Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Wednesday, 5 December 2012


Sống theo đạo đức của Bác Hồ 
Đi phượt theo kiểu Thái Ba Lô
Ngàn người chẳng mấy ai có dịp
Trèo đèo lội suối gặm lương khô

Saturday, 3 November 2012


Nói thật là khu vực Baltic chưa bao giờ là vùng đất ưa thích của tôi. Nguyên nhân chính cũng là do hình ảnh của vùng này qua mờ nhạt trong con mắt tôi và ngay cả số lượng các đầu sách hay cẩm nang du lịch cũng nói lên điều đó. Tôi còn nhớ thời điểm săn tìm tài liệu ở nhiều thư viện thành phố ở Paris, quả thực là không dễ dàng. Nhưng cuối cùng, có 2 nguyên nhân khiến tôi quyết định chọn dành gần 10 ngày đặt chân đến vùng này : thứ nhất cả Estonia, Litva và Latvia đều đã gia nhập khối Schengen năm 2004 nên tôi không mất visa, thứ 2 có tuyến bay giá rẻ của Ryanair và Easyjet.

Khu vực biển Baltic là một ví dụ điển hình chứng minh cho tiêu chí du lịch của tôi. Tôi rất hiếm khi đi hẳn một lèo thăm nhiều quốc gia một lúc. Điều đó chỉ xảy ra khi tôi chủ ý muốn kết hợp thăm những quốc gia đó để phục vụ cho việc tìm hiểu sâu hơn về một khía cạnh kiến thức nào đó. Trong trường hợp của các quốc gia Baltic, mục đích khám phá của tôi trước hết là về mặt địa lý. Các bạn hãy tưởng tượng một trò chơi puzzle xếp các mảnh vỡ và Châu Âu là một bức tranh hoàn chỉnh. Bức tranh puzzle của tôi còn một số chỗ hổng và trong đó có một lỗ to đùng nằm giữa Phần Lan, Nga và Ba Lan. Mục đích thứ hai là về văn hóa, tôi chỉ biết qua là vùng Baltic trong qua khứ luôn là lãnh thổ chịu sự đô hộ của nhiều nền văn hóa khác nhau : Ba Lan, Đức, Nga, đủ cả. Câu hỏi mà tôi đặt ra là sau gần một thiên niên kỷ bị áp đặt văn hóa như vậy, suy cho cùng, đâu là nền văn hóa hiện nay của 3 quốc gia. Đọc sách thì quả thật hơi khó mường tượng. Phải đến trực tiếp và cảm nhận, chỉ có vậy mới giúp tôi hiểu thấu đáo vấn đề.

Việc cả 3 quốc gia Estonia, Litva và Latvia thường được gộp vào thành một cái tên chung « các quốc gia Baltic » có thể có lý do riêng của nó. Cả 3 quốc gia anh em này đều có điểm chung là nằm ven biển Baltic và trong suốt qua trình lịch sử từ khi khai sinh lập địa, cả 3 đều luôn phải chịu đựng sự đô hộ của các thế lực vây quanh như Đức, Ba Lan, Thụy Điển, Đan Mạch và Nga.  Cả 3 quốc gia Baltic đều sinh ra vào thế kỷ 12 sau CN vào thời điểm xuất hiện hệ thống thương mại Hanse. Nói chính xác hơn, Hanse là liên minh tập hơn gần 30 thành phố cảng ven các vùng biển Baltic và Bắc Âu với nhiệm vụ là đoàn kết để trở thành một hiệp hội kinh tế đủ lớn để giao lưu với các khu vực khác của Châu Âu đặc biệt là Địa Trung Hải.  Nằm kẹp giữa Ba Lan phía tây và Nga phía Đông, 3 quốc gia Baltic tuy có lợi thế gần biển nhưng lại không có may mắn như những thành phố cảng khác trong khu vực. Họ luôn phải đề phòng sự tấn công của nhiều thế lực xung quanh, không phải cướp biển thì cũng là sức ép từ phía Đan Mạch hoặc những cuộc tấn công của người Phổ trong suốt thời Trung Cổ. Từ thời trung cổ đến thế kỷ 20, chưa bao giờ các lãnh thổ khu vực này được hưởng giây phút độc lập hoàn toàn, không bị người Ba Lan phía tây sát nhập vào vương quốc của họ thì cũng bị người Nga phía Đông sở hữu lại. Cái mà tôi hay bất cứ du khách nào đến đây phải thán phục, đó là ý chí dân tộc và chủ quyền của họ. Bất chấp sự đô hộ vài trăm năm của các thế lực láng giềng, họ đã biết cách lĩnh hội các nét văn hóa nước ngoài kết hợp với truyền thống địa phương để tạo ra một nền văn hóa mới hết sức độc đáo. Đến thăm 3 quốc gia Baltic, tôi bị ấn tượng ngay bởi sự pha trộn giữa 3 nền văn hóa xưa kia đã từng là kẻ đô hộ trên quốc gia của họ : slavơ (đến từ Nga và Ba Lan) , giéc-manh (đến từ Đức) và scandinavia (đến từ Đan Mạch và Thụy Điển).

Hành trình của tôi bắt đầu từ đất nước Lituania. Hãng hàng không Ryanair oái oăm không thiết lập đường bay thẳng từ Paris đến thủ đô Vilnius mà lại đặt đại bản doanh ở thành phố Kaunas cách đó đến gần 100km. Đã thế, giờ giấc thì cực xấu đến nơi thì cũng đến nửa đêm. Nhưng mà thôi, giá rẻ thì chỉ được vậy thôi. Ra khỏi sân bay thì tôi thấy sẵn một biệt đội ô tô chờ sẵn để đón khách đi Vilnius, chắc cũng chỉ đợi chuyến bay của tôi vì đây là chuyến bay cuối cùng. Thế là mất đứt ngày đầu tiên.
Buổi sáng hôm sau, tôi háo hức tiến hành cuộc khám phá Vilnius nhưng khá bất ngờ với quy mô khiêm tốn của thủ đô. Dân số nước này cũng chỉ xấp xỉ 2 triệu, ấy thế mà trong quá khứ, đất nước Lituania là một lãnh thổ rộng lớn (có lúc kéo đến tận nước Ucraina và Belarus) và là một công quốc độc lập trong vòng 500 năm. Theo sổ sách, Lituania là đất nước có bề dày lịch sử lâu đời hơn so với Estonia và Latvia. Ngay từ thế kỷ 13 sau CN, tòa thánh Vatican đã công nhận Lituania là một vương quốc theo đạo thiên chúa và chịu ảnh hưởng của nền văn minh Châu Âu. Khoảng thời gian từ 13 đến 16 là thời kỳ phồn thịnh nhất của quốc gia này khi công quốc Lituania xát nhập nhiều lãnh thổ xung quanh trong đó có Ba Lan, Ucraina và Belarus và trở thành vương quốc rộng nhất của Đông Âu. Đó là những gì tôi đọc được trong cẩm nang du lịch nhưng phải nói thật là tôi không mấy ấn tượng với những gì còn lại ngày nay, có lẽ là vì đất nước Lituania nói riêng và các quốc gia Baltic nói chung đã phải chịu quá nhiều tàn phá trong vòng vài trăm năm đấy tranh để bảo vệ chủ quyền.

Lại nói về vấn đề chủ quyền, đặt chân đến xứ sở Baltic, tôi đã học thêm nhiều điều về bộ mặt thật của nước Nga với cái quá khứ xã hội chủ nghĩa thối nát của chúng. Giáo trình lịch sử của Việt Nam quá đỗi tung hô nước Nga như một vị anh hùng đánh bại chủ nghĩa phát xít. Thế nhưng càng đi thăm các quốc gia thuộc xã hội chủ nghĩa cũ bao nhiêu (Ba Lan, Estonia, Lituania, Latvia, Romania, Hungary, Cộng Hòa Séc, Slovakia) thì tôi càng thấy bọn Nga đáng khinh thường bấy nhiêu. Để dễ so sánh, Việt Nam ta ghét bọn Trung Quốc thế nào thì nước Lituania nói riêng và các nước Trung Âu nói chung ghét bọn Nga như thế. Nếu nói trắng ra, trong con mắt các quốc gia này, Nga chính là « phát xít » phiên bản bêta. Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, thoát khỏi thằng Đức sau gần 6 năm chịu khổ trong thế chiến thứ hai, họ lại rơi vào cảnh bị « ông anh cả » Nga áp bức trong vòng vài chục năm cho đến khi bức tường Berlin sụp đổ năm 1989. 

Hễ một thành phố nào có bề dày lịch sử hơn 500 năm thì ngay lập tức sẽ có những câu chuyện thú vị xoay quanh sự khai sinh của nó. Vilnius không nằm ngoại lệ.  Tại đỉnh ngọn đồi Gedimino, trái tim của thủ đô, đã xảy ra một sự tích với kiểu cách giống như chuyện vua Lý Thái Tổ cho rời đô về Thăng Long. Truyền thuyết kể rằng quận công Gediminas đã ngủ mơ thấy một con sói bằng sắt khổng lồ xuất hiện trên đỉnh một ngọn đồi và cất tiếng rú như thể có hơn 100 con sói đang rú. 


Khi tỉnh dậy lúc bình minh, quận công kể lại giấc mơ cho một vị tu sĩ và ông này nói rằng đó là điềm báo rằng Gedimino sẽ trở thành nhà lãnh đạo của một vùng đất rộng lớn và cần phải cho xây một pháo đài trên đỉnh ngọn đồi nơi con sói cất tiếng rú. Đó là nguồn gốc của ngọn đồi Gedimino. Vị quận công Gediminas đăt tên thủ đô là Vilnius, phỏng theo tên con sông Vilnia chảy dọc thành phố. Ngày nay, chiếc pháo đài hình bát giác vẫn ngự trị ngọn đồi mang tên vị quận công trước kia. Từ đỉnh đồi có thể nhìn thấy toàn cảnh thành phố Vilnius với những nóc nhà ngói đỏ và những ngôi nhà tường nhiều màu.  

 
Khi xuống đồi rồi, tôi bắt đầu chuyến khám phá trung tâm thành phố Vilnius. Thành phố nói chung là nhỏ, chỉ bằng quận Ba Đình của Hà Nội nên tôi chỉ mất một buổi sáng là coi như thăm được hết. Không quá khó để xác định phương hướng vì quanh đi quẩn lại cũng chỉ có một vài trục đường chính trong đó có đường Pilies, được coi như đại lộ Champs-Elysees của Vilnius với rất nhiều quán càphê tấp nập. Xưa kia, hoàng gia và các phái đoàn đi sứ đều dùng con đường này để đến lâu đài hoàng gia. 
Tuy sinh ra từ rất sớm vào thời trung cổ nhưng những di tích từ thời kỳ này không còn mấy. Chỉ lác đác đây đó những bức tường thành đánh dấu rõ biên giới giữa nội thành và ngoại thành. 



 Nếu như trước kia có 9 cổng thành thì ngày nay chỉ còn lại đúng một cái có tên là Gate of Dawn, không còn giá trị gì về mặt quân sự nhưng lại trở nên nổi tiếng nhờ chứa bức ảnh của đức mẹ đồng trinh Maria. Người ta nói rằng bức ảnh này rất linh thiêng, trong quá khứ đã từng là thần hộ mệnh giúp cho Vilnius đánh lui được biết bao nhiêu cuộc xâm lăng của các thế lực xung quanh. 


Toàn bộ khu phố cổ của Vilnius đều được Unesco công nhận là di sản văn hóa thế giới. Định nghĩa « phố cổ » ở đây, về mặt địa lý, rộng hơn so với khu phố cổ vốn dĩ tồn tại từ thời trung cổ bị giới hạn trong  vành đai tường thành. Khu phố cổ mà Unesco công nhận còn bao gồm một phần ngoại ô, trong đó đáng kể nhất là khu phố Uzupis, được mệnh danh như là « nước cộng hòa » của dân nghệ sĩ. Uzupis có quốc ca riêng, bộ máy chính quyền riêng, tổng thống riêng ! Khu phố còn có cả « quân đội » riêng với…12 người. Nghe như kiểu Vatican giữa lòng nước Ý. 


Trung tâm phố cổ của Vilnius còn sót lại khá nhiều tòa nhà tráng lệ, chứng minh cho một quá khứ hào hùng của một thành thị được coi là trung tâm thương mại một thời của Đông Âu. Vậy, điều gì khiến Vilnius giàu có ? Đó chính là nhờ ngành công nghiệp khai thác và xuất khẩu đá amber, một loại đá quý chỉ có ở ven biển Baltic. Nếu nối lại chuyến viếng thăm thành phố cảng Gdansk (Ba Lan) năm 2005 thì tôi đã hiểu rõ hơn phần nào về loại đá quý này. 


Hầu như ở bất cứ nơi nào đã từng trao đổi buôn bán mặt hàng này thì ngày nay đều có một viện bảo tàng giải thích lịch sử phát triển của nó. Tại Vilnius cũng vậy. Đá amber có nguồn gốc từ nhựa thông ở thềm đáy biển Baltic và trải qua nhiều triệu năm hóa thạch chuyển hóa thành đá cứng có màu giống mật ong và trong suốt. Vào thời kỳ trung cổ, đây là một mặt hàng xa xỉ giúp cho nhiều thành phố ven biển Baltic phất lên, trong đó có Vilnius. Viện bảo tàng Amber Museum Gallery ở Vilnius có một gian trưng bày các sản phẩm đá amber rất đẹp mắt  


Cũng tại khu trung tâm này, tôi khám phá ra một nét lịch sử khác khá thú vị : Vilnius xưa kia là một nơi đón nhận cộng đồng Do Thái lớn nhất Châu Âu chỉ đứng sau Jerusalem. Chính vì lý do này mà Vilnius được mệnh danh là « Jerusalem của phương Bắc ». Trước chuyến đi đến đây, tôi luôn lầm tưởng rằng Ba Lan mới là quốc gia có cộng đồng do thái lớn nhất Châu Âu, có lẽ là do nhầm lẫn với số lượng người bị giết ở trại tập trung Auswitz. Theo số liệu thống kê, trước thế chiến thứ hai, dân số gốc do thái ở thủ đô Vilnius chiếm đến 40% tức là khoảng 100.000 người. Số lượng nhà thờ do thái thì nhiều vô kể, gần như cứ một con phố thì có đến gần 10 cái. Hồi ấy, tiếng do thái được sử dụng rất phổ biến ở thủ đô và là một trong những ngoại ngữ chủ đạo. 


Thế nhưng trong thế chiến thứ hai, người do thái nơi đây đã chịu cảnh tàn sát của Đức quốc xã để rồi chỉ còn lại vỏn vẹn gần 5000 người ngày nay.  Khu phố này giúp tôi hiểu rõ hơn phần nào định nghĩa của dân tộc do thái, một điều không phải đơn giản. Người ta thường thì chỉ biết nhiều hơn về những giai đoạn tăm tối của dân tộc do thái thời kỳ thế chiến thứ hai, khi mà phát xít Đức bắt bớ và dồn họ ở những trại tập trung rồi giết hại họ. 



Thế nhưng không có nhiều thông tấn xã nói về giai đoạn sinh sống của dân tộc này trước đó. Tại Vilnius, ngay từ thế kỷ 16 thì cộng đồng do thái đã sinh sống rất đông, thậm chí còn được quận công Lituania đặc ân lập hẳn một khu phố giữa lòng thủ đô. Thế nhưng họ đã bị Đức quốc xã giết hại 90%. Sau khi Đức quốc xã cho giết hầu hết, những ngôi nhà còn sót lại thì bị liên bang Xô Viết phá hủy vào những năm sau thế chiến thứ hai. 



Cái này thì cũng không chỉ riêng nước Lituania và là tình cảnh trung của phần lớn lãnh thổ ven rìa Liên Bang Nga. Giới chóp bu đảng xã hội chủ nghĩa không khoái những gì liên quan đến tôn giáo (thiên chúa giáo hay đạo do thái) nên đàn áp hết, bao gồm cả cộng đồng thiên chúa ngay trong lòng nước Nga. Những gì còn lại của di sản văn hóa do thái tại Vilnius gần như là con số không ngoài lèo tèo mấy cái đài tưởng niệm và một nhà thờ do thái. Ngần ấy là không đủ để tôi có thể mường tượng ra tầm quan trọng của cộng đồng này trong quá khứ.  

Nếu tổng kết ấn tượng đầu tiên của tôi về thành phố Vilnius, có thể nói rằng tôi không thấy có nhiều ảnh hưởng của văn hóa Nga. Ngược lại, về mặt kiến trúc, tôi lại thấy có nét gì đó rất giống một thị trấn văn hóa Đức thời trung cổ. Sở dĩ tôi có cảm nhận này vì năm 2005, tôi đã từng khám phá miên bắc Ba Lan và ở đó cũng có một số công trình kiến trúc đặc trưng kiểu Đức thời trung cổ, ví dụ như thành phố cảng Gdansk hay pháo đài Malbork. Người Đức xưa kia cũng đã từng nắm giữ Lituania vào cùng thời kỳ, có thể ảnh hưởng kiến trúc bắt nguồn từ thời kỳ đó. Cảm nhận của tôi càng rõ nét hơn khi thăm lâu đài Trakai, cách thủ đô Vilnius chỉ tầm 30km với kiểu xây dựng bằng gạch nung, đúng là kiểu Đức trung cổ. 


Với nhiều tuyến xe bus, không khó để đến được nơi từng được cho là thủ đô thứ hai của Lituania. Được xây dựng vào thế kỷ 15 với mục đích làm tấm bình phong bảo vệ thủ đô Vilnius, lâu đài Trakai sau đó trở thành nơi ở thường trực của nhiều thế hệ quận công Lituania và nhờ thế trở thành một trung tâm chính trị quan trọng thứ hai chỉ sau thủ đô. 



Khi mà đất nước Lituania bị sát nhập vào đế chế nga hoàng thì cũng là lúc lâu đài Trakai bị rơi vào quên lãng và xuống cấp trầm trọng. Những gì mà chúng ta nhìn thấy ngày nay là thành quả của công cuộc trùng tu lâu đài từ những năm 1950. Nếu không có sự can thiệp kịp thời của chính phủ Lituania, có lẽ Trakai chỉ còn là một đống gạch vụn. Theo nhiều nguồn thông tin, Trakai là điểm hút khách tham quan thứ hai của cả nước. Nói thành thật, nếu mà để đem ra so sánh với rất nhiều lâu đài tôi đã từng thăm trước đó ở nhiều quốc gia Châu Âu, Trakai không thể so bì được, cả về thâm niên, độ hoành tráng cũng như sự tinh hoa nghệ thuật. Tuy nhiên, nếu nhìn vào đất nước Lituania một cách tổng thể, có thể nhận thấy rằng Trakai tuy chỉ có 600 năm tuổi nhưng là một trong số hiếm công trình lịch sử còn sót lại tại một quốc gia chịu nhiều tàn phá của chiến tranh. Có lẽ nhờ sự hiếm có ấy mà Trakai mới có giá trị đến như vậy. 



 Để đến được cổng thành lâu đài, tôi phải đi mem theo ven hồ và qua những con đường làng rất lãng mạn. Cũng nhờ đi qua các con đường này mà tôi có dịp khám phá một nét lịch sử thú vị về một cộng đồng người thiểu số có tên là Karaite. Vào thế kỷ 14 sau CN, quận công Lituania đã chiêu mộ người Karaite phục vụ cho việc phòng thủ lâu đài Trakai.


Sự thú vị ở đây nằm ở nguồn gốc và phong tục tập quán của bộ tộc này. Vào những thế kỷ đầu lúc khai sinh lập địa ra nước Lituania, có rất nhiều mối nguy hiểm đến từ xung quanh, đặc biệt là người tatar (tổ tiên của người Mông Cổ). Quận công Lituania chiêu mộ người Karaite từ bán đảo Crimea (nay thuộc Ukraina). Ông ta tin tưởng vào sự trung thành của họ vì đã từng sát cánh cùng họ trong một số cuộc chiến ở trên lãnh thổ Ukraina ngày nay. Người Karaite có tên gọi như vậy là vì họ theo đạo karaism, một nhánh của đạo do thái và có nguồn gốc từ nước Irak xa xôi. Kính nể sự tin tưởng của nhà vua và cũng do nhu cầu cần tìm một nơi trú chân bền vững lâu dài, rất nhiều người karaite định cư dọc biên giới phía bắc của Lituania với nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. 


Quay lại với lâu đài Trakai, tôi không mất quá nhiều thời gian để thăm hết một vòng bên trong, chắc chỉ hết tầm 1h. Đối với tôi, ấn tượng lớn nhất mà tôi có được là viện bảo tàng lịch sử, nằm ngay trong khuôn viên. Những hiện vật, đặc biệt là các trang phục truyền thống cho phép du khách có mường tượng cụ thể về cuộc sống của người dân Lituania thời trung cổ.  


Hành trình khám phá trên lãnh thổ Lituania của tôi khá ngắn ngủi, chỉ nằm vỏn vẹn trong vòng 3 ngày. Sau khi thăm thủ đô Vilnius, tôi bắt xe quá giang qua thành phố Kaunas rồi tiến thẳng đến nước Latvia láng giềng. Tuy nhiên, do thời gian đi đường cũng như chờ đợi quá lâu, tôi phải tính đến nước ngủ tạm qua đêm tại một thị trấn Siauliai (cách Kaunas 140km về phía bắc) để hôm sau mới vượt biên giới. Tôi chủ ý chọn thị trấn này vì gần đó có một địa danh rất nổi tiếng : Kryziu Kalnas, « ngọn đồi thánh giá » theo tiếng Lituania. 

  
Theo như người dân địa phương nói, những chiếc thánh giá đầu tiên được cắm ở đây từ thế kỷ 14 sau CN. Hàng trăm năm đã trôi qua và biết bao thế hệ đã hành hương từ phương xa đến đây cắm thánh giá để tỏ lòng sùng đạo. Dần dần, ngoài tính chất tôn giáo, Kryziu Kalnas còn trở thành nơi người ta đến cầu nguyện cho sự độc lập của quốc gia sẽ đến một ngày nào đó. Thật vậy, hãy nhìn vào quá khứ hẩm hiu của đất nước Lituania từ thế kỷ 18 là biết liền. Trong vòng 2 thế kỷ, quốc gia này biến mất khỏi bản đồ hành chính thế giới và trở thành lãnh thổ của sa hoàng Nga. 


 Đã có rất nhiều cuộc nổi dậy chống lại sự đô hộ của Nga, đặc biệt là vào cuối thế kỷ 19 và giai đoạn sau thế chiến thứ hai. Quân đội Nga đã thẳng tay đàn áp và giết hại rất nhiều người yêu nước. Để tỏ lòng kính trọng những người con hi sinh vì độc lập tự do, người dân Lituania đến đây cắm thánh giá để tưởng niệm. Truyền thống cứ thế tiếp diễn ngày này qua ngày khác. Ý chí dân tộc cành phát triển mạnh bao nhiêu thì người ta càng đến đây cắm thánh giá bấy nhiêu. Người Nga không ít lần hạ lệnh san bằng tất cả những cây thánh giá nhưng san phẳng thì lại mọc lại. Khi Liên Bang Nga sụp đổ, Lituania chính là một trong những quốc gia hạnh phúc nhất. Kẻ hàng xóm khó chịu đã cút đi, lời cầu nguyện của biết bao thế hệ tại Kryziu Kalnas đã thành hiện thực. Vì thế, nơi đây trở thành biểu tượng của ý chí dân tộc chống lại thế lực ngoại xâm. 


Có thể nói, chỉ khi đặt chân đến đây, tôi mới thực sự thấu hiểu lòng căm thù của người Lituania đối với người Nga, có lẽ cũng không khác gì nhiều so với sự căm ghét của dân tộc Việt Nam với nước Trung Quốc. Chỉ có điều, người Nga có vẻ có nhiều dân tộc căm thù hơn người Trung Quốc. Ngoài Lituania, còn có Estonia, Latvia, Ba Lan, Cộng Hòa Séc, Romania, và còn có thể có một số quốc gia khác nữa. Theo tôi, Kryziu Kalnas là một bằng chứng hùng hồn đưa ra thê giới sự ghê tởm và đáng khinh thường đối với giới chóp bu Nga trong quá khứ. 


Ngày nay, người ta ước tính có tổng cộng 60.000 chiếc thánh giá từ nhỏ đến to, từ 5cm đến 5m, bằng gỗ hay bằng kim loại. Chính nhờ địa danh này mà đất nước Lituania còn được mệnh danh là « xứ sở của những cây thánh giá ». Đi qua cả một rừng cây thánh giá, tôi có cảm giác như đang rơi vào cảnh phim kinh dị với những con ma cà rồng hay người sói. Cảm nhận tổng thể mà tôi có được ở đây chủ yếu thiên về tín ngưỡng nên tôi cũng khó có thể hiểu tại sao người Lituania lại tôn sùng nó như biểu tượng của chủ quyền dân tộc. Có lẽ phải là người sinh ra và lớn lên ở đây thì mới thấu hiểu được điều đó. 

<<<CÒN TIẾP>>>

Monday, 8 October 2012


Nếu như nhìn trên bản đồ, vùng núi Nemrut nằm rất xa vùng Cappadocia và trên lý thuyết không được liệt vào những kỳ quan trực thuộc Cappadocia. Tuy nhiên, hầu như bất cứ công ty du lịch nào cũng bán tour 2 ngày 1 đêm đến đây vì giao thông thuận tiện. Ngay vào sáng hôm sau, tôi đến điểm hẹn với cậu hướng dẫn viên và chúng tôi tiến hành một cuộc viễn chinh về phía đông. Tuyến đường mà chúng tôi đi thuộc hệ thống con đường tơ lụa xưa kia.  Ngày nay, không còn nhiều di tích liên quan đế một thời hoàng kim của con đường huyền thoại này, chỉ còn lại đúng một caravanserai có tên là Karatay, một kiểu trạm dừng chân đặc trưng kiểu Thổ vào những thế kỷ 13-14. Vậy cụ thể caravanserai là gì ? Để giải thích được cái này, nhất thiết phải nói đến lịch sử phát triển của con đường tơ lụa. 


 Không cần đi quá sâu vào chi tiết, con đường tơ lụa là một hệ thống các con đường giao lưu thương mại nối dài suốt từ Châu Á (Trung Quốc, Ấn Độ) thông qua Trung Đông (Irak, Iran, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ, Jordan) để đến vùng Địa Trung Hải. Do Thổ Nhĩ Kỳ nằm ngay chính giữa trung  gian giữa Châu Âu và Châu Á nên hệ thống các con đường thương mại của quốc gia này chiếm vị trí tối quan trọng. Nói là “tơ lụa” nhưng mặt hàng trao đổi giữa Đông và Tây không chỉ có tơ lụa mà còn vô số các mặt hàng khác nữa. Để có thể vận chuyển các mặt hàng xa xỉ từ Trung Quốc xa xôi hàng vạn dặm để đến được Địa Trung Hải là một quãng đường rất dài và các thương nhân nhất thiết phải chia cắt thành nhiều đoạn đường nhỏ để nghỉ ngơi. Nhưng trên những quãng đường nghỉ ngơi đó thì họ gặp biết bao trắc trở và nguy hiểm, không gặp bọn trấn lột cướp bóc thì cũng gặp ốm đau dọc đường. Và đó là lý do vì sao cần phải có một hệ thống các trạm nghỉ ngơi dọc đường kiểu như caravanserail. Hệ thống những trạm nghỉ này phát triển rất phồn thịnh từ thế kỷ 10 sau CN.

 Để đảm bảo sự an toàn cao nhất, các thương nhân đi qua Trung Đông thường đi theo phái đoàn. Thêm nữa, họ luôn vận chuyển bằng lạc đà, một loài vật rất sẵn ở Trung Đông. Trong tiếng ả rập, việc vận chuyển bằng lạc đà được gọi là kervan, chuyển hóa thành tiếng Anh có nghĩa là “caravan”. Như vậy, caravanserailcó thể dịch là nơi tạm chứa lạc đà qua đêm vì bản thân từ serail trong tiếng Thổ là cung điện. Khi mà nhu cầu an ninh trên các tuyến đường tơ lụa ngày càng cao thì việc bảo vệ các caravanserail là việc tất yếu. Do đó, từ chỉ là một nơi dừng chân đơn giản, một số caravanserail được nâng cấp thành một pháo đài thực thụ và hệ thống tường thành phòng thủ khá kiên cố. Và do cả vùng Trung Đông thời trung cổ là các lãnh thổ Hồi giáo nên caravanserail cũng kiêm luôn là nơi cầu nguyện dành cho các thương nhân quá giang.  


Đạo Hồi có ảnh hưởng nhất định đến cấu trúc của một caravanserail. Cấu tạo theo hình vuông, nhất thiết phải có một khu sảnh ngoài trời ngay ở chính giữa, giống như cấu trúc của các nhà thờ Hồi giáo mà ta thường gặp. Thông thường ở giữa sảnh có một giếng nước nhỏ để các tín đồ rửa ráy trước khi vào cầu nguyện nhưng cái này thì ngày nay không còn nữa. Xung quanh sảnh trung tâm là hệ thống các phòng ngủ, kho chứa hàng, nhà tắm. Do vùng Cappadocia có nguồn gốc núi lửa nên các khối đá dùng để xây dựng tường bao bọc caravanserail Karatay cũng được mang từ đó. 


Trên bề mặt tường, có khá nhiều hình ảnh mang tính biểu tượng đặc trưng cho xuất xứ của các thương nhân đã từng đặt chân đến đây. Con voi là biểu tượng cho Trung Quốc và điều đó chứng tỏ thương nhân Trung Quốc đã từng đặt chân đến đây vào khoảng thế kỷ 13-14 


Theo các nhà sử học, xưa kia hệ thống các caravanserail trên lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ dày đặc. Trung bình cứ 40-50km là lại có một trạm caravanserail và các thương nhân phải mất gần một ngày di chuyển bằng lạc đà từ trạm này đến trạm khác. Nhưng khi người Châu Âu tìm ra Châu Mỹ, họ tìm đường những con đường khác có thể đến được Trung Quốc hoặc Ấn Độ. Vì nguyên nhân đó, con đường tơ lụa bằng đường bộ không được trọng dụng nữa và các trạm caravanserail mất đi tầm quan trọng của chúng. Ngay từ thế kỷ 15 sau CN, phần lớn không được sử dụng nữa và rơi vào quên lãng. Karatay là một trong những số ít di sản caravanserail nguyên vẹn nhất, đặc biệt là với chiếc cổng vào đồ sộ và nghệ thuật trạm khắc trên đá rất tinh vi. Caravanserail Karatay xưa kia là một nút giao quan trọng nối trung gian giữa Irak, Iran phía đông và Cappadocia, và tất nhiên khi đến được Cappadocia thì có thể đến được Istanbul hoặc đi sát bờ biển Địa Trung Hải. 

Trên bản đồ Thổ Nhĩ Kỳ, người ta ghi là Karatayhan. Vậy chữ han thêm vào phía sau có nghĩa là gì? Cái này thì lại phải sử dụng lịch sử để giải thích. Một caravanserail bình thường thì chỉ danh cho những người theo đạo Hồi. Trong khi đó, han là hệ thống các gian phòng xây bổ sung thêm bên cạnh caravanserail để đón tiếp những thương nhân không theo đạo Hồi. Chỉ có những caravanserail nằm ở vị trí nút giao quan trọng như Karatay thì mới có thể đạt đến tầm cỡ quốc tể để xây thêm những gian phòng như vậy. Nhìn những gì trơ trọi ngày nay, thật khó có thể tưởng tượng được rằng Kataray trước kia lại là một trung tâm thương mại sầm uất. Rời Karatay, chúng tôi nghỉ qua đêm tại ngôi làng Adiyaman cách đó không xa. 

Ngày hôm sau là một buổi sáng khá bận rộn của tôi vì phải dậy rất sớm để có thể đón bình minh trên đỉnh núi Nemrut và tham quan một di tích khiến cho ngọn núi này trở lên nổi tiếng : lăng tẩm của vua Antichus Theos.


Để lên đến đỉnh núi ở độ cao hơn 2000m, không quá khó cho chúng tôi vì có đường rải nhựa và chỉ việc đi ô tô lên tầm 1900m rồi từ đó đi bộ tầm 30 phút để leo lên đỉnh. Sau 30 phút, chúng tôi lên được đỉnh núi Nemrut vào đúng lúc mặt trời mọc. Những ánh nắng đầu tiên rọi vào quần thế lăng mộ của vua Antichus Theos.


Được công nhận là di sản văn hóa thế giới bởi Unesco, đặc thù của quần thể lăng mộ ở đây là những pho tượng cỡ lớn (tầm 8-9m) được đúc mô phỏng theo khuôn mặt của vua Antichus Theos và những vị thần Hy Lạp cũng như Ba Tư, tất cả được làm vào thế kỷ thứ nhất trước CN. Ngủ quên trong vòng gần 2000 năm, một nhà kiến trúc sư người Đức tình cờ khám phả ra địa danh này vào cuối thế kỷ 19 khi đang thực hiện nhiệm vụ mở đường giao thông. Và thế là những bí mật đằng sau các pho tượng khổng lồ được đưa ra ánh sáng vào giữa thế kỷ 20. 


 Theo các nhà khảo cổ học, vị vua Antichus là vua của xứ Commagene, một vương quốc chư hầu của đế chế La Mã. Vì chịu nhiều ảnh hưởng của nền văn hóa Hy Lạp cổ đại, tất cả các vị vua của xứ này sau khi chết đều được tôn làm thần thánh. Đó là lý do vì sao lại có tượng của vua Antichus được xếp ngang hàng với các vị thần khác (thần mặt trời, thần zớt, thần chiến tranh…). 


Vương quốc Commagene xưa kia là một vùng đất màu mỡ do có một nhánh của con sông Euphrate chảy qua (con sông chính bắt nguồn từ bên Irak). Nhưng những gì còn lại 2000 năm sau đó chỉ là một vùng đất cằn cỗi với ánh nắng trói trang. Nguồn nước gần nhất cũng cách đây tầm 40km và đó là một công trình đập thủy điện Ataturk. Con sông Euphrate đã được chỉnh phủ Thổ khống chế và quy hoạch. Tại đây, không còn nước, chỉ còn lại những thảo nguyên khô cằn và lác đác vài đàn dê gầy rơ xương. 


Trong quá trình đi ôtô xuống núi, tôi thăm được một số di tích lịch sử khá thú vị cho phép tôi hiểu rộng hơn về đế chế La Mã. Thật vậy, tôi luôn biết rằng biên giới La Mã xưa kia thật là rộng lớn với rất nhiều đòn lính cũng như thị trấn được xây dựng ở những biên cương xa xôi, nơi tận cùng của đế chế. Nếu như ở bên Syria tôi được biết đến thành phố Palmyre thì ở Thổ Nhĩ Kỳ, tôi được biết đến đỉnh núi Nemrut. Tại đây, tôi bắt gặp một cột đá với tượng một con đại bàng nằm trên đỉnh, có tên latinh là Karakus Tumulus

bộ phim này miêu tả rất rõ tầm quan trọng của việc giữ được con đại bàng bằng vàng, được coi như lá cờ của mỗi một quân đoàn lê dương La Mã và cũng là uy quyền của Rome
 Đây đích thực là di sản 100% La Mã. Đại bàng là biểu tượng của chiến thắng cũng như quyền lực quân sự của người La Mã. Chỉ cần xem các bộ phim Holywood như « The 9th legion », « the centurion » hay « Eagle » cũng đủ thấy tầm cuan trọng của sự có mặt của con chim linh thiêng này. Nó được cắm ở đâu tức là Rome có mặt ở đó. Như vậy, có thể nói rằng vương quốc Commagene với tư cách là chư hầu của đế chế La Mã đã chịu ít nhiều ảnh hưởng văn hóa và kiến trúc của nền văn minh này. Đến được đỉnh núi Nemrut, tôi có một cảm giác rất khó tả, cảm giác của một số hiếm người may mắn tham quan được cái gọi là biên giới tận cùng của nền văn minh La Mã. Rời núi Nemrut, chúng tôi chuyển hướng về phía tây để hướng tới một địa danh cũng thuộc dạng sừng sỏ về thâm niên lịch sử : Harran. Nếu như nhìn lại hành trình suốt từ đầu đến giờ, tôi thấy có một điểm rât thú vị : tôi có cảm giác như càng đi về sau thì tôi càng đi ngược lại chiều kim đồng hồ của lịch sử. Nếu như vùng Cappadocia chủ yếu liên quan đến thế kỷ 10-13 thì núi Nemrut liên quan đến thời kỳ La Mã. Và đến Harran, tôi quay ngược hẳn đến năm 2000 trước CN! Vậy địa danh Harran vào thời điểm ấy hình thù giống cái gì? 


Đây là một trong những thị trấn thương mại phát triển sớm nhất trong lịch sử con người tại vùng Trung Đông. Có thể nói là xấp xỉ nền văn minh Ai Cập. Nhiều người còn cho rằng Harran chính là nơi Abraham (một nhân vật trong truyền thuyết kinh thánh Do Thái và là ông tổ của dân tộc Israel) sinh sống trước khi di chuyển lập nghiệp ở lãnh thổ Israel bây giờ. Theo tiếng Syria cổ, Harran có xuất xứ từ harranu có nghĩa là “con đường”, có vẻ như tương ứng với vị trí địa lý của nó bởi Harran nằm trên trục đường dẫn từ xứ sở Ba Tư sang Thổ Nhĩ Kỳ. Harran ngay từ thế kỷ 16 trước CN đã là thủ đô của một vương quốc hùng mạnh và là đối thủ đáng gờm của nền văn minh Ai Cập nhưng sau đó thì suy yếu và rơi vào tay nhiều vương quốc có thế lực xung quanh. 


Xung quanh thị trấn Harran nguyên thủy là hệ thống tường thành phòng thủ với tổng chiều dài khoảng 4km và cao khoảng 12m. Điều này cho thấy rằng xưa kia Harran phải có một tầm quan trọng như thế nào thì mới phải xây hệ thống tường thành như vậy. Những cuộc khai quật gần đây cho thấy Harran được quy hoạch theo kiểu hình ê-líp với 6 cổng thành và tường thành được xây bằng đá. Và  có thêm cả một hệ thống kênh hào phòng thủ xung quanh nữa. Đó là câu chuyện của cách đây vài ngàn năm. 


Đến thế kỷ 12 sau CN, một số tài liệu do các thương nhân ảrập kể lại rằng Harran cũng như môi trường xung quanh vẫn là cả một lưu vực màu mỡ, nhiều cây cối xanh tươi và hệ thống kênh ngạch chằng chịt. Nhưng hạn hán liên miên đã làm thay đổi mọi thứ. Ngày nay, khí hậu khô cằn của vùng Trung Đông đã làm cho nguồn nước dồi dào xưa kia biến mất, cỏ cây xanh tươi không còn nữa mà thay vào đó là một vùng đất cằn cỗi. Trong số 4km tường thành thì chỉ còn lại 1km ở tình trạng phế tích. 


Khi mà người Ảrập tiến hành cuộc chinh phạt truyền bá đạo Hồi vào thế kỷ thứ 7 sau CN, Harran nằm trong số những nạn nhân đầu tiên. Các nhà sử học cho rằng nhà thờ Hồi giáo ở đây có thể là công trình sớm nhất trong lịch sử Trung Đông, được xây dựng vào thế kỷ 8 sau CN. Và thậm chí, những giả thuyết gần nhất còn khẳng định rằng đây là nơi có trường đại học Hồi giáo đầu tiên trên thế giới. Vào giai đoạn thế kỷ 9-12 sau CN, Harran là trung tâm nghiên cứu đạo Hồi cũng như khoa học lớn nhất Trung Đông. Thế nhưng cuộc chinh phạt của người Mông Cổ vào thế kỷ 13 dưới thời Thành Cát Tư Hãn đã hủy diệt tất cả những gì nằm trên đườn chúng đi qua, trong đó có Harran. Phần lớn các công trình kiến trúc bị phá sập và trường đại học Hồi giáo cũng như nhà thờ Hồi giáo chịu chung số phận. 


Trên phương diện kiến trúc, Harran ngày nay nổi tiếng với các ngôi nhà hình nón xây từ đất nung và rơm. Tất cả đều được xây vào đầu thế kỷ 19 sau CN, trên nền móng là những phế tích của Harran nguyên thủy 4000 năm trước. 


Ngày nay thì không còn nhiều người sinh sống trong những ngôi nhà này nữa, họ cho xây những căn nhà cấp bốn theo chiều hướng hiện đại và được lắp đặt hệ thống điện nước. Cá nhân tôi thì thấy mấy ngôi nhà đó cực xấu, làm mất cảnh quan chung của Harran những cũng hiểu rằng người dân cần điện nước như một nhu cầu tất yếu của cuộc sống.



 Thêm nữa, việc ở lại trong những ngôi nhà hình nón truyền thống không phải là dễ dàng vì chi phí trùng tu sửa chữa theo đúng cách truyền thống rất đắt đỏ. Đâu phải ai cũng có thể tìm được đất nung trộn với rơm để lấp các vết nứt lỗ hổng. Dùng mái lợp tôn và xi măng thì vừa rẻ lại vừa sẵn, tội gì không xây một ngôi nhà mới cho xong việc. Tình trạng này thì phổ biến ở nhiều nơi tôi đến, ở Marốc, Ai Cập hay chính làng cổ Đường Lâm hay Cự Đà ở Việt Nam.


Rời xa thị trấn Harran, tôi tiếp tục hành trình đi ngược thời gian với việc khám phá thị trấn Sanliurfa, cách Harran tầm 50km. Người địa phương thì chỉ gọi tắt là Urfa và trong thời kỳ thập tự chinh thế kỷ 12 sau CN, nó còn có tên là Edessa, một trong 4 vương quốc thiên chúa giáo ngay giữa lòng Trung Đông đầy ắp Hồi giáo. Nhưng hãy trở về lâu hơn, ở thời điểm 2000 năm trước CN, Sanliurfa được cho là nơi sinh ra của Abraham, ông tổ của dân tộc Do Thái theo truyền thuyết kinh thánh của họ. Truyền thuyết kể rằng có một vị thần tên là Nemrod mơ thấy một ngày nào đó mình sẽ bị lật đổ bởi một nhà tiên tri sắp sửa sinh ra. Hoảng sợ, vị thần này truy tìm và tiêu diệt tất cả các phụ nữ đang mang thai hoặc những tràng trai trẻ. Người mẹ đẻ của Abraham cất giấu con trai trong một cái hang và nuôi dưỡng ở trong đó trong một thời gian dài. Khi trưởng thành, Abraham tiến hành một cuộc âm mưu lật đổ Nemrod nhưng không thành công và bị ném từ trên vực thẳm. Và để chắc ăn, Nemrod còn chuẩn bị cả lửa và gỗ ở dưới đó để khi Abraham ngã xuống thì sẽ bị đốt thiêu rụi. Nhưng lạ thay, thượng đế đã cứu sống ông, biến lửa thành nước suối và gỗ thành cá. Điều đó lý giải tại sao ngày nay tại Sanliurfa có một con sông chảy uốn khúc quanh cái động được cho là nơi sinh ra Abraham. Và thêm nữa, có rất nhiều cá chép ở dưới sông. 


Trước năm 1963, thị trấn chỉ có tên Urfa. Nhưng sau đó, người Thổ bổ sung thêm chữ Sanli, trong tiếng Thổ có nghĩa là “huy hoàng”. Sanliufa được cho là nơi cực kỳ linh thiêng bởi những truyền thuyết nói trên và trở thành một trong những địa danh hành hương nổi tiếng nhất Trung Đông. Một điểm khá thú vị mà tôi nhận thấy là xuyên suốt các giai đoạn lịch sử, Sanliurfa luôn là một địa danh được sùng bái bởi cả 3 tôn giáo : Do Thái, Thiên Chúa và Hồi. Nếu như đây là vùng đất sinh ra ông tổ của đạo Do Thái, nó cũng là nơi sinh sống của những cộng đồng Thiên Chúa giáo đầu tiên dưới thời La Mã và cuối cùng đây là một địa phận quan trọng của Hồi giáo sau khi ngưởi ảrập xâm chiếm thị trấn năm 639. 


Ngày nay, mặc dù thị trấn Saniurfa nói riêng và Thổ Nhĩ Kỳ nói chung là vùng đất Hồi giáo, không ai có thể phủ nhận đây là  vùng đất của lòng tin tôn giáo, không phân biệt đó là đạo gì. Kể từ năm 2007, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ kết hợp với trường đại học Havard của Mỹ để xay dựng một hành trình hành hương dành cho những ai sùng bái Abraham (chủ yếu là người Thiên chúa giáo và Do Thái). Hành trình này đi từ Harran, qua Sanliurfa, qua biên giới Syria để đến Alep, Damascus, qua biên giới Jordan để đến Amman rồi đâm xuống Israel để tiến thẳng đến Jerusalem. Người ta đặt cho nó cái tên “hành trình của Abraham” bới nó mô phỏng đúng theo các bước đi trong suốt cuộc đời của ông. 


Rời Sanliurfa, chúng tôi quay trở về Goreme và kết thúc hành trình quay ngược chiều kim đồng hồ lịch sử. Và khi đến Goreme rồi cũng đồng nghĩa với việc kết thúc hành trình khám phá vùng Cappadocia của tôi. Chính nhờ những kiến thức rất phong phú tích lũy được trong chuyến đi này mà tôi đã có những nền tảng vững chắc để tìm hiểu sâu hơn lịch sử con đường tơ lụa cũng như các giai đoạn lịch  sử khác (La Mã, thập tự chinh) tại các quốc gia lân cận như Syria, Jordan, Ai Cập. Hơn một tuần ở Cappadocia là một phân khúc trong chuyến đi phượt hơn một tháng của tôi ở Trung Đông. Sau khi trở về Goreme, tôi bắt một chuyến xe ô tô liên tuyến để vượt biên giới sang đất nước Syria với những ngạc nhiên mới.

Có thể các bạn sẽ hỏi tại sao lại làm một lèo cả 4 quốc gia Trung Đông (Thổ Nhĩ Kỳ, Syria, Jordan, Ai Cập)? Bởi vì đó là phong cách du lịch của tôi. Đối với tôi, để tìm hiểu một cách đúng mực một quốc gia nào đó thì phải so sánh quan hệ của nó với môi trường xung quanh. Hiểu Thổ Nhĩ Kỳ thì phải hiểu cả quan hệ của đất nước này với Syria hay các quốc gia khác trên phương diện lịch sử. Cả 4 quốc gia kể trên đều là những vùng đất cực kỳ quan trọng trong lịch sử phát triển của loài người ở Trung Đông. Hiểu được cả một khối như thế là chìa khóa giúp ta hiểu cả Trung Đông, một vùng đất theo tôi là chịu nhiều thiệt thòi về mặt hình ảnh bời những xung đột liên miên về chính trị trong suốt thế kỷ qua. Tôi quyết định xẻ dọc Trung Đông đê minh chứng cho một điều mà tôi luôn tâm niệm : không có quốc gia nào xấu hay tốt. Tất cả chỉ là do cách sắp đặt hay nhìn nhận ở một khía cạnh nào đó. Hệ thống truyền thông như tivi, báo và đặc biệt là dưới con mắt của phương Tây đã phần nào làm biến dạng bộ mặt thật của Trung Đông. Và để tìm ra được bộ mặt thật đó, tôi vác balô đi thẳng vảo cái được gọi là hang ổ của đạo Hồi. Tôi tự kiểm điểm bản thân đã có những thành kiến không tốt về các quốc gia đạo Hồi nhưng chuyến đi này đã giúp tôi hiểu rõ hơn về đạo này và từ đó trở nên vị tha hơn đối với nhiều phong tục tập quán được cho là ấu trĩ, bảo thủ  và bạo lực.

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống