày mưa hay tiết trời se lạnh rất ngon và lạ miệng.

Vào những ngày giao mùa, tiết trời trở nên đỏng đảnh, món cháo nén ngọt thơm trở thành “thứ thuốc” giải cảm tuyệt vời. Nguyên liệu chỉ là một ít gạo tẻ nấu nhuyễn cùng thật nhiều hạt nén đập giập và một ít tiêu rừng giã nhỏ, thêm tí muối rồi ăn khi còn nóng hổi. Ăn xong trùm chăn kín cho mồ hôi trong người túa ra là cảm thấy cơ thể nhẹ nhàng, khỏe hẳn.

Đặc biệt hơn cả vẫn là chè nén. Chén chè nén nóng hổi, thơm ngan ngát hương nén, ăn khi còn nóng là bài thuốc dân gian giúp mọi người nhanh chóng phục hồi sức khỏe. Nén rửa sạch, lấy tăm nhọn đâm thủng quanh củ nén rồi chưng cách thủy với đường đen (đường bát) bốn lăm phút cho đường tan chảy, nén chín, tiết ra tinh dầu và ngấm vị ngọt của đường là dùng được.

Chè nén có vị ngọt của đường quyện lẫn vị the the của nén, mang đến cho người ăn cảm giác thú vị, tâm hồn thư thái, sảng khoái.

Du lịch, GO! - Theo H. Thảo (báo Tuổi Trẻ), internet
Tôi đến Sơn Chà, hòn đảo nhỏ nằm giữa vùng biển Đà Nẵng và Thừa Thiên - Huế để thử cảm giác đi bụi trên đảo vắng, tận hưởng thiên nhiên với những bờ đá nối dài, những dải cát trắng mịn, những trảng rừng xanh thẳm, hoang sơ.

Ban đầu, khi nghe bạn đường rủ đi Sơn Chà, tôi lập tức nghĩ ngay đến bán đảo Sơn Trà của Đà Nẵng và nghĩ bạn phát âm sai. Tôi không phải người duy nhất nhầm lẫn. Thực tế, Sơn Chà là một hòn đảo nhỏ, chỉ chừng 1,5km2 với chu vi 4km thuộc địa phận tỉnh Thừa Thiên - Huế. Nổi lên giữa biển khơi, nhìn xa trông tựa như một chiếc chảo úp ngược nên hòn đảo cao 235 mét so với mặt nước biển và rộng chừng 60 ngàn mét vuông này được dân gian gọi tên là Hòn Chảo.

Xưa, đây là vùng giáp ranh giữa Đại Việt và Chiêm Thành. Tưởng nhớ đến công lao của Huyền Trân Công chúa với cuộc tình lịch sử đã bổ sung cho giang sơn Tổ quốc thêm Thuận Châu, Hoá Châu và “thiên hạ đệ nhất hùng quan” Hải Vân, vua Trần cho gọi là đảo Huyền Trân. Để rồi, mấy trăm năm sau, người anh hùng áo vải Quang Trung, sau khi tung hoành dọc ngang đất nước, một lần dạo chơi qua đây, đã cảm kích bởi sông nước hữu tình quá đẹp mà gọi đó là đảo Ngọc. Thời đầu, nhà Nguyễn gọi là cù lao Hàn. Đến thời vua Minh Mạng ban tặng cho hòn đảo cái tên Ngự Hải Đài. Bước sang thời Pháp thuộc là cái tên Sơn Chà, còn lại cho đến bây giờ.

< Tàu ngư dân chở ra đảo Sơn Chà.

Hiếm có vùng đất nào lại có nhiều tên gọi như thế. Nó là sự thể hiện cái nhìn của người đời qua bao thế hệ về hòn đảo nhỏ này, vừa mang dấu ấn và những biểu tượng lịch sử về một thời mở cõi, vừa thể hiện cái dáng hình ấn tượng kỳ lạ, địa thế khó nơi nào có được và cũng cho thấy sự hấp dẫn và vẻ đẹp khiến lòng người mê hoặc mà đất trời dành riêng cho đảo Ngọc- Sơn Chà, được hình thành từ phần kéo dài ra biển của dãy núi Hải Vân, một nhánh đâm ngang ra biển của dãy Trường Sơn để rồi từ đó hình thành nên 2 phần là Trường Sơn Bắc và Trường Sơn Nam, với 2 vùng tiết trời xa lạ.

Chúng tôi nhìn thấy đảo, nhỏ bé nhưng xanh thẳm, sau một tiếng rưỡi đồng hồ lênh đênh trên biển. Thuyền cập bến, thật thú vị khi được bước chân trên dải cát trắng mịn màng, nhìn ngắm những dải đá nhấp nhô nhiều hình khối và những trảng rừng xanh mướt.

Sơn Chà vẫn còn nguyên vẻ hoang sơ vốn có. Ngoài chiếc cầu tàu và vài chiếc thang gỗ bắc qua các mỏm đá của một dự án đầu tư dang dở, đảo không có bất kỳ dịch vụ du lịch nào. Trên đảo, có lực lượng bộ đội biên phòng của Trạm kiểm soát biên phòng đảo Sơn Chà thuộc Đồn biên phòng Lăng Cô và các nhân viên của Trạm đèn biển Sơn Chà.

Đây là cây đèn biển vào dạng trẻ nhất Việt Nam, mới xây dựng năm 2007. Trạm kiểm soát biên phòng Sơn Chà nằm ở lưng chừng đảo, còn trạm đèn biển tít trên đỉnh núi. Ở đảo, các anh bộ đội tự trồng thêm rau để cải thiện bữa ăn nhiều chất đạm từ nguồn thực phẩm của biển. Các anh nhân viên canh đèn biển thì hứng nước mưa để dùng dần. Chúng tôi được các anh bộ đội mời ăn cơm, bữa cơm với ốc, cá bắt từ biển và canh rau dại xen rau trồng nấu với cua đá bắt được đêm trước.

Giữa đảo vắng, chúng tôi được thỏa sức vẫy vùng trong làn nước trong xanh, phơi mình dưới nắng hay theo chân anh Thắng, trạm trưởng trạm biên phòng đi thả lưới, giăng câu bắt ốc, cá, tìm cảm giác của Robinson thuở nào. Khi đã ngán cái nắng chói chang, chúng tôi theo con đường mòn với hàng trăm bậc thang dốc ngược nằm giữa những tán cây để lên cây đèn biển. Đoạn đường thử thách sự dẻo dai, bền bỉ của người leo.

< Phút văn nghệ của người lính đảo.

Đứng ở nơi cao nhất này, tôi chắc chắn bạn cũng như tôi, sẽ vỡ òa trong niềm vui sướng khi trước mặt là biển trời bao la và thuyền bè chỉ là nét chấm phá, điểm xuyết bé nhỏ. Để rồi, ở nơi đỉnh cao của vùng đất biển khơi, phóng tầm nhìn về tứ phía mà cảm nhận sự bao la, vô tận của biển khơi với điểm dừng nơi gần hơn là Lăng Cô và xa hơn tý nữa là Chân Mây; cảm nhận màu xanh ngút ngàn của núi rừng hùng vĩ Trường Sơn, nơi có một “nàng tiên” Bạch Mã với vẻ đẹp xao động lòng người. Còn nữa, không xa là thành phố bên sông Hàn thấp thoáng.


< Một trong rất nhiều bãi đá đẹp trên đảo.

Lại phải cảm ơn thêm một con người nữa, ấy là vị vua Minh Mạng nổi tiếng với tài trị nước, đã ban cho hòn đảo tên gọi Ngự Hải Đài, hiểu nghĩa là đài canh, là vọng gác trên biển. Nó như một bổ sung về một giá trị thực tiễn to lớn đổi với hòn đảo nhỏ này.

Buổi tối, chúng tôi được các anh biên phòng cho hai lựa chọn: một là cắm lều ngủ dưới bãi cát, hai là ngủ ở một trong những căn phòng của trạm. Cuối cùng, chúng tôi quyết định xin ngủ nhờ ở trạm, nhưng trước đó thì thả bộ dưới bãi cát, tận hưởng mùi biển nồng nàn cùng ánh trăng vằng vặc. Trên đảo, điện được tạo ra từ máy nổ. Để tiết kiệm dầu, máy chỉ chạy vài tiếng đầu tối. Sau đó thì tất cả chìm vào bóng đêm, chỉ còn tiếng côn trùng và tiếng sóng biển vỗ vào bờ ầm ào.

Sau giấc ngủ say, chúng tôi tận hưởng buổi sáng bình yên, lặng lẽ của đảo. Từ ngôi nhà của trạm biên phòng, phóng tầm mắt ra xa, biển mờ ảo, tinh khôi trong sương sớm. Những ngư dân đã bắt đầu một ngày làm việc mới. Theo lời anh Thắng, “lộc biển” ngày càng cạn nên đời sống của họ cũng khó khăn hơn. Vậy nhưng, chiếc thuyền của các gia đình ngư dân kia vẫn chưa bao giờ vắng mặt, trừ những ngày biển động. Cuộc sống tiếp diễn như nó vốn thế...

Chúng tôi rời đảo, trở về đất liền, trở lại với những lo toan thường nhật và tự hứa với lòng, nếu có dịp, sẽ trở lại Sơn Chà, tìm cho mình chút bình yên từ sóng, từ cát và từ những con người bình dị...

Mặc dầu chỉ cách mũi Khẻm - điểm nhô ra gần nhất của đèo Hải Vân chưa đầy 1km, nhưng muốn đến được đảo chỉ phải đi bằng ca nô hoặc tàu biển (mất hơn nửa giờ đồng hồ) hay thuê thuyền thúng, thuyền máy của dân chài. Ca nô của Đồn Biên phòng 236 Lăng Cô và tàu tuần tiễu của Hải đội 2, Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh.

Hoang sơ Hòn Chảo

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ Phunuonline, Báo Thừa Thiên - Huế, internet
Đức Phổ, vùng đất phía Nam của tỉnh Quảng Ngãi, miền quê có bốn dòng sông xuôi về chung cửa biển Mỹ Á. Những tên sông: Trà Câu, Lò Bó, sông Trường và sông Thoa luôn in đậm trong tâm thức của những người con xa quê.

Sông Thoa, chi lưu của dòng Vệ giang, khởi nguồn giữa hai huyện Nghĩa Hành và Mộ Đức. Khi vào địa phận Đức Phổ, dòng sông này lại góp thêm nước của cả ba dòng Trà Câu, sông Trường và Lò Bó trước khi ra biển nên được xem là sông mẹ. Biết bao suối khe, kênh rạch đôi miền xuôi - ngược hòa nước chung dòng tạo vẻ thơ mộng cho sông Thoa trước khi đổ ra biển lớn.

Những làng chài Hải Tân (xã Phổ Quang) và Khánh Bắc (xã Phổ Vinh) tựa bên này sông với bên kia là biển đêm ngày rì rào sóng vỗ. Cư dân trong làng bao đời cỡi sóng biển vươn khơi hay với chiếc thuyền nhỏ cần mẫn chài lưới đánh bắt cá tôm trên sông.

Sông Thoa mùa cạn như dải lụa mềm xanh màu da trời lấp lánh cát vàng dưới đáy lẫn bóng mây trắng lướt bay trong nắng chiều. Sông lững lờ trôi giữa đôi bờ phủ bóng tre xanh mướt, thổi gió mát rượi vào những ngôi nhà mái ngói rêu phong qua bao kiếp người. Có những đoạn, sông êm đềm uốn lượn bên cánh đồng lúa cùng với những vườn cây trái sum suê.

Sớm mai, những chiếc thuyền nhỏ của dân chài lướt nhẹ trên sóng nước. Nhịp gõ vào mạn thuyền trong sương sớm làm giật mình những cánh chim ngái ngủ vụt cánh bay từ những bụi cây ven bờ.

Nắng lên soi bóng người lớn, trẻ em lom khom đào trùn nước, dầm mình trong nước nhặt từng con don, trai, ốc… dưới lòng sông. Những "thợ săn" sông nước dùng kính lặn và súng lao lặn vào tận hang hốc bắn những con chép, con trắm lớn cỡ dăm đến bảy cân khiến cho mọi người phải trầm trồ thán phục. Sản vật của dòng sông theo các mẹ, các chị lên chợ, vào bữa cơm của những gia đình vùng cao. Đổi lại là tương cà, rau quả cho bữa ăn hàng ngày, dăm miếng kẹo lạc, vài tấm bánh đa cho con trẻ.

Lũ về, nước sông chuyển sang màu nâu non, chở nặng phù sa từ những bản làng, núi non miền thượng vun đắp cho những cánh đồng, bờ bãi trước khi đổ ra biển lớn. Những xóm làng vùng trũng, người dân lo thu vén, kê cao đồ đạc tránh lũ, lùa trâu, bò, heo, gà đến gửi nhờ nhà người quen ở nơi cao ráo. Mùa lũ cũng là mùa cá về. Cá theo nước lên đường làng, vào tận vườn nhà đùa giỡn, khoe mẽ lôi cuốn bạn tình để sản sinh ra thế hệ nối tiếp.

Những con chép, trắm, trôi, mè phơi lưng trên lạch nước cạn như mời gọi người đổ xô ra khỏi nhà dùng tay bắt cá trong tiếng reo hò đầy phấn khích. Trên những cánh đồng vừa thu hoạch, nhiều người dùng nơm, dó, giăng lưới bắt cá đẻ trên ruộng. Những con thuyền chở đầy cá lướt nhanh trên sóng nước cho kịp buổi chợ. Những con tôm, con cá làm quà cho người thân và nhận lại trái đu đủ xanh, mớ rau hái vội cho mâm cơm “thêm xanh” trong mùa lũ.

Sông Thoa hiền hòa trong mùa cạn và dữ dội trong mùa lũ, dòng nước vẫn cứ xuôi về biển Đông. Sản vật của dòng sông là nhịp cầu nối để người đến với người, san sẻ cho nhau những khó khăn, vất vả, như sợi tơ kết nối những tấm lòng. Bến nước, bãi tắm tuổi thơ cứ luôn ẩn hiện trong ký ức của mỗi người giữa bao bộn bề lo toan. Những bến đò rộn rã tiếng cười con trẻ đón mẹ chợ xa trở về với dăm viên kẹo cùng tấm bánh đa vừng.

Những bến đò năm xưa tiễn đưa người thân lên đường ra trận, tiễn chân người con tha hương trong luyến nhớ. Bờ tre rủ bóng mát ven bờ là nơi nghỉ chân của người làng giữa trưa nắng, nơi hò hẹn để những đôi trai gái bén duyên vợ chồng. Những chuyến đò ngang, những chiếc cầu gỗ mỏng manh bắc ngang dòng sông gắn kết tình cảm đôi bờ càng thêm bền chặt. Sớm mai, nhịp cầu gỗ đón bước chân rập rình của đoàn người đưa rước dâu, những thanh gỗ kẽo kẹt tiễn đưa người con gái sang bên kia sông về nhà chồng. Chiều chiều, nàng lại qua cầu về bên này sông thăm cha mẹ, họ hàng và cả bến bờ nhuộm đẫm tuổi thơ. Đêm đêm, tiếng mái chèo khua nước, tiếng cá quẫy mạnh cũng làm cho nàng giật mình tỉnh giấc dõi theo những ánh đèn lấp lóa trên sông. Đó là ánh đèn của người cha, người anh đang lầm lũi trong đêm để bắt con cá, con tôm cho phiên chợ sớm.

Sông đang được khoác tấm áo mới khi dự án tiêu úng, thoát lũ và chống sạt lở vùng hạ lưu của dòng sông này đang được triển khai xây dựng với tổng kinh phí trên 330 tỷ đồng. Sẽ có những tuyến kênh tiêu, đập ngăn nước và nhiều chiếc cầu bê tông cốt thép bắc ngang dòng sông. Việc ngập úng trong mùa lũ, thiếu nước tắm mát ruộng đồng trong mùa khô sẽ lùi vào dĩ vãng. Những nhịp cầu "nối bờ vui" sẽ đón bước chân con trẻ tung tăng đến trường, đón những vòng xe của mẹ, của chị thong dong ra đồng hay đến chợ.

Và tình người đôi bờ lại thêm gắn bó, không còn cách trở đò ngang và những chiếc cầu gỗ lắc lư sóng nước. Sông bao la như tình mẹ, đón những người con tha hương trở về với bao xúc động bồi hồi. Những bước chân lưu lạc nơi chân trời góc bể "chập chững" bước qua cầu mà cứ ngỡ bước lên thuyền trên bến sông của ngày thơ ấu. Ngẩn ngơ tìm bóng hình ngày xưa rồi khe khẽ gọi thầm: Sông ơi…!

Du lịch, GO! - Theo Trang Thy (báo Quảng Ngãi), internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống