Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Wednesday, 17 April 2013

Làng Then, thuộc xã Thái Đào – Lạng Giang - Bắc Giang, ngôi làng duy nhất tại Việt Nam có truyền thống chơi vĩ cầm suốt gần 60 năm nay. Đây là ngôi làng đã sinh ra những người làm văn hóa – nghệ thuật, âm nhạc như: Trần Vinh, Bùi Đắc Sừ, Quốc Minh, Hà Huy Bái, Lê Văn Khách, Nguyễn Văn Đưa, là những nghệ sĩ, diễn viên, đạo diễn, nhạc công đã nổi danh trên làng văn hóa nghệ thuật.

Cách Hà Nội khoảng 70 km theo đường quốc lộ 1A, làng Then đơn sơ và bình dị, chắc không ai ngờ được đây là ngôi “làng vĩ cầm” độc nhất vô nhị tại Việt Nam, trải qua bao nhiêu thế hệ, đào tạo biết bao nghệ nhân vĩ cầm, nét chất phát của thôn quê và dòng máu nghệ thuật như hòa quyện vào nhau, tạo ra một nét đẹp rất riêng của vùng đất văn hóa này.

Đường làng quanh co và yên tĩnh, chúng tôi hỏi thăm về nhà một nghệ nhân chơi vĩ cầm lâu năm, người ta cười nói: “Làng này chơi vĩ cầm thì nhiều lắm”, rồi nhanh tay chỉ hướng đi. Ông Nguyễn Hữu Hùng, một trong những thế hệ vĩ cầm của làng, ông được làm quen với chiếc đàn từ khi còn trẻ, đến nay đã mấy chục năm, "tôi chơi đàn từ năm 13 tuổi, đến nay cũng vài chục năm rồi, trước trẻ thì ham, giờ có tuổi, cũng nhiều việc phải làm, thỉnh thoảng có thời gian mới tập hợp anh em ngồi chơi violon" -ông chia sẻ.

Rời khỏi nhà ông Hùng, với những câu chuyện về chiến tích của Làng Then về văn hóa nghệ thuật từ thời kháng chiến, ông Hùng nói: "Muốn tìm hiểu thật kĩ về truyền thống chơi vĩ cầm, cô sang gặp ông Nguyễn Hữu Đưa, ông ấy là người thầy đầu tiên dạy chúng tôi, ông học đàn từ những năm 1956, có công đào tạo biết bao thế hệ học trò vĩ cầm của ngôi làng này"

Nhà ông Đưa nằm sâu trong đồi, khi bước tới cổng, tôi bắt gặp một nụ cười rạng rỡ của một cụ bà: "các cháu tìm ai", một cụ ông đang gánh nước vào sân giếng. Biết chúng tôi tìm ông Đưa, bà mời vào nhà uống nước, "khổ, ông già rồi, tai nghe không còn rõ nữa, nhưng kéo đàn vẫn còn minh mẫn lắm" - bà cười nói.

Trong ngôi nhà nhỏ đơn sơ của ông bà, chắc không ai ngờ được cũng chính là lớp dạy violon của ông Đưa, tóc ông đã bạc, tay chân cũng nhăn nheo vì tuổi già, sức yếu, nhưng cứ hễ động đến cây đàn ông lại say sưa kéo đủ các bản nhạc. Trên tường, trong ngăn tủ, đầy những bức ảnh ông đi biểu diễn, những cuốn sách viết những bản nhạc ông yêu thích được lưu giữ cẩn thận mấy chục năm nay. Ông kể: "Ngày xưa, cứ mỗi lần dạy đàn cho mấy đứa trẻ, tôi sáng đạp xe ra Hà Nội chọn đàn, rồi tối lại đem về để hôm sau có đàn cho bọn trẻ học, nhưng giờ già rồi, không đi nổi nữa". Cây đàn ông đang giữ đã theo ông mấy chục năm nay, cứ hễ hỏng ông lại tự ngồi sửa, ông quý cây đàn đó, ví nó đã theo ông suốt cả cuộc đời.

Tiếng vĩ cầm vang dưới lũy tre làng, ông say sưa kể về một thời tuổi trẻ của mình, đến với vĩ cầm cũng là một cái duyên, một niềm đam mê lớn của đời ông, ông đã dành gần cả cuộc đời cống hiến cho nó. "Giờ ông già rồi, có thể quên nọ quên kia, nhưng vĩ cầm chắc không bao giờ quên được"- cụ bà chia sẻ.

Ngôi làng nhỏ, nhưng lưu giữ một truyền thống lớn, về thăm làng Then, du khách có thể thưởng thức âm thanh violon vô cùng mộc mạc của những người dân giản dị nơi đây. Được chiêm ngưỡng những cây đàn lâu đời và được nghe về lịch sử hào hùng trong truyền thống nghệ thuật của làng Then.

- TS Nguyễn Xuân Diện, Viện Nghiên cứu Hán Nôm: Làng Then chính là quê của nhiều diễn viên, nhạc công nổi tiếng như: đạo diễn - NSND Bùi Đắc Sừ và Hà Quốc Minh (nguyên Giám đốc và đương kim Giám đốc Nhà hát Chèo Việt Nam), nhạc sĩ Trần Vinh (Nhà hát Chèo Việt Nam)… Người già trong làng kể rằng xưa vào mỗi dịp xuân hội, làng mời một gánh tuồng về diễn mấy đêm liền, lại còn mời cả giáo phường ca trù về hát thờ trước cửa đình.

- Nhạc sĩ Phạm Chỉnh, Phó Giám đốc Trung tâm Văn hóa Thông tin Thành phố Hà Nội cho biết rất bất ngờ khi thấy những người nông dân làng Then đọc được tổng phổ và dù tiếng đàn chưa thực sự chuyên nghiệp nhưng cách chơi đã rất chuyên nghiệp. Những người dân làng Then thực sự là những nghệ sĩ rất có phong cách và đầy tính ngẫu hứng.

- GS Lê Văn Cường, Đại học Paris 1, Pháp bảo ông đã đi nhiều nơi trên thế giới nhưng chưa thấy có một làng nào yêu nhạc và có một dàn nhạc độc đáo như làng Then.

Du lịch, GO! - Theo Nguyễn Nhung (Vietnamnet), SaigonGP...

Tuesday, 16 April 2013

Di tích chiến thắng La Ngà trải dài trên 9km đoạn quốc lộ 20 từ cây số 104 đến 113 qua các xã Phú Ngọc Ngọc Định và Phú Hiệp của huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai.

< Tượng đài Chiến thắng nhìn từ cầu La Ngà.

Quốc lộ 20 được người Pháp xây dựng từ đầu thứ kỷ 20, là đường giao thông chiến lược nối liền Sài Gòn với Đà Lạt. Từ Đà Lạt còn có nhiều con đường nối với các tỉnh Tây nguyên đến trung Hạ Lào và xuống các tỉnh vùng duyên hải miền Trung.

Thuở ấy, đoạn quốc lộ 20 qua các di tích chiến thắng La Ngà chỉ là con đường trải nhựa nhỏ bé (khoảng 5 - 6 mét) quanh co khúc khuỷu men bên sườn núi, có những đoạn dốc cao kéo dài, độ dốc trung bình từ 10 - 15 độ.

< Cầu La Ngà năm 1969.

Phía đông, đường dốc thoải dần xuống thung lũng, có những chỗ là vực sâu. Phía tây, đường chạy theo những triền núi cao, cách sông Đồng Nai 7km. Hai bên đường toàn rừng già, không có dân cư sinh sống. Buổi sáng có thể nhìn thấy những bãi phân voi to như chiếc rổ rải rác trên mặt đường. Buổi chiều rừng nguyên sinh tĩnh lặng đến độ người ta có thể nghe tiếng xào xạc trên các tán cây hay tiếng bước chân của các loài thú rừng. Vào mùa mưa, sương mù bao trùm cả cánh rừng làm cho môi trường càng âm u, tĩnh lặng.

< Làm chủ trận địa La Ngà trong trận tập kích ngày 1-3-1948.

Ngày 01 tháng 3 năm 1948, sau một thời gian dài chuẩn bị, Chi đội 10 phối hợp với Liên quân 17 phục kích tấn công đoàn xe quân sự Pháp từ Sài Gòn đi Đà Lạt trên lộ 20. Tuyến phục kích trải dài trên 9 km từ cây số 104 đến 113 nay thuộc địa bàn Định Quán. Lực lượng vũ trang cách mạng tập kết quân và bố trí phục kích trên ba mặt trận với tên gọi: A, B, C nhằm khóa đuôi, chăn viện và đánh thẳng vào đoàn xe quân sự địch - Trên các mặt trận được bố trí nhiều địa lôi.

15 giờ 12 phút, chiếc thiết giáp dẫn đầu đoàn xe địch lọt vào trận địa phục kích. Quân cách mạng tấn công, ba trái địa lôi và viên đạn chống tăng gần như nổ cùng một lúc tạo nên một cột lửa khói bao trùm mục tiêu. Chiếc thiết giáp bị đẩy hất lên nằm chắn ngang đường rồi bốc cháy. Chỉ huy đoàn xe cùng bộ phận thông tin bị tiêu diệt tại chỗ. Hai chiếc xe chở lính hộ tống đi tiếp sau đâm sầm vào xác chiếc xe trước bắt lửa cháy luôn. Quân cách mạng dùng hỏa lực tiêu diệt đám lính còn lại và vận động xung phong tấn công trực diện đoàn xe địch trên lộ.

Số xe địch đi sau lọt hẳn vào trận địa và tiếp tục tiến lên, không hay biết về bộ phận đi đầu đã bị tiêu diệt. Khắp cả hai mặt trận B và C, quân ta tập trung hỏa lực vào những xe quân sự, chiến đấu quyết liệt với địch và nhanh chóng làm chủ trận địa. 16 giờ trận đánh kết thúc, 59 xe địch bị tiêu diệt hoàn toàn, 150 lính lê dương đi hộ tống, 25 sĩ quan Pháp, trong đó có đại tá De Sérigné - chỉ huy lữ đoàn lê dương thứ 13 và đại tá Patruit - phó tham mưu trưởng thứ nhất quân viển chinh Pháp ở Đông Dương bị thiệt mạng, trung úy Joeffrey - chỉ huy đội hộ tống bị bắt sống. Cùng với bộ đội Chi đội 10 và liên quân 17, lực lượng vũ trang địa phương tham gia trận đánh rút về căn cứ an toàn.

Chiến thắng La Ngà gây một tiếng vang lớn trong cả nước ta, làm chấn động dư luận nước Pháp. Quốc hội Pháp phải chất vấn chính phủ về trận La Ngà. Viên đại tá Thalès, chỉ huy trưởng khu vực Đồng Nai thượng bị giáng chức nên đã tự tử.
Đây là một chiến thắng quân sự lớn nhất từ đầu cuộc kháng chiến đến lúc bấy giờ của lực lượng vũ trang Biên Hòa. Trận đánh giao thông La Ngà đánh dấu bước tiến vượt bậc về khả năng phối hợp, tổ chức, trình độ chiến thuật, kỹ thuật của lực lượng vũ trang tỉnh Biên Hoà. Các đơn vị tham gia trận đánh được vinh dự nhận Huân chương Quân công hạng II do Bác Hồ trao tặng.

< Tượng đài chiến thắng La Ngà.

Tại chiến trường xưa, trên ngọn đồi Gió bên dòng sông La Ngà, tượng đài Chiến thắng La Ngà được xây dựng như một biểu tượng tình cảm thiêng liêng của hậu thế khắc ghi công lao to lớn của cha ông đã tạo nên một chiến công bất tử, một dấu son chói lọi trong lịch sử đấu tranh của dân tộc. Cụm di tích chiến thắng La Ngà trải dài trên 9 km đoạn quốc lộ 20 từ km 104 đến 113 qua các xã Phú Ngọc, Ngọc Định và Phú Hiệp, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai.

Cụm di tích tượng đài chiến thắng La Ngà được Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích, lịch sử cấp quốc gia theo Quyết định số 235/VH- QĐ ngày 12 tháng 12 năm 1986.

Ngày nay, Quốc lộ 20 được mở rộng nâng cấp những cánh rừng nguyên sinh không còn nữa, thay vào đó là những khu dân cư đông vui tấp nập. Bên tả ngạn sông La Ngà, trên đỉnh đồi, là khu công viên tượng đài “Chiến thắng La Ngà” hoành tráng sừng sững giữa bầu trời xanh lộng gió, soi bóng xuống dòng sông.

Hơn 55 năm trôi qua vết tích về một trận đánh giao thông táo bạo, hùng tráng gần như không còn, nhưng âm vang chiến thắng La Ngà vẫn còn đó. Tượng đài La Ngà như một biểu tượng tình cảm thiêng liêng của đất nước khắc ghi công lao to lớn của chiến sĩ đồng bào đã hy sinh góp phần làm nên chiến công vang dội “Chiến thắng La Ngà”. Một mốc son chói lọi của lịch sử đấu tranh dân tộc.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ SVHTT&DL-Đồng Nai và nhiều nguồn thông tin, hình ảnh khác trên internet
Leo lên đỉnh Phu Song Sung, Yên Bái mùa khô đã khó, đi vào trúng đợt rét đậm rét hại, trời sương mù mịt còn khó khăn hơn gấp nhiều lần.
Con đường mòn khúc khuỷu bình thường bỗng trở nên trơn trượt như bôi mỡ. Cây cối đóng băng, gió thốc như muốn thổi tung người. Nhưng cái máu "ngông", ưa thử thách bản thân đã khiến chúng tôi quyết định thực hiện chuyến du lịch leo núi vào một ngày đông lạnh giá cũng chính là cơ hội trải nghiệm những điều thú vị hiếm hoi.

Chúng tôi đến xã Xà Hồ, huyện Trạm Tấu, Yên Bái sau gần một ngày chạy xe máy từ Hà Nội. Trời mùa đông đã bắt đầu nhá nhem tối. Do đã liên lạc trước với Giàng A Sinh, nên chúng tôi đến thẳng nhà ông bí thư xã này.

Tới muộn nên ông Sinh bảo không thể lo cho cả đoàn mười người chỗ ăn, ngủ. Ông bảo, trước đoàn chúng tôi cũng đã có hai, ba đoàn tới đây rồi nhưng không thể leo được vì trời quá nhiều sương mù, ẩm ướt, thậm chí trên núi đã có băng. Nhưng chúng tôi nghĩ, đã đến được đây rồi mà quay về, không tới được đích là phí phạm một kì nghỉ; nên cả nhóm khăng khăng đề nghị ông giới thiệu người dẫn đi.

Ông bảo chúng tôi xuống nhà anh Thào A Măng nghỉ đêm và hôm sau anh ta sẽ dẫn đường cho chúng tôi luôn. Chỗ nghỉ chỉ là cái một cái nhà tạm, không có giường chiếu gì. Nấu nướng, ăn uống xong, cả nhóm trải túi ngủ ra nằm. Căn nhà trống đủ cho gió tự do lùa vào. Rét run cầm cập, mọi người hầu như suốt đêm không ngủ, chỉ mong trời mau sáng để leo lên đỉnh.

Sáng sớm, chúng tôi khởi hành trong tình trạng sức khỏe không được sung mãn nhất vì trải qua một đêm mất ngủ. Sương mù vẫn phủ xuống mờ mịt, lẫn trong đó là những hạt mưa bay bay, gió thốc buốt lên tận đầu, dấu hiệu cho một ngày vất vả. Hai người Mông vừa dẫn đường vừa vác thực phẩm và đồ dùng của cả đoàn. Chúng tôi cũng chỉ mang theo những gì đơn giản nhất trên người, túi ngủ, nước, đồ ăn. Xe máy được gửi lại lán của những công nhân làm trong khu khai thác mỏ.

Thời tiết nghiệt ngã

Từ đây, đã thấy những dốc núi dựng đứng, leo lên đầu phải chạm gối, chỉ có đi lên đến vô tận, không có điểm xuống. Vượt hơn chừng cây số, lên trên một đỉnh núi cao, chúng tôi thấy một đoàn cũng đang dựng lều, cắm trại nấu ăn. Đoàn này đã tới từ hôm qua nhưng do trời nhiều sương, mù mịt nên quyết định bỏ cuộc, không leo nữa. Chúng tôi đã chuẩn bị tinh thần rồi nên cũng cứ thế mà leo lên.

Anh Măng, người dẫn đường cho chúng tôi bảo, tuần nào anh cũng leo lên đỉnh này để xem đàn gia súc nhà anh thả rong trên đó như thế nào. Anh gọi đỉnh Phu Sung Song là đỉnh Cột Cờ. Người Mông còn gọi đỉnh núi này bằng cái tên khác là Chung Chua Nhà (đỉnh núi có nhiều kim loại). Trước kia trên đỉnh núi có dựng một cột cờ lớn để đánh dấu đỉnh cao nhất của dãy núi này. Nhưng giờ không còn nữa, chúng tôi có muốn xem cũng không được.

< Chặng dừng chân đầu tiên sau bốn tiếng đồng hồ leo núi.

So với đỉnh Fanxipan, Phu Song Sung thấp hơn, vào khoảng 2.955 mét so với mực nước biển, nhưng độ khó thì hơn Fanxipan rất nhiều lần vì toàn dốc đứng lên, không có những khoảng nghỉ như leo Fan. Trời nhiều mù nên cũng chẳng thấy gì nhiều, chỉ thấy chân mình đi qua hết con núi đến con núi khác, dò dẫm trên con đường mòn ướt đẫm nhỏ tí dành cho bò, dê đi đã trở nên trơn trượt, nhão nhoẹt. Đoàn chúng tôi thay nhau trượt ngã, có những đoạn anh dẫn đường phải dùng một cây gậy kéo từng người một lên khỏi đoạn dốc trơn.

Khó nhọc leo lên từng con dốc một, nhưng mệt quá dừng lại nghỉ lâu một chút là cái lạnh bắt đầu ngấm vào người nên chúng tôi có mệt cũng không dám nghỉ lâu, cứ dò dẫm đi về phía trước. Càng lên cao gió thốc càng mạnh. Có những đoạn gió thổi bay đi đám bây mù, để lộ ra khoảng rừng rậm xanh rì, những ngọn núi hùng vĩ. Cả đoàn chúng tôi không khỏi choáng ngợp trước cảnh tượng tuyệt đẹp của thiên nhiên. Nhưng chỉ được một khoảnh khắc rất nhanh sương mù lại che kín tất cả.

Khoảnh khắc kỳ diệu

< Sương bám trên chùm lá non đông thành băng trông như chùm hoa thủy tinh trong suốt.

Qua vùng rừng thấp mịt mù, chúng tôi leo lên những triền núi cao hơn, hai bên là vực sâu thăm thẳm, gió thổi mạnh như muốn hất tung người chúng tôi. Có những đoạn gió mạnh quá, chúng tôi phải thụp người xuống lùm cây nhỏ để tránh gió. Những con đường sống trâu tưởng chừng như dài vô tận. Lúc đó, chúng tôi mới biết cảm giác sợ chết là như thế nào. Chỉ cần hẫng chân và gió đẩy một chút là có thể rơi xuống hai bên vực sâu thăm thẳm!

Sương mù dày đặc nên chỉ nhìn thấy những con đường mờ mờ phía trước. Nhiệt độ xuống thấp đến độ cây cối đóng băng. Có thể lấy ra một lớp băng từ trên những chiếc lá. Cây cối nhuốm màu trắng bàng bạc. Giữa sương giá như vậy, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn bắt gặp những bông hoa dại nở đẹp rực rỡ. Những cơn gió mạnh cứ liên tục đẩy những đám mây mù đi làm cho khung cảnh thiên nhiên không ngừng thay đổi. Có những khoảnh khắc, bầu trời bỗng nhiên sáng bừng lên, để lộ những đám mây trắng bồng bềnh trôi trên những đỉnh núi xanh mướt.

< Trên đường lên đỉnh, thỉnh thoảng, gió xua hơi mù đá núi, để lộ những đám mây trắng bồng bềnh tuyệt đẹp giữa núi non hùng vĩ.

Ở độ cao 2.400 mét, giữa không gian mênh mông, hùng vĩ như vậy, chúng tôi thấy mình thật nhỏ bé. Không gian tĩnh lặng đến kỳ lạ, chỉ nghe thấy tiếng chim và tiếng bước chân dồn dập, tiếng thở nặng nhọc của chúng tôi. Nếu đi quá cách xa nhau, chúng tôi chỉ cần đứng trên đỉnh núi này hú lên, là nhóm kia ở đỉnh bên kia có thể nghe thấy rõ mồn một. Cảm giác yên tĩnh đến rợn người.

Chúng tôi cứ thế cắm đầu leo lên ròng rã từ 7 giờ sáng đến tận chiều. Đôi chân đã mỏi nhừ nhưng vẫn chưa thấy đích đến đâu. Đoạn đường cuối cùng chỉ có thể đi bằng ý chí, mặt cắm xuống đất, lê từng bước một. Trời đã bắt đầu tối và vẫn sương mù mịt nên có lên đỉnh cũng không thể nhìn ngắm thấy gì. Chúng tôi quyết định chỉ đi tới lán chăn gia súc của gia đình bác Sinh. Từ lán còn phải mất gần tiếng đi bộ mới lên tới đỉnh.

< Suốt chặng đường lên đỉnh không hề có đoạn đi xuống, chỉ leo hết ngọn núi này đến ngọn núi khác.

Cả bọn đang thất thểu đi về lán, bỗng dưng chúng tôi thấy sáng rực ở chân trời. Giống như một điều kì diệu, nắng bỗng xuất hiện trên đỉnh núi, giữa lòng thung lũng là biển mây trắng bồng bềnh. Những tia nắng phản chiếu làm lóe lên nhưng tia sáng lấp lánh như pháo hoa. Khoảnh khắc chỉ diễn ra trong chớp mắt, rồi lại bị mây mù bao phủ. Chúng tôi không kịp lôi máy ảnh ra chụp. Nhưng cảm giác lâng lâng thì vẫn còn. Cứ ngỡ như mình đang ở một chốn thần tiên nào đó. Lúc trước, chúng tôi vẫn tiếc là mình không đi vào một ngày đẹp trời lắm. Nhưng chứng kiến bức tranh tuyệt đẹp đó chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi thôi cũng đủ bù đắp cho tất cả những khó khăn mà chúng tôi phải trải qua.

Hành trình của ý chí

< Lán gỗ dành cho gia súc tránh rét của gia đình ông Giàng A Sinh, bí thư xã xã Xà Hồ.

Lúc này, khu lán trại của ông Sinh đã hiện ra mờ mờ ở phía xa. Chúng tôi như có động lực để tăng tốc. Khu lán nằm lọt thỏm giữa khoảng đất bằng phẳng, xung quanh núi bao phủ. Gió thốc vào như muốn thổi tung từng mảnh gỗ. Toàn bộ đều là nơi để gia súc tránh rét, chỉ có một tầng trên được ghép tạm bợ bằng những miếng gỗ để cho người trú.

Cảm giác như ngôi nhà đang rung rinh kẽo cọt trong gió. Thế mà vào bên trong lại rất ấm. Cứ tưởng tượng nếu không có cái trạm này, cả đoàn mắc lều cắm trại chắc chắn sẽ bị thổi bay đi lúc nào không biết. Đoàn chúng tôi đến trước, một lát sau cũng có một đoàn khác đến cùng tá túc trong cái lán bé tí xíu. Chúng tôi chia đôi ra, mỗi bên một nửa, nằm quanh bếp lửa. Đêm xuống, chỉ nghe tiếng gió rít xuyên qua những phiến gỗ và tiếng lửa kêu tí tách, tiếng gió đưa đẩy những chiếc lục lạc của đám gia súc kêu leng keng.

Mùa đông khắc nghiệt không còn lạnh lẽo nữa, bởi hơi ấm của người, bởi cảm giác đã làm được một cái gì đó, đã trông thấy những cảnh tượng tuyệt đẹp. Chúng tôi có một đêm ngon giấc trong giấc mơ ngọt ngào.

Buổi sáng, cả hai đoàn cùng sẵn sàng leo lên đỉnh. Khoảng cách chỉ chưa đầy một tiếng đi bộ. Nhưng trời vẫn mù mịt. Cả đoàn cặm cụi leo lên đỉnh nhưng cũng chẳng nhìn thấy gì nhiều hơn ngày hôm qua. Đành tiếc rẻ bắt đầu leo xuống, hứa với lòng mình sẽ trở lại, leo lên đỉnh vào một ngày ánh nắng tràn ngập để thấy mình như nằm trên mây, bồng bềnh trôi; để nhìn thấy phía dưới kia, chân núi thăm thẳm xanh mướt và hít căng tràn lồng ngực không khí buổi sớm tinh nguyên.

Chặng đường đi xuống cũng vất vả không kém. Hết đổ dốc này, đến dốc khác. Có những lúc không phanh lại được trước con dốc dựng dứng, cứ lao người chạy xuống. Đầu ngón chân bám vào đường sưng tấy lên. Chúng tôi thử tất cả các kiểu đi xuống, đi ngang, đi dọc và cuối cùng là lết xuống bằng... mông. Thế mà vẫn có vài người ngã lăn lông lốc. Hai đầu gối tôi run lẩy bẩy, trong đầu chỉ lẩm nhẩm “Dê leo được, mình cũng leo được” để tự khích lệ quyết tâm.

Trong khi đó, anh Măng chỉ mang đôi ủng nhựa lại đi nhẹ nhàng như không. Nhìn anh leo xuống thoăn thoắt giống như con sóc. Chúng tôi có động lực để đi xuống. Giống như kiểu đi nhiều sẽ quen chân thôi.

Cuối cùng, chúng tôi cũng xuống được tới chỗ gửi xe, người ngợm quần áo bẩn thỉu nhưng bù lại mặt ai cũng tươi rói. Cuối cùng, cũng đã chinh phục được mục tiêu. Quan trọng hơn cả, như người ta vẫn nói, “Niềm vui là hành trình, chứ không phải là điểm đến”. Cả chuyến đi, mỗi người chúng tôi đều có trải nghiệm của riêng mình và cảm giác đã vượt qua chính bản thân mình.

Du lịch, GO! - Theo Lê San (Thesaigontimes), internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống