Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Monday, 15 April 2013

Công trình thủy điện, thủy nông Ayun Hạ hoàn thành năm 1994, nằm trên địa bàn 2 huyện Chư Sê và Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Với diện tích mặt nước 37 km², công trình vĩ đại, tuyệt đẹp này không chỉ khiến Gia Lai trở thành vựa lúa của Tây Nguyên, nó còn giúp hàng ngàn nông dân mưu sinh, thoát nghèo bằng nghề đánh bắt cá.

Sung túc nhờ hồ

Những ngày lang thang quanh khu vực hồ Ayun Hạ, một lần đứng trên đỉnh đèo Chư Sê phóng tầm mắt nhìn xuống hồ, tôi mới thực sự ngỡ ngàng trước cảnh thiên nhiên đẹp như một bức tranh. Toàn cảnh bức tranh nền là một màu xanh trù phú.

Hai bên hồ là hai dãy núi sừng sững ôm lấy dòng sông Ayun hiền hòa. Phía dưới là nhà máy thủy điện Ayun Hạ và dòng nước trong xanh chảy theo kênh chính dài ngút tầm mắt, uốn lượn theo những cánh đồng chạy dài xuống thị trấn Ayun Pa tạo nên bức tranh đồng quê tự nhiên, hài hòa. Những mái nhà tranh cất tạm của ngư dân nằm lúp xúp bên bờ hồ. Dưới lòng hồ, những chiếc thuyền của ngư dân lững thững trôi… khung cảnh thật êm đềm.

Hỏi thăm mãi, cuối cùng tôi cũng tìm được nhà của già làng của làng T’lâm, xã Ayun. Năm nay đã gần 80 tuổi, già làng K’puih từng trải qua biết bao thăng trầm của quê hương, từng có những tháng năm dài tham gia nuôi giấu bộ đội trong cả 2 thời kỳ chống Pháp, Mỹ. Đêm đêm, già làng cùng thanh niên trong làng chèo thuyền độc mộc chở bộ đội vượt sông, mai phục dưới chân đèo Tung Kê tiêu diệt kẻ thù.

Già làng khoe: “Từ lúc có hồ đến nay, bà con hết nghèo đói, sống khỏe. Giờ nhiều người thích xuống nước bắt cá hơn lên rừng rồi”. Theo già làng K’puih, chỉ tính riêng xã Ayun đã khoảng hơn 300 hộ làm nghề đánh bắt cá trên hồ. Trẻ con trong làng khi vừa biết đi cũng là lúc phải tập bơi, lên 10 tuổi đã biết câu cá, thậm chí có đứa giăng lưới thành thục, biết canh con nước, ngọn gió để đặt câu, buông lưới. Quả thật, hồ Ayun Hạ đã cho bà con cuộc sống sung túc.

Tôi gặp ngư dân Đ’Breng, ở làng T’Lâm, xã Ayun, giữa lúc anh vừa đi thả lưới về. Tôi ngạc nhiên thấy quần áo anh sũng nước nhưng chẳng thấy cá đâu. Anh cười bảo: “Bây giờ mình chỉ thả lưới xuống thôi, về ngủ 1 giấc rồi sáng dậy sớm đi mang cá về bán thôi”. Tôi hỏi: “Thả lưới không có người trông người khác xuống lấy mất thì sao?”. “Không đâu, ai cũng có mà”, anh thật thà đáp.

Già làng K’puih cũng nói với tôi rằng từ xưa đến giờ chưa từng xảy ra mất trộm lưới. Đ’Breng năm nay gần 50 tuổi và anh chẳng nhớ đã gắn bó với dòng sông từ lúc nào. “Ngày xưa theo cha đi bắt cá dưới sông, cũng có cá. Bây giờ có hồ rồi, nhiều cá lắm, không phải ngược lên thượng nguồn nữa”, anh nói tiếp. “Thả lưới một đêm được bao nhiêu cá?”, tôi hỏi Đ’Breng. Anh đáp: “Nhiều lắm, con nào cũng to, mang nặng vai. Ở đây nhiều người thả lưới giỏi lắm”. Đ’Breng bảo, cách đánh cá của những ngư phủ trên sông Ayun rất khác người. Buổi chiều sau khi đi rẫy về họ chỉ ra sông buông lưới xuống để sáng mai ra thu lưới và mang cá về bán.

Đối diện các làng thuộc xã Ayun, huyện Chư Sê là các làng ngu phủ Kim Piêng, Plei Bông, Plei Trơk, Plei Hek… của xã Chư A Thai, huyện Phú Thiện đang có cuộc sống sung túc nhờ hồ Ayun Hạ.

Buổi chiều, hoàng hôn buông xuống thật nhanh. Những ngôi nhà sàn bắt đầu sáng đèn. Tôi ngỏ ý muốn ở lại một đêm, già làng K’puih gật đầu, cười bảo: “Rừng đủ thức ăn, đủ chỗ ngủ mà”.

Kiêng kỵ khi buông lưới

Buổi sáng, khi mặt trời chưa ló rạng tôi đã giật mình choàng tỉnh bởi tiếng khua mái chèo, tiếng gọi í ới bằng tiếng bản địa. Già làng K’puih đang ngồi thư thái nhìn ra khoảng sân đầy heo gà, miệng phì phèo tẩu thuốc. Tối qua, tôi đã được xúc miệng bằng rượu cần, có vị thuốc, được thưởng thức món cá hồ Auyn Hạ nướng, nấu măng chua, và sau đó, ngủ một giấc thật say trong tiếng ru của cây rừng…

Bên ngoài, bờ hồ tấp nập, mọi người đang hối hả xuống xuồng, đi gỡ lưới. Tôi nhanh chân theo bước theo Đ’Breng. Biết tôi có ý định theo ra hồ, anh bảo: “Hồ sâu lắm, anh có biết bơi không?”, thấy tôi gật đầu, anh tiếp: “Hồ cũng có thần linh cai quản, phải khấn trước nếu không thần không cho xuống, không cho cá đâu”. Nói rồi anh chắp tay, ngửa mặt rì rầm một lát rồi nói: “Xong rồi”.

Chúng tôi bước xuống thuyền. Những chiếc thuyền khác cũng bắt đầu ra sông. Đ’Breng bảo, không chỉ khấn, xin phép thần trước khi ra hồ, còn phải hứa không được làm điều xằng bậy như phóng uế, bắt cá nhỏ, gian lận… Lưới của Đ’Breng thả không xa bờ, nhưng khi anh vừa kéo lên, đã thấy mấy con cá mè khá to giãy giụa.

Suốt thời gian gỡ cá, Đ’Breng không nói một lời. Mẻ cá từ nắm lưới dài chừng 30 m Đ’Breng thu chừng 40 con cá mè, cá lóc, cá trôi. Ước cũng hơn chục ký cá. “Mình bán bao nhiêu tiền một ký?”, tôi hỏi anh. “Có khi 20 ngàn, có khi cao hơn. Tùy hôm, khi nào họ bảo hôm nay cá rẻ thì mua thấp, hôm nào đắt thì họ trả cao”.

Hồ Ayun Hạ có rất nhiều cá. Cá tự nhiên vốn đã nhiều nay được Cty Thuỷ sản miền Trung thả giống chăn nuôi nên cuộc sống của hàng trăm hộ dân sống quanh lòng hồ Ayun Hạ càng sung túc hơn xưa. “Ở đây nhiều cá to lắm. Vì nó sống lâu nên rất khôn. Lưới không bắt được nó đâu. Có khi nó được thần nước bảo vệ rồi cũng nên”, Đ’Breng nói.

Hằng ngày vào buổi trưa, sau khi thuyền đánh bắt cập bến, những xe tải đông lạnh lại chở cá nước ngọt đi khắp mọi miền đất nước. Cá ở đây nhiều vô kể và đa dạng về chủng loại như: trôi, chép, mè, lăng, trắm cỏ… và đặc biệt là cá thát lát, một trong những đặc sản nức tiếng của Gia Lai.

“Hữu xạ tự nhiên hương”, hồ Ayun Hạ và cả những vùng đất xung quanh nó đã trở thành mảnh “đất lành”, thu hút nhiều người đến mưu sinh. Anh Đ’Đôk, một ngư dân mới chuyển đến làng Plei Trơk, xã Ayun va cũng sống nhờ nguồn cá trên hồ nói: Lúc trước, anh sống ở xã H’Bông, huyện Chư Sê nhưng đời sống gặp nhiều khó khăn vì khô hạn, đất đai cằn cỗi.

Nhưng từ lúc chuyển cả gia đình về đây, lòng hồ Ayun Hạ đã giúp anh và cả gia đình thoát khỏi cảnh đói nghèo. “Tôi biết ơn hồ, biết ơn thần linh đã chỉ dường cho tôi gặp hồ, biết ơn nhà nước đã làm hồ nước này cho bà con”.

Ngày xưa, ở các buôn làng Tây Nguyên, ai cũng biết câu ca dao: “Ai về nhắn với nậu nguồn/Măng le gửi xuống cá chuồn gửi lên”. Nhưng bây giờ, câu ca ấy đã đi vào dĩ vãng, chẳng còn ai nhắc đến nữa. Hồ Ayun Hạ đã mang rất nhiều cá đến cho họ rồi, nên họ chỉ gửi sản vật của rừng về xuôi thôi chứ không cần dưới đó gửi cá lên nữa.

Du lịch, GO! - Theo Báo Nông Nghiệp, internet
Nếu có ai hỏi ngôi chùa nào u tịch, thanh vắng nhất Việt Nam, tôi sẽ trả lời đó là Am Ni tự (chùa Am Vãi, xã Nam Dương, huyện Lục Ngạn, Bắc Giang), nơi tách biệt hẳn với thế giới trần tục vốn ồn ào, lắm thị phi bên ngoài.

Tôi đã không thể kềm được lòng mình trước những lời giới thiệu đầy hấp dẫn của anh Ngô Văn Dậu, cán bộ văn hóa xã Nam Dương, về một ngôi chùa cổ ẩn sâu trên đỉnh núi ngút ngàn mây. Anh ví von đó là một “tiên cảnh” mà ai lên đây cũng thích thú và rồi nói như thách thức: “Không đủ can đảm cầm lái thì đừng đi chuyến này”.

Có nửa ngày để thực hiện, tôi quyết tâm đặt chân cho kỳ được đến đích cuối cùng chốn thiền này.

Chùa Am Vãi nằm cách xa các bản làng đồng bào dân tộc chỉ hơn 10km, nhưng đi xe máy từ UBND xã Nam Dương đến đây phải mất hơn một giờ rưỡi nên họa hoằn mới có vài người viếng thăm.

10g sáng, chúng tôi mỗi người một xe lên đường, xác định trước sẽ “ăn mày cửa Phật” bữa trưa. Đoạn đường 2km chớm vào rừng được trải nhựa khá đẹp, hai bên bạt ngàn rừng keo, nương sắn, bãi rau của đồng bào người Cao Lan, Sán Chỉ, Sán Dìu…

Nhưng hết đoạn này, mấy chiếc xe luôn trong tình trạng số 1, số 2. Trước mỗi con dốc dựng đứng, người cầm lái phải nín thở kéo ga cho xe ì ì bò lên từng centimet, hai mắt cứ phải căng ra để quan sát. Đường càng lúc càng nhiều đá sỏi lởm chởm, đi xiên xẹo vào tận giữa rừng rậm rồi thoắt cái mở ra một khung trời mới với cảnh sắc tuyệt đẹp.

Phía bên kia rừng, ánh nắng nhợt nhạt hắt nhẹ lên những vạt cỏ tranh vàng úa, hoa lau, cây bụi như một thảo nguyên đầy mơ mộng được tô điểm bởi những lớp mây lơ đễnh giăng ngang. Đang mùa hanh khô, những bãi cỏ tranh rộng mêng mông, sự sơ ý của người đi làm rẫy sẽ rất dễ làm rừng tổn thương.

Hết trèo đèo lại xuống dốc, mấy chiếc xe rồ ga, giật đùng đùng rồi lại lao ào ào trên lớp đá trơ sắc nhọn, mùi xăng bốc lên khét lẹt. Giữa trời lạnh mà mồ hôi vã ra liên tục, chỉ cần lơ đễnh là có thể tan xác dưới vực sâu. Anh Dậu kể mấy năm nay đường dễ đi hơn nhiều, ôtô loại gầm cao có thể đến chùa nhưng chỉ vào những ngày nắng ráo, trời mưa thì chỉ còn cách… khóc.

Đi mãi rồi cũng đến một thung lũng khá bằng phẳng. Để xe lại đây, chưa nhìn thấy Am Ni tự đâu mà tôi đã cảm nhận được mùi hương trầm lan tỏa khắp không gian. Chuông ngân từng đợt dài vang vọng núi rừng. Bên kia ngọn đồi, mây mù vẫn lơ lửng xung quanh tán thông, tán trúc. Linh tính mách bảo chùa Am Vãi chỉ đâu đó quanh đây.

Đi bộ chừng 50m chùa hiện ra trước mắt. Chốn thiền môn thật lặng lẽ, tĩnh tại. Phía sau lớp sương mờ cạnh vườn đào non tơ mơn mởn lộc biếc xuất hiện một ni cô thong dong thả bộ.

Thầy trụ trì Thích Trúc Thái Bình cho biết trên này không có điện, đường sá xa xôi, đi lại khó khăn nên hiếm khi các thầy xuống núi. Mọi sinh hoạt đều tự cung tự cấp. Các thầy tự trồng rau xanh hoặc khi nào có phật tử lên chùa thì mang theo chút cơm nắm, muối vừng để nhà chùa thọ chay.

Cũng theo sư thầy Thái Bình, xưa kia ở đây hoang vu lắm, quanh chùa toàn cỏ cây giăng kín. Năm 2010 thầy về trụ trì tại đây và cho tôn tạo một số khu vực chùa thêm đẹp đẽ như hiện nay.

Thiên nhiên bao la khoáng đạt, không gian yên ả, tĩnh mịch là điều mà những ai đến Am Vãi đều cảm nhận được.

Chùa Am Vãi được xây dựng từ thời Lý, nằm trong hệ thống các chùa tháp theo sườn Tây Yên Tử. Tương truyền vào thời Trần có sư nữ là công chúa nhà Trần tu hành ở đó nên mới có tên Am Vãi (Vãi có nghĩa là nữ tu hành).

Ở đây có một hang tiền và một hang gạo, mỗi ngày hai hang này chỉ chảy ra một lượng tiền và gạo đủ cho vị sư này dùng mà không bao giờ chảy hơn. Một ngày, vị sư nọ có khách liền khơi cho hang tiền và gạo chảy ra đủ hai người dùng. Từ đó tiền và gạo ở hai hang này không bao giờ chảy ra nữa…

Dấu tích của chùa còn lại đến ngày nay là hai ngôi tháp cổ bên trong có bài vị của một nhà sư thuộc thiền phái Trúc Lâm được tấn phong Tỳ Kheo Như Liên hóa thân vào hàng Bồ Tát đã nhập cõi niết bàn và một dấu chân Phật trên phiến đá khá lớn…

Lên đây tôi cũng được biết thêm những truyền tích đẫm màu huyền bí. Đó là huyền thoại về hang Tiền, hang Gạo, là dấu chân Phật, bàn cờ tiên, phía xa kia là câu chuyện cảm động về vũng Chị, vũng Em, núi Hàm Rồng, giếng Cần…

Quan trọng hơn, tôi đã tìm được cho mình những giây phút thật thư thái, yên bình. Được lắng nghe tiếng chuông chùa ngân dài theo tiếng gió, tiếng ếch, nhái, côn trùng, chim muông hòa quyện cùng núi rừng và hoa cỏ ngát hương…

Du lịch, GO! - Theo Hồng Ngoan (Dulich Tuoitre), internet
Đến với núi rừng Trường Sơn hoang dã thuộc huyện biên giới Tây Giang (Quảng Nam), bạn sẽ được thưởng thức các món ăn chế biến từ đọt mây (c’rêê, ha’vây) là món ăn ưa thích, hấp dẫn, lạ miệng của đồng bào Cơ Tu, nhất là trong dịp tết đến xuân về.

< Đọt mây.

Mây thường mọc thành bụi ở các khu rừng thâm u trên dãy Trường Sơn với hàng chục loài mây như mây song, mây nước, mây voi…

Có dây mây mọc dài đến hàng chục mét. Muốn lấy đọt phải rút sợi mây xuống, có khi phải huy động nhiều người mới rút nổi sợi mây để lấy đọt.

Mùa xuân, cây cối trên dãy Trường Sơn đâm chồi nảy lộc với những rừng mây xanh tốt mỡ màng. Lúc bấy giờ, đồng bào vào rừng bứt mây về bán lấy tiền mua sắm trong những ngày tết. Sẵn dịp, họ mang một số đọt mây về nhà chế biến các món ăn. Mây trên Trường Sơn có nhiều loài khác nhau, nhưng chỉ có loại mây voi là được ưa chuộng nhất bởi nõn nó ăn giòn, béo và vị ngọt, đắng nhẹ.

Đọt mây được chế biến thành nhiều món ăn hấp dẫn như các món xào, hấp cơm, nướng chín với lửa than hoặc giã nát nấu với thịt khô hoặc cá khô trong ống tre là món canh ngon nhất của đồng bào.
Đối với mây nước, chỉ cần khoảng 20 đọt ngọn mây là vừa một nồi canh ăn cả nhà. Đầu tiên, bóc lớp vỏ ở đọt mây ra, lấy nõn non xắt và ngâm qua nhiều nước cho hết nhựa đỏ, đến nước cuối cùng thì thêm chút muối cho bớt đi vị chát sau đó chế biến các món ăn.

Người Cơ Tu dùng nõn mây xắt ra xào (ađiing) với mỡ hoặc dầu ăn, có hương vị rất riêng mà không có loại đọt cây nào có được. Món đọt mây nướng (bóh) được vùi dưới than hồng giống như nướng củ sắn tươi có hương vị rất thơm, bùi và không dai vì còn giữ được nước. Đọt mây nướng phải ăn với muối hột giã với tiêu rừng (amất) mới “hợp gu”. Ngày nay, rừng càng ngày càng hẹp lại. Muốn ăn đọt mây, đồng bào phải đi rất xa, do đó đọt mây trở thành sản vật hơi hiếm.

Đặc biệt, món cháo bột sắn nấu với nõn mây của người Cơ Tu được chế biến như sau: Dùng sắn tươi bào ra bột hoặc sắn xắt lát phơi khô, sau đó bỏ vào cối giã thành bột để làm bánh hoặc nấu cháo (apưr). Lấy bột sắn hòa với nước nấu khoảng 8 – 10 phút cho cháo chín.

Khi nấu nhớ dùng đũa bếp quấy đều để tránh khét, sau đó cho nõn mây, cá vụn như tôm, tép cá đá, ốc đá… bỏ thêm rau tươi (ađhớc hay anệêng), muối, mì chính, tiêu rừng, ngò tàu (abắt) thành món ăn thơm ngon, khoái khẩu. Người già “rụng răng” rất thích ăn món này vì không cần nhai.

Những người già Cơ Tu thường nói: ”Đọt mây song ăn nhiều không bị nặng bụng như măng. Ngoài ra, nõn mây thường được đồng bào nơi đây dùng để giải độc rượu, trị đầy hơi, trướng bụng, nhất là trong dịp tết, ăn uống, tiếp đãi nhiều. Người con rể Cơ Tu hiếu thảo khi thường xuyên nấu cho bố mẹ vợ món cháo apưr này vì những người già chúng tôi đều đau răng, rụng răng, món này dễ húp…”.

Du lịch, GO! - Theo Tùng Sơn (Vĩnh Long Online), internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống