Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Tuesday, 16 April 2013

Trước đây bà con phật tử thường gọi Thiền viện Đông Lai (khóm Xuân Phú, thị trấn huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang) là chùa Phật Nằm. Về sau, chùa lại được bá tánh gần xa gọi bằng một cái tên nôm na, gần gũi là chùa Bánh Xèo.

< Đông Lai thiền viện trước khi xây mới, thường được dân chúng địa phương gọi là chùa Phật Nằm hoặc gần gũi hơn là chùa Bánh Xèo.

Có tên gọi chùa Phật Nằm là vì bên phải chùa có tượng Phật Thích Ca nhập niết bàn, trong tư thế nằm nghiêng với chiều dài 6 mét. Trong khi xây mới chánh điện, thượng tọa Thích Thiện Chí cho xây dựng đài Quan Âm bên trái chánh điện, gồm tượng Quan Âm Bồ tát, sau lưng tượng là hòn non bộ có dòng nước mát ngày đêm chảy róc rách.

Thiền viện Đông Lai xây mới (dự kiến khánh thành vào ngày 13 tháng 3 năm Quý Tỵ, nhằm ngày 22-4-2013), kiến trúc theo phong cách chùa chiền Việt Nam với ba lớp mái nhỏ dần, với những hình tượng đầu đao truyền thống. Trước hàng hiên tiền điện có hai cặp đối. Một cặp bên ngoài ghi dọc hai câu đối âm Hán tự: “Hoằng pháp vi gia vụ / Lợi sanh vi bổn hoài”. Cặp đối bên trong, cũng bằng âm Hán tự, ghi dọc: “Đông độ Tây thiên trụ đại pháp / Lai nhân duyên hữu thoát trẩn ai”, tạm dịch nghĩa: Tây thiên là nơi đất Phật, người có duyên đến sẽ thoát được não phiền. Cặp đối này mỗi câu được khởi đầu bằng chữ: “Đông” và “Lai”. Ghép hai chữ này lại thành Đông Lai. Chánh điện sắp xếp khá hiện đại với hương án thờ Tam thế chư Phật, gọn gàng, thếp vàng lộng lẫy, uy nghi. Dọc dài hai bức tường là phù điêu Thập bát La hán được chạm khắc tinh xảo, mỹ thuật.

< Chánh điện Đông Lai thiền viện được xây mới hoàn toàn, bên phải ảnh là đào Quan Âm và hòn non bộ.

Việc xây mới, nới rộng khiến chùa thêm ngăn nắp, sạch sẽ, đảm bảo vệ sinh môi trường. Phía sau chánh điện là nhà ăn, có hai khu vực. Khu vực ngoài sắp 20 bàn (200 ghế). Bên trong 10 bàn (100 ghế). Bàn ghế bằng inox sáng bóng. Trên bàn luôn để sẵn chén, đũa, dĩa, muỗng, hũ nước chấm chanh đường, hũ tăm xỉa răng, chén ớt... Phía trong cùng là khu vực bếp, gồm nơi rửa chén dĩa, đũa muỗng, nơi làm nhưn bánh xèo, nơi nấu cơm và thức ăn. Tất cả đều được lót gạch men sáng bóng. Khu vực đổ bánh xèo nằm bên phải chánh điện, cách một lối đi, vừa phân biệt vừa giúp tránh gây nóng nực cho nhà ăn, nhà bếp.

Nơi đổ bánh xèo có bốn nhóm, mỗi nhóm có hai hoặc ba người, anh Ngô Văn Vũ (31 tuổi, đổ bánh xèo cho chùa khoảng 5 năm nay) cho biết. Một người đổ bánh mọt lúc 10 chảo, sắp hình vòng cung; một người phụ việc, chuyển bánh lên nhà ăn. Khi có khách đến lập tức bếp lửa cháy phừng phực, các đầu bếp rộn ràng vào việc ngay. Bánh xèo được đổ liên tục, đáp ứng nhu cầu. Nhìn “thợ” đổ bánh xèo làm việc nhanh nhẹn, khéo léo, ai cũng quên cái nóng bức của bếp lò. Đáng quan tâm là khu nhà vệ sinh được tách biệt với khu chánh điện, nhà bếp. Nhà vệ sinh lót gạch men bóng láng, khách bước vào đều để giày dép bên ngoài...

< Anh Ngô Văn Vũ “tả xung hữu đột” với 10 chảo bánh xèo nóng lửa.

Cô Trương Thị Kim Thùy, 32 tuổi, phụ trách bếp cho biết việc tổ chức đổ bánh xèo và bánh tét khởi phát từ năm 1999, khi thượng tọa Thích Thiện Chí về trụ trì, nhân kỷ niệm ngày sư ông cất chùa viên tịch. Tất nhiên, sau khi thưởng thức bánh xèo, bánh tét, khách gần xa đều không ngớt lời khen ngợi, từ đó nhà chùa đổ bánh xèo phục vụ khách hằng ngày. Cô tâm sự, sáng nào cô cũng đều ra chợ thị trấn Tịnh Biên mua rau cải, gạo, củi... Biết chùa làm việc thiện, một số người bán hàng “hiến cúng” một số rau cải, giá, đậu...

Đặc biệt, vào mùa mưa, một số phật tử lên núi hái ngành ngạnh, kim thất, lá sung, cát lồi, đọt bứa, lá vông, mã đề, măng tươi… đem “cúng”. Đây là những loại rau rừng ngoài việc giúp thực khách ngon miệng với món bánh xèo, còn giúp họ bồi bổ cơ thể, ngăn ngừa một số bệnh. Đặc biệt, vào các ngày rằm, mồng Một âm lịch, chùa có phục vụ bánh tét cho khách thập phương, có hôm lên đến 800 - 900 đòn/ngày. Phần việc nầy do bà con phật tử ở địa phương tự nguyện đến chùa gói và nấu bánh. Ngoài bánh xèo, bánh tét, chùa còn khoản đãi cơm chay cho khách viếng chùa. Những đoàn khách hành hương muốn dùng cơm chay cần đặt trước.

< Từ 6 giờ sáng đến 7 - 8 giờ tối, khách viếng chùa lúc nào cũng có thể ăn bánh xèo mà không cần đặt trước.

Từ 6 giờ sáng đến 7 - 8 giờ tối, khách viếng chùa lúc nào cũng có thể ăn bánh xèo mà không cần đặt trước. Khi khách ít, người phục vụ liên tục chuyển bánh đến. Những lúc khách đông, khách phải tự mình xuống bếp mang bánh lên. Những ngày khách viếng chùa đông, những người làm công quả lâu năm đều biết nên mạnh ai nấy tới lãnh một vài nhiệm vụ. Nhà ăn có 30 bàn với 300 ghế, vậy mà ngày rằm, mồng Một hoặc lễ vía lớn, lúc nào cũng “hết chỗ”, khách phải đứng chờ.

Nhờ lực lượng làm công quả mà việc phục vụ ăn uống cho khách lúc nào cũng khá chu tất. Càng chu đáo hơn, sau khi khách ăn (cứ ăn thoải mái đến no bụng thì thôi) xong còn được tráng miệng bằng ly cà phê đá. Bà Vương Thị Kim Loan, khách hành hương từ Long An, nhận xét: “Ăn uống hoàn toàn miễn phí, nhưng bánh xèo cái nào cũng giòn rụm, ngon hết ý. Cà phê đá đắng ngọt không thua quán xá. Đáng ca ngợi nhất là thái độ phục vụ của những người làm công quả, ai cũng vui vẻ, nhiệt tình với khách”.

< Vào các ngày rằm, mồng Một, chùa có phục vụ bánh tét cho khách thập phương, có hôm lên đến 800 - 900 đòn/ngày. Phần việc nầy do bà con phật tử ở địa phương tự nguyện đến chùa gói và nấu bánh.

Hơn thế nữa, việc phục vụ ăn uống miễn phí của chùa còn giúp giải quyết bữa ăn cho một số người nghèo khó ở địa phương, như những người lao động chân tay, bán vé số dạo. Cô Đoàn Thị Luyến, 32 tuổi, vừa ăn bánh xèo vừa tâm sự: “Nhờ có bánh xèo và cơm mà tôi no bụng sáng chiều. Tiền bán vé số tôi trích vài ngàn cúng chùa, phần còn lại đem về lo cơm nước cho hai đứa con và thuốc men cho ông xã bị bịnh sạn thận. Chùa tổ chức đổ bánh xèo là việc làm phước đức rất đáng trân trọng”.

Vâng, phục vụ bánh xèo, bánh tét của Thiền viện Đông Lai là một việc làm phúc đức, một hạnh từ bi theo chánh pháp nhà Phật. Chính vì vậy mà Thiền viện Đông Lai ngày càng thu hút khách thập phương, ngoài khách khu vực đồng bằng sông Cửu Long còn có khách từ miền Đông Nam bộ, Tây nguyên. Và, khu nhà bên kia đường trước chùa ngày càng sầm uất với hàng quán khang trang, sân chùa lúc nào cũng có xe đò, xe khách vãng lai đậu thành hàng.

Du lịch, GO! - Theo Phương Kiều, Cúc Tần (TBKTSG Online)

Monday, 15 April 2013

Không có vẻ đẹp huyền bí, lộng lẫy được tạo bởi những khối thạch nhũ như các hang động có nguồn gốc đá vôi tại một số tỉnh miền núi phía Bắc, những hang dơi tại khu vực rừng giá tỵ nằm dọc quốc lộ 20 (thuộc địa bàn 2 huyện Định Quán và Tân Phú - Đồng Nai) còn giữ được nhiều nét nguyên sơ.

< Chỗ rộng nhất của hang dơi.

Nhóm hang động này đang được nhiều người biết đến khi nắm giữ một kỷ lục mới về hang động có nguồn gốc dung nham tại khu vực Đông Nam Á.

Từ những thông tin do Viện Sinh học nhiệt đới và Hội Hang động Berlin (Đức) cung cấp, chúng tôi đã tìm đến các hang dơi tại khu vực này để cùng trải nghiệm và tìm hiểu những nét hoang sơ, mang nhiều màu sắc huyền bí tại đây.

Bí ẩn hang Dơi

Ông Đỗ Hữu Đức, Trưởng trạm giống nông nghiệp La Ngà (thuộc Công ty cổ phần giống lâm nghiệp vùng Đông Nam bộ), cho biết, nằm sâu bên trong lòng đất, ngay dưới khu rừng giá tỵ chạy dọc theo hai bên quốc lộ 20 có 7 hang dơi.

< Miệng hang rộng đủ để nhiều người chui qua cùng lúc.

Ẩn khuất trong nương rẫy của nhiều hộ nông dân thuộc các xã: Phú Lợi, Phú Tân (huyện Định Quán) còn có thêm 4 hang dơi nữa. Những hang động này đều có điểm chung là hầu như chỉ có dơi sinh sống. Có lẽ vì thế mà khi phát hiện, người dân nơi đây gọi chúng là những hang dơi.

Dẫn chúng tôi vào thám hiểm hang dơi nằm trên phần diện tích đất canh tác của một gia đình thuộc thị trấn Tân Phú, huyện Tân Phú (đoạn giáp ranh giữa 2 huyện Tân Phú và Định Quán), ông Nguyễn Văn Trạng (ngụ xã Phú Tân, huyện Định Quán), cho biết: “Tôi đã từng hướng dẫn cho nhiều đoàn khách trong và ngoài nước đến tham quan, khảo sát các hang dơi ở khu vực này từ năm 2005. Tuy nhiên, tôi cũng không dám mạo hiểm tìm hiểu hết những hang động nơi đây bởi mỗi hang còn đang ẩn chứa nhiều điều huyền bí.

< Sơ đồ miêu tả ngăn hang Dơi 1 (vòng cung bên trên - cave 1) và hang Dơi 2 (cave 2). Hình tròn ở giữa là đoạn đứt gãy mà nếu tính cả đoạn này, hang Dơi 1 là hang động dung nham dài nhất Đông Nam Á.

Càng đi vào sâu bên trong mức độ hiểm nguy, cộng với môi trường sống khắc nghiệt (thiếu khí oxy, thiếu ánh sáng, chênh lệch nhiệt độ với môi trường bên ngoài…) càng lớn.  Do đó, nếu không có những thiết bị hỗ trợ cần thiết, thì rất dễ làm chùn chân, thậm chí gây nguy hiểm cho bất cứ ai muốn khám phá các hang động nơi đây”.

Để chuyến đi vào hang dơi được an toàn, ông Trạng phải chuẩn bị một loại đèn soi đội đầu và một cây đèn măng-sông lớn. 3 giờ chiều, chúng tôi bắt đầu tiến vào hang dơi nằm trên phần đất của ông Trạng. Miệng hang ở đây rộng hơn 3 m, 2 - 3 người có thể chui vào cùng lúc. Mới vào bên trong, mùi hôi đặc trưng của phân dơi ngay lập tức xộc vào mũi.

Bên trong hang, nhiều đoạn rộng gần chục mét, cao hơn 4m, nhưng cũng có đoạn lối đi hẹp, thỉnh thoảng lại có những ụ đất, đá chắn ngang khiến cả đoàn phải khom người, rồi bò mới qua được. Trên suốt quãng đường dài hơn 300 m (tính từ miệng hang), đâu đâu cũng thấy những con dơi treo mình trên trần hang. Bị ánh đèn soi chói mắt, chúng đồng loạt vỗ cánh bay loạn xạ.


Theo tài liệu báo cáo khảo sát vừa thực hiện tại các hang động này của Viện Sinh học nhiệt đới và Hội Hang động Berlin, các nhà khoa học còn tìm thấy sự sống phong phú với nhiều chủng loại động vật khác, như: các loài động vật thuộc nhóm nhện, rết, bọ cạp, dế hang, ruồi, nhiều loài ếch nhái, động vật có vú, cùng những rễ cây to  của rừng giá tỵ ăn sâu xuống đây.


Ở km 123 và km 122 Quốc lộ 20, đi về phía bên trái, vào khoảng 150 m (tính theo hướng từ Dầu Giây đi Đà Lạt), chúng tôi đã có chuyến thám hiểm tại 3 trong tổng số 7 hang dơi nằm bên trong khu rừng giá tỵ (thuộc huyện Định Quán). Tại những hang này, bên cạnh những miệng hang lớn còn có những hang rất nhỏ, chỉ vừa đủ cho một người có thể trạng trung bình chui lọt qua.

“Tất cả những hang dơi nằm ở bên trong khu rừng giá tỵ và các hang dơi khác nằm trên phần đất của các hộ dân trong khu vực có đặc điểm giống nhau, là đều được hình thành từ những dòng chảy dung nham núi lửa hoạt động từ thời xa xưa với vô số những con dơi trú ẩn bên trong. Trong đó, có nhiều hang đã được phát hiện là ăn thông với nhau” - ông Trương Bá Vương, thành viên đoàn khảo sát (Viện Sinh học nhiệt đới thuộc Viện hàn lâm Khoa học - công nghệ Việt Nam), cho biết.

Cần được bảo tồn

Hệ thống hang động tại Đồng Nai không nhiều. Tuy nhiên, theo tài liệu của Viện Sinh học nhiệt đới và Hội Hang động Berlin, chỉ tại địa bàn thuộc 2 huyện Định Quán và Tân Phú, đoàn đã tiến hành khảo sát tổng cộng được 11 ống/hang dung nham với tổng chiều dài 1,8km.

“Trong số này, hang động dài nhất được tìm thấy là hang dơi được ngăn cách bởi sự sụp đổ, đứt gẫy tạo ra 2 hang: hang dơi 1 và hang dơi 2 (tại km 122). Trong đó, hang dơi 1 có chiều dài là 426 m, nơi được ghi nhận là rộng nhất của hang này có chiều cao lên tới 4 m và chiều rộng 10 m” - ông Vương cho biết thêm.

< Scutigère: Loài Thereuopoda longicornis (Fabricius 1793)

Đây quả là một sự ưu ái của thiên nhiên đối với khu vực 2 huyện miền núi của tỉnh. Tuy nhiên, để phát triển và bảo tồn những món quà thiên nhiên ban tặng và còn mang nhiều nét nguyên sơ, mới lạ này rất cần các nhà khoa học, các ngành chức năng tiến hành nghiên cứu làm rõ và có hướng bảo vệ thích hợp. Bởi hiện nay, theo phản ánh của nhiều hộ dân, hàng ngày vào lúc chập choạng tối, khu vực này có nhiều đoàn người xách theo đèn pin, lưới mắt cáo tìm đến các cửa hang để bắt dơi.

Ông Nguyễn Văn Trạng cho biết, trước kia thịt dơi chỉ dùng để chế biến thức ăn của người dân trong những ngày nông nhàn. Nhưng hiện nay, những món ăn chế biến từ thịt dơi đã trở thành đặc sản. Chính vì bị đánh bắt thường xuyên nên nhiều đàn dơi đã chọn cách chuyển đến các hang động tại những địa phương khác để sinh sống. Điều này đã làm cho một số hang trong vùng không còn cảnh sinh sống đông đúc của dơi như trước.

< Amblypyge: Loài Phrynichus orientalis - Weygoldt,1998

Ông Trương Bá Vương (Nghiên cứu viên, Viện Sinh học nhiệt đới (thuộc Viện hàn lâm Khoa học - công nghệ Việt Nam), thành viên đoàn khảo sát:

Với kết quả tìm được thì hang động dơi tại khu vực giáp ranh giữa 2 huyện Tân Phú và Định Quán sẽ trở thành hang dung nham dài nhất khu vực Đông Nam Á tính cho đến thời điểm hiện nay (dài hơn ống dung nham Gua Lawah có chiều dài 400 m của Indonesia). Phát hiện này dự kiến sẽ được Hội Hang động Berlin xuất bản thành một báo cáo đầy đủ bằng tiếng Anh, bao gồm: phần bản đồ và phần mô tả về các hang động. Dự kiến sẽ được xuất bản trên ấn phẩm Speleological Berlin Speleoclub của hội.

Bà Võ Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm xúc tiến du lịch tỉnh (Sở Văn hóa - thể thao và du lịch):

< Loài Dơi, có thể loài cf. Hipposideros pomona

Đã từng dẫn nhiều đoàn học sinh, sinh viên của nhiều trường đại học trong khu vực Đông Nam bộ đến tìm hiểu và nghiên cứu tại hang dơi ở 2 huyện Tân Phú và Định Quán, tôi nhận thấy những địa điểm này rất có tiềm năng phát triển du lịch sinh thái, thám hiểm hang động. Đây là hoạt động sẽ góp phần quảng bá hình ảnh du lịch tỉnh nhà đến với bạn bè trong và ngoài nước. Tuy nhiên, để có thể biến mong muốn đó thành hiện thực thì đòi hỏi các cơ quan chức năng, các nhà nghiên cứu khoa học cần thực hiện nhiều đợt khảo sát để đánh giá mức độ an toàn, tác động của du lịch đối với môi trường sinh thái.

Du lịch, GO! - Theo Văn Truyên (Đồng Nai Online), ảnh internet
Công trình thủy điện, thủy nông Ayun Hạ hoàn thành năm 1994, nằm trên địa bàn 2 huyện Chư Sê và Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Với diện tích mặt nước 37 km², công trình vĩ đại, tuyệt đẹp này không chỉ khiến Gia Lai trở thành vựa lúa của Tây Nguyên, nó còn giúp hàng ngàn nông dân mưu sinh, thoát nghèo bằng nghề đánh bắt cá.

Sung túc nhờ hồ

Những ngày lang thang quanh khu vực hồ Ayun Hạ, một lần đứng trên đỉnh đèo Chư Sê phóng tầm mắt nhìn xuống hồ, tôi mới thực sự ngỡ ngàng trước cảnh thiên nhiên đẹp như một bức tranh. Toàn cảnh bức tranh nền là một màu xanh trù phú.

Hai bên hồ là hai dãy núi sừng sững ôm lấy dòng sông Ayun hiền hòa. Phía dưới là nhà máy thủy điện Ayun Hạ và dòng nước trong xanh chảy theo kênh chính dài ngút tầm mắt, uốn lượn theo những cánh đồng chạy dài xuống thị trấn Ayun Pa tạo nên bức tranh đồng quê tự nhiên, hài hòa. Những mái nhà tranh cất tạm của ngư dân nằm lúp xúp bên bờ hồ. Dưới lòng hồ, những chiếc thuyền của ngư dân lững thững trôi… khung cảnh thật êm đềm.

Hỏi thăm mãi, cuối cùng tôi cũng tìm được nhà của già làng của làng T’lâm, xã Ayun. Năm nay đã gần 80 tuổi, già làng K’puih từng trải qua biết bao thăng trầm của quê hương, từng có những tháng năm dài tham gia nuôi giấu bộ đội trong cả 2 thời kỳ chống Pháp, Mỹ. Đêm đêm, già làng cùng thanh niên trong làng chèo thuyền độc mộc chở bộ đội vượt sông, mai phục dưới chân đèo Tung Kê tiêu diệt kẻ thù.

Già làng khoe: “Từ lúc có hồ đến nay, bà con hết nghèo đói, sống khỏe. Giờ nhiều người thích xuống nước bắt cá hơn lên rừng rồi”. Theo già làng K’puih, chỉ tính riêng xã Ayun đã khoảng hơn 300 hộ làm nghề đánh bắt cá trên hồ. Trẻ con trong làng khi vừa biết đi cũng là lúc phải tập bơi, lên 10 tuổi đã biết câu cá, thậm chí có đứa giăng lưới thành thục, biết canh con nước, ngọn gió để đặt câu, buông lưới. Quả thật, hồ Ayun Hạ đã cho bà con cuộc sống sung túc.

Tôi gặp ngư dân Đ’Breng, ở làng T’Lâm, xã Ayun, giữa lúc anh vừa đi thả lưới về. Tôi ngạc nhiên thấy quần áo anh sũng nước nhưng chẳng thấy cá đâu. Anh cười bảo: “Bây giờ mình chỉ thả lưới xuống thôi, về ngủ 1 giấc rồi sáng dậy sớm đi mang cá về bán thôi”. Tôi hỏi: “Thả lưới không có người trông người khác xuống lấy mất thì sao?”. “Không đâu, ai cũng có mà”, anh thật thà đáp.

Già làng K’puih cũng nói với tôi rằng từ xưa đến giờ chưa từng xảy ra mất trộm lưới. Đ’Breng năm nay gần 50 tuổi và anh chẳng nhớ đã gắn bó với dòng sông từ lúc nào. “Ngày xưa theo cha đi bắt cá dưới sông, cũng có cá. Bây giờ có hồ rồi, nhiều cá lắm, không phải ngược lên thượng nguồn nữa”, anh nói tiếp. “Thả lưới một đêm được bao nhiêu cá?”, tôi hỏi Đ’Breng. Anh đáp: “Nhiều lắm, con nào cũng to, mang nặng vai. Ở đây nhiều người thả lưới giỏi lắm”. Đ’Breng bảo, cách đánh cá của những ngư phủ trên sông Ayun rất khác người. Buổi chiều sau khi đi rẫy về họ chỉ ra sông buông lưới xuống để sáng mai ra thu lưới và mang cá về bán.

Đối diện các làng thuộc xã Ayun, huyện Chư Sê là các làng ngu phủ Kim Piêng, Plei Bông, Plei Trơk, Plei Hek… của xã Chư A Thai, huyện Phú Thiện đang có cuộc sống sung túc nhờ hồ Ayun Hạ.

Buổi chiều, hoàng hôn buông xuống thật nhanh. Những ngôi nhà sàn bắt đầu sáng đèn. Tôi ngỏ ý muốn ở lại một đêm, già làng K’puih gật đầu, cười bảo: “Rừng đủ thức ăn, đủ chỗ ngủ mà”.

Kiêng kỵ khi buông lưới

Buổi sáng, khi mặt trời chưa ló rạng tôi đã giật mình choàng tỉnh bởi tiếng khua mái chèo, tiếng gọi í ới bằng tiếng bản địa. Già làng K’puih đang ngồi thư thái nhìn ra khoảng sân đầy heo gà, miệng phì phèo tẩu thuốc. Tối qua, tôi đã được xúc miệng bằng rượu cần, có vị thuốc, được thưởng thức món cá hồ Auyn Hạ nướng, nấu măng chua, và sau đó, ngủ một giấc thật say trong tiếng ru của cây rừng…

Bên ngoài, bờ hồ tấp nập, mọi người đang hối hả xuống xuồng, đi gỡ lưới. Tôi nhanh chân theo bước theo Đ’Breng. Biết tôi có ý định theo ra hồ, anh bảo: “Hồ sâu lắm, anh có biết bơi không?”, thấy tôi gật đầu, anh tiếp: “Hồ cũng có thần linh cai quản, phải khấn trước nếu không thần không cho xuống, không cho cá đâu”. Nói rồi anh chắp tay, ngửa mặt rì rầm một lát rồi nói: “Xong rồi”.

Chúng tôi bước xuống thuyền. Những chiếc thuyền khác cũng bắt đầu ra sông. Đ’Breng bảo, không chỉ khấn, xin phép thần trước khi ra hồ, còn phải hứa không được làm điều xằng bậy như phóng uế, bắt cá nhỏ, gian lận… Lưới của Đ’Breng thả không xa bờ, nhưng khi anh vừa kéo lên, đã thấy mấy con cá mè khá to giãy giụa.

Suốt thời gian gỡ cá, Đ’Breng không nói một lời. Mẻ cá từ nắm lưới dài chừng 30 m Đ’Breng thu chừng 40 con cá mè, cá lóc, cá trôi. Ước cũng hơn chục ký cá. “Mình bán bao nhiêu tiền một ký?”, tôi hỏi anh. “Có khi 20 ngàn, có khi cao hơn. Tùy hôm, khi nào họ bảo hôm nay cá rẻ thì mua thấp, hôm nào đắt thì họ trả cao”.

Hồ Ayun Hạ có rất nhiều cá. Cá tự nhiên vốn đã nhiều nay được Cty Thuỷ sản miền Trung thả giống chăn nuôi nên cuộc sống của hàng trăm hộ dân sống quanh lòng hồ Ayun Hạ càng sung túc hơn xưa. “Ở đây nhiều cá to lắm. Vì nó sống lâu nên rất khôn. Lưới không bắt được nó đâu. Có khi nó được thần nước bảo vệ rồi cũng nên”, Đ’Breng nói.

Hằng ngày vào buổi trưa, sau khi thuyền đánh bắt cập bến, những xe tải đông lạnh lại chở cá nước ngọt đi khắp mọi miền đất nước. Cá ở đây nhiều vô kể và đa dạng về chủng loại như: trôi, chép, mè, lăng, trắm cỏ… và đặc biệt là cá thát lát, một trong những đặc sản nức tiếng của Gia Lai.

“Hữu xạ tự nhiên hương”, hồ Ayun Hạ và cả những vùng đất xung quanh nó đã trở thành mảnh “đất lành”, thu hút nhiều người đến mưu sinh. Anh Đ’Đôk, một ngư dân mới chuyển đến làng Plei Trơk, xã Ayun va cũng sống nhờ nguồn cá trên hồ nói: Lúc trước, anh sống ở xã H’Bông, huyện Chư Sê nhưng đời sống gặp nhiều khó khăn vì khô hạn, đất đai cằn cỗi.

Nhưng từ lúc chuyển cả gia đình về đây, lòng hồ Ayun Hạ đã giúp anh và cả gia đình thoát khỏi cảnh đói nghèo. “Tôi biết ơn hồ, biết ơn thần linh đã chỉ dường cho tôi gặp hồ, biết ơn nhà nước đã làm hồ nước này cho bà con”.

Ngày xưa, ở các buôn làng Tây Nguyên, ai cũng biết câu ca dao: “Ai về nhắn với nậu nguồn/Măng le gửi xuống cá chuồn gửi lên”. Nhưng bây giờ, câu ca ấy đã đi vào dĩ vãng, chẳng còn ai nhắc đến nữa. Hồ Ayun Hạ đã mang rất nhiều cá đến cho họ rồi, nên họ chỉ gửi sản vật của rừng về xuôi thôi chứ không cần dưới đó gửi cá lên nữa.

Du lịch, GO! - Theo Báo Nông Nghiệp, internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống