Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Wednesday, 23 January 2013

Hồ Thủy Quái nằm sau khu rừng thông xanh rì trên đường vào Khu du lịch Suối Vàng; xung quanh là nhiều nhà lồng trồng đủ các loại hoa của làng hoa Vạn Thành; ven hồ là các loại cây trái đang bắt đầu bám rễ, tạo tán...).

Đi câu cá ở hồ Thuỷ Quái làm người ta thích thú không hẳn bởi cái tên hồ “quái’, mà còn bởi quy định “quái”, phong cách “quái” và cả... những ông chủ “quái”.
Cái biển hiệu chỉ đường dựng bằng một cột đá, đứng tưng tửng bên đường dễ làm người ta bỏ qua, nhưng khi nhìn thấy nó rồi lại không chống nổi sự tò mò.

Băng qua lối mòn nguyên thuỷ qua rừng thông thảm đầy những chiếc lá hình kim mượt mà, với những phướn chào mời, quảng cáo về Tập đoàn Liên Minh tạo cho người lạ chút cảm giác... lạc đường. Nhưng chiếc cổng vào hồ câu cá với lời mời gọi chân tình, nồng nhiệt sẽ hối thúc bước chân bạn hơn với những điều “quái” dần hiện...

“Cần thủ sẽ được thưởng xe SH nếu câu đủ 1.000 điểm (tương đương 1.000 giờ) và xe Toyota Vios nếu câu đủ 10 ngàn giờ đầu tiên”. Thông thường, người đi câu phải trả tiền cá (tượng trưng) cho số cá họ câu được, nhưng ở hồ Thủy Quái có “Chính sách tự nguyện trích thưởng cho các cần thủ”. Theo đó, khách được làm chủ những chú cá có trọng lượng từ 1-5kg do mình câu được. Cá bé dưới 1kg phải trả lại hồ. Cá trên 5kg cũng không được mang về, nhưng có thưởng tuỳ vào số cân nặng.

Hồ Thủy Quái là ý tưởng của các ông chủ trẻ lãnh đạo Tập đoàn Liên Minh, với tiêu chí là nơi thư giãn, giải trí sau những giờ làm việc bàn giấy, với những con số và các sự kiện. Các ông chủ trẻ cũng thường xuyên mời nhà đầu tư, chủ các doanh nghiệp đối tác đến thưởng thức cái vẻ hoang sơ, nhưng chẳng thiếu phần lãng mạn là câu cá, ngắm hoa, cắm trại dưới tán rừng thông, thưởng thức các món ăn giản dị: dưa, cà, rau, cá... Nhưng cũng bởi cái thú giải trí dân dã, mà hồ này thu hút khá nhiều cần thủ đủ mọi lứa tuổi, mọi giới.

Chủ nhật và các ngày lễ, có lẽ hồ Thủy Quái đông hơn bình thường, bởi cứ như hẹn trước, các ông chủ của Tập đoàn Liên Minh đều có mặt ở đây trò chuyện, hướng dẫn và vui đùa cùng khách, sẵn sàng sà xuống gỡ dây, bắt mồi, kể cả đào giun làm mồi câu cho khách...

Trong số những ông chủ của hồ Thủy Quái, Ngô Quang Phúc được cho là “quái” nhất, bởi cái vẻ ngoài lãng tử với mái tóc đuôi gà, khăn choàng, áo bành tô, giày tây... lịch lãm không lẫn được. Ông chủ Phúc vài năm nữa mới đến tuổi 40, đã gây dựng kinh doanh ở Đà Lạt nhiều năm rồi mà vẫn chưa thôi tha thiết với khung cảnh xứ núi: “Đà Lạt đẹp lắm chị ơi! Chỗ nào càng hoang sơ, nó càng đẹp. Chị hãy nhìn những bụi cỏ sậy bên hồ nước kia, những bông hoa dại kia... Chị đã bao giờ ngắm trăng khuya ở hồ Xuân Hương chưa? Trăng lung linh trên trời. Trăng long lanh dưới nước. Trăng lấp ló trong những tán thông... Đẹp lắm...!”.

< Thành quả thu được sau buổi câu thú vị.

Khung cảnh ở hồ Thủy Quái dễ làm người ta quên lãng những bản thu chi tính toán lời lỗ của thương trường: Nếu không nín thở hồi hộp dõi theo mồi câu đang lay động, hoặc vỡ oà mừng reo sung sướng vì một chú cá đã cắn câu; thì cũng có thể thả bước qua những vườn hoa hồng, cẩm chướng, đồng tiền... lúc nào cũng rực rỡ; lại có thể trêu trọc vài chú khỉ, hay nấn ná xem con trăn khổng lồ và lười biếng kia bao lâu mới duỗi mình, chớp mắt...; hoặc thong dong xem chơi các bài thơ ngẫu hứng của chủ nhân nhân lúc thăm thú các mồi câu của mình; hay chỉ đơn giản là thả hồn theo tiếng chim hót, ngắm nhìn khoảng rừng thông bao quanh hồ như che chắn, giữ gìn một không gian thật yên bình, thanh thản và “quái” ở nơi này.

Du lịch, GO! - Theo Lâm Đồng Online, Lien Minh Group

Tuesday, 22 January 2013

Tây An cổ tự tọa lạc tại ngã ba, bên chân núi Sam, thuộc phường Núi Sam, TX.Châu Đốc (An Giang). Đây là một ngôi chùa có lối kiến trúc khá độc đáo, kết hợp hài hòa hai dòng văn hóa Việt-Chăm, được Bộ Văn hóa xếp hạng là "di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia” từ năm 1980.

Khai hoang lập chùa

Sự ra đời của ngôi chùa mang dấu ấn về chính sách văn hóa của triều Nguyễn “khai hoang lập chùa”. Đây cũng là nơi gắn với hành trạng của người sáng lập Bửu Sơn Kỳ hương, do đó dân gian thường gọi ông Đoàn Minh Huyên là Phật thầy Tây An.

Trong kế hoạch khai hoang lập đồn điền và các chính sách an dân, các quan nhà Nguyễn đã có sự thỏa thuận với hòa thượng các tông phái Phật giáo, đồn điền lập đến đâu thì xây cất chùa chiền đến đó để lo đời sống tinh thần, giúp dân an cư lạc nghiệp. Dường như chùa Tây An ở núi Sam (TX.Châu Đốc, tỉnh An Giang) ra đời nhằm thực hiện nhất quán chủ trương này.

Lịch sử khai sơn Tây An tự bắt đầu từ quan Tổng đốc An Hà Doãn Uẩn. Doãn Uẩn (1795-1850) là một danh thần thời Nguyễn, phụng sự ba đời vua liên tiếp: Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Sinh thời, ông là một trong những trụ cột của triều đình, trấn giữ vùng biên cương tây nam, suốt những năm trị vì của vua Thiệu Trị. Ông từng giữ chức Lang trung bộ Hộ, Tham tri bộ Hộ và Án sát Vĩnh Long. Tham gia trấn áp các cuộc nổi dậy và chống ngoại xâm cũng như các chính sách hòa hợp dân tộc. Công trạng của ông được vua Tự Đức cho khắc bia ghi chiến tích, đặt tại Võ miếu.

Vào năm 1842, quân Xiêm lại đem quân xâm lấn biên cương nước ta. Triều đình sai Doãn Uẩn cùng các quan Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Hoàng… đem quân đánh dẹp. Năm 1845, quan quân triều đình đã chiếm lại được Hà Tiên và sau trận này Doãn Uẩn được phong làm Tổng đốc Mưu lược tướng, kiêm lý khu vực An Hà (An Giang và Hà Tiên). Trong thời gian kiêm lý An Hà từ 1845 đến 1848, ông đã chủ trì tu sửa và xây mới nhiều chùa chiền trong vùng, trong đó có chùa Tây An. Ngày 21 tháng 11 âm lịch năm Kỷ Dậu (1850), ông bệnh mất tại An Giang và được truy tặng hàm Hiệp biện Đại học sĩ. Bài vị của ông được vua cho đặt ở đền Hiền Lương cùng với các danh thần nhà Nguyễn khác.

Khi ngôi chùa xây dựng xong, Tổng đốc Doãn Uẩn cho mời hòa thượng Tiên Giác - Hải Tịnh thuộc đời thứ 37, Lâm Tế chánh tông chi phái Thiên khai về trụ trì. Hòa thượng Tiên Giác - Hải Tịnh là người từng được vua triệu về làm Tăng cang chùa Thiên Mụ (Huế), được thưởng kim tiền và được lễ bộ cấp giới đao độ điệp (ý nghĩa cho phép thu nhận đệ tử). Mấy mươi năm học hỏi của các tự viện chốn thần kinh, trở về Nam năm 1841, ông là vị cao tăng đầu tiên tổ chức an cư kiết hạ tại tổ đình Giác Lâm và nhiều khóa tại các chùa sắc tứ Từ Ân, Hội Phước (Sa Đéc), Phước Hưng (Sa Đéc). Ông cũng là người thiết lập được nhiều giới đàn. Mỗi giới đàn thường có 3 đàn truyền giới cho tăng, ni... Do đó ông có rất đông đệ tử khắp các tỉnh Nam kỳ. Việc hòa thượng Tiên Giác - Hải Tịnh trụ trì Tây An tự dù chỉ trên danh nghĩa (vì lúc này hòa thượng đang trụ trì tổ đình Giác Lâm) đã làm tăng thêm uy tín ngôi chùa mới lập.

Tưởng nhớ công lao của người sáng lập, Thượng tọa Thích Thiện Thống, trụ trì chùa, cho biết Tây An cổ tự đang tiến hành thủ tục để xây nhà tưởng niệm Tổng đốc An Hà Doãn Uẩn, đồng thời đã trao đổi với gia đình cháu trực hệ của Tổng đốc, thống nhất đưa một số di vật do gia đình còn lưu giữ về trưng bày ở nhà tưởng niệm. Việc làm này tuy có hơi muộn nhưng sẽ góp phần tôn giá trị lịch sử văn hóa của ngôi chùa.

Lối kiến trúc độc đáo

Lịch sử Tây An cổ tự còn gắn liền với hành trạng của Đức Phật thầy Tây An, người sáng lập đạo Bửu Sơn Kỳ hương. Cố học giả Nguyễn Văn Hầu trong Thất Sơn mầu nhiệm cho biết, Đức Phật thầy chính danh là Đoàn Văn Huyên, sinh năm Đinh Mão (1807), tức năm Gia Long thứ 6. Ông quê ở làng Tòng Sơn, tổng An Thạnh Thượng, tỉnh Sa Đéc. Căn cứ những ghi chép của tác giả, hành trạng của Đức Phật thầy có nhiều huyền tích như việc bỏ nhà ra đi từ lúc tuổi còn nhỏ; chuyện ông một mình kéo cây da bị trốc gốc che chắn lòng sông, chặt sậy, làm cỏ, đêm đến lại quét lá da để nấu nước uống, hay chuyện trừ bệnh dịch cứu dân lành…

Duyên nghiệp của Đức Phật thầy với Tây An tự, theo Thượng tọa Thích Thiện Thống thì sau khi ông Đoàn Văn Huyên quy tập tín đồ thành lập Bửu Sơn Kỳ hương tại cốc Ông Kiến ở Chợ Mới, chính quyền sở tại nghi ngờ ông tập hợp lực lượng chống đối lại triều đình nên “mời ông về” giam ở Châu Đốc 3 tháng, sau đó buộc ông “muốn tu thì đến chùa Tây An mà tu hành”. Chùa Tây An giai đoạn này do ngài Minh Khiêm Hoàng Ân (thế hệ 38 Lâm Tế chánh tông) - đệ tử của hòa thượng Tiên Giác Hải Tịnh trụ trì. Song do mối quan hệ mang tính nguyên tắc, ông Huyên chỉ đồng ý thỉnh hòa thượng Tiên Giác đến làm lễ xuất gia cho ông và đặt pháp danh là Minh Huyên, pháp hiệu là Pháp Tạng…

Do xuất gia bất đắc dĩ nên dù ở chùa Tây An nhưng Đoàn Minh Huyên vẫn tìm cách trở về các trại ruộng, tiếp tục tập hợp tín đồ xiển dương Bửu Sơn Kỳ hương. Thời gian này ông đã xây các ngôi chùa Thới Hưng, Thới Sơn… và mở mang trại ruộng cho tín đồ. Khoảng 7 năm sau đó ông qua đời, nhưng vì “lý do an ninh” chính quyền sở tại đã không cho các đệ tử của ông chôn cất ở vùng trại ruộng mà buộc phải di về chùa Tây An an táng. Hiện ngôi mộ của Đức Phật thầy tọa lạc bên phải, phía sau ngôi cổ tự này, tín đồ Bửu Sơn Kỳ hương cũng đã xây dựng một long đình phía sau ngôi mộ để tăng thêm vẻ tôn nghiêm.

Tây An tự tọa lạc trên nền cao, thoáng rộng, khuôn viên chùa có diện tích hơn 1,5 ha. Điểm nhấn ấn tượng nhất của chùa là 3 ngôi cổ lầu nóc tròn hình củ hành, một mô típ kiến trúc có dáng dấp Ấn Độ lại có bố cục hài hòa với lối kiến trúc chữ tam theo mô típ chùa Việt ở Nam bộ. Thượng tọa Thích Thiện Tống cho biết, khoảng năm 1861, chùa Tây An được trùng tu lại chính điện và hậu tổ. Đây là lần trùng tu xưa nhất, kiến trúc hiện còn lưu giữ. Về sau, người có công đại trùng tu Tây An cổ tự là hòa thượng Bửu Thọ, thế danh Nguyễn Thế Mật. Phong cách mang dáng dấp Ấn Độ có lẽ là do ý tưởng của hòa thượng. Cuộc đại trùng tu này được thực hiện vào năm 1958.

Du lịch, GO! - Theo Ngọc Phan - Hoàng Phương (Thanhnien), ảnh internet
Muốn thăm “biển miệt vườn” để bình yên ngắm mây trời, thong thả dạo bước, lắng nghe từng hạt cát mịn êm chảy qua chân và ngó biển sinh sôi, coi “nhà vườn” nuôi trồng trên biển, xin mời về đây: biển Gò Công.

Nếu định đến tắm biển Tân Thành (thuộc huyện Gò Công Đông- Tiền Giang), bạn hẳn sẽ thất vọng, vì bãi biển… đen thui. Nhưng đây thật sự là một trong những bãi biển cát đen đẹp nhất Việt Nam. Khi bạn đặt chân xuống cát, sẽ cảm nhận được lớp cát mềm mịn êm nhung, và cứ vậy… đi hoài ra phía biển giăng giăng sóng bạc.

Bãi biển Gò Công không thoai thoải mà phẳng như mặt ao, kéo dài ra hàng cây số. Bạn cứ việc tung tăng đi trên cát, vọc cát, vọc nước và ngơ ngẩn ngó những chòi canh nghêu chênh vênh giữa biển trời.
Đứng chờ hồi lâu mới làm quen được với anh Nguyễn Thanh Danh đang bận rộn nói chuyện điện thoại về giá nghêu, giờ giao nghêu… Anh vui vẻ cho biết: Cũng được lắm. Nghêu năm nay không bị bệnh hoạn như năm trước, hiện giá nghêu từ 30.000- 34.000 đ/kg loại 30- 40 con/kg.

Nếu tính trung bình nuôi đạt 15– 20 tấn/ha, thì người nuôi có thể lời tới vài trăm triệu đồng/ha. Nhắc lại “chuyện xưa”, anh Danh nói, hồi trước giờ tự nhiên đã có con nghêu sinh sống ở biển Tân Thành này rồi. Nghêu Gò Công nổi tiếng ngọt, mềm lại thơm. Nhưng hồi đó giá nghêu cũng bấp bênh, chỉ vài ba ngàn đồng một ký, là món ăn “con nhà nghèo” nấu canh giá hẹ.

Chỉ từ khi nghêu được bước vào thị trường xuất khẩu thì giá nghêu mới tăng vùn vụt, lên tới vài chục ngàn đồng một ký như bây giờ và người khá giả mới dám ăn nghêu. Cũng từ đó, dân miệt biển Gò Công mới nghĩ đến chuyện nuôi nghêu- để trở thành một trong những nơi có nghề nuôi nghêu sớm nhất.

Vùng ven biển miền Tây ít sóng gió, đáy cát pha bùn, nhiều thức ăn, nên từ Tiền Giang qua Bến Tre đến Sóc Trăng, Cà Mau… đều là nơi nghêu ưa trú ngụ. Một trong những vùng nuôi nghêu lớn nhất và có sản lượng cao nhất phải kể đến biển Gò Công Đông của Tiền Giang.

Ở đây, nhiều người dân coi “con nghêu là đầu cơ nghiệp”, nổi tiếng với “kiện tướng nuôi nghêu” Trần Văn Chỉ với sân nghêu hàng vài hecta, hay “vua nghêu giống” Trần Văn Vinh thành công trong sinh sản nhân tạo nghêu, cung cấp cả tỷ con nghêu giống mỗi năm.

Theo số liệu chúng tôi có được, huyện Gò Công Đông hiện có trên 2.000ha biển nuôi nghêu, trong đó, có 350ha là bãi sinh nghêu giống tự nhiên tập trung tại xã Tân Thành, ven vàm Cửa Tiểu. Hàng năm cung ứng trên 20.000 tấn nghêu cho thị trường.

Theo anh Danh, nuôi nghêu cực kỳ đơn giản. Chỉ cần mua nghêu giống về thả xuống bãi biển vào khoảng tháng 4 rồi thu hoạch vào cuối năm sau. Nghêu “nhướng” nhỏ xíu xiu, tới cả ngàn con/kg, nuôi năm rưỡi, đạt thương phẩm 30- 40 con/kg.

Biển Tân Thành có nguồn thức ăn trời cho, người nuôi nghêu chẳng tốn đồng thức ăn nào (lẽ ra phải gọi là người giữ nghêu mới đúng), chi phí tốn kém nhất là mua nghêu giống, giăng lưới, cất chòi, thuê người giữ nghêu… Cứ vậy mà trời biển nuôi dùm.

< Nghêu giống.

Nói vậy, chứ hiện nay nghề nuôi nghêu cũng lắm khó khăn. Chú Lê Văn Tấn- cũng là người dân tại đây cho biết: giá giống tăng cao, nghêu bệnh chết nhiều, vài năm gần đây, cứ khoảng tháng Chạp đến tháng 3 năm sau, nghêu thường chết hàng loạt mà chưa rõ nguyên nhân, có hộ trắng tay.

Người nuôi thì cho là do ô nhiễm nguồn nước. Biển Gò Công Đông thật sự là biển của làm ăn. Với gần 12.000km2 mặt biển, đây là ngư trường giàu tôm cá, thuận lợi nuôi trồng thủy- hải sản có giá trị cao như nghêu, sò huyết, tôm sú, tôm thẻ,…

Chú Tấn cho biết, hàng ngày chú tranh thủ thả vài trăm mét lưới đánh cá ven bờ, cứ một hai ngày là được vài ba con cá chét hoặc cá chẽm cỡ 3- 4 kg/con. Hiện giá cá chét tươi tại đây từ 150.000- 200.000 đ/kg, còn khô cá chét không dưới 500.000 đ/kg. Cá chẽm rẻ hơn nhưng cũng từ 80.000- 120.000 đ/kg.

Hai mẹ con chị Nhan đang đi thong thả trên bãi biển, tay cắp chiếc rổ nhỏ, trông cứ tưởng như đi chơi, nhưng thật ra là đang đi bắt con móng tay. “Đồ nghề” của mẹ con chị rất đơn giản, chỉ là một que tăm tre dài chừng 20cm, thêm một bịt vôi ăn trầu nhỏ xíu.

Vừa đi vừa giậm giậm chân, thấy chút bọt khí nổi lên là biết hang của móng tay, chấm khẽ chút vôi, chỉ vài giây sau, móng tay từ trong cát trồi lên. Chị Nhan nói ngày nào cũng đi bắt từ sáng khi nước ròng cho tới trưa nước lớn ngập bãi, cũng được 1- 2kg. Móng tay ăn ngon, thịt mềm, ngọt, nhưng giá khá mềm, chỉ 50.000 đ/kg.

< Du khách thích thú chạy chân trần trên bãi cát đen.

Biển Gò Công còn có món ăn đặc biệt đãi khách phương xa là con sam. Nếu từng nghe chuyện cổ tích về đôi vợ chồng sam gắn bó không rời, thì bạn rất dễ… thất vọng, vì hình dáng con sam rất xấu.

Thân có mai to đầy gai góc, màu xanh xám xịt và chiếc đuôi dài nhọn hoắt. Sam mùa này được cho là đầy trứng béo bùi, giá chỉ 10.000 đ/con. Nhưng nghe đâu con sam cũng có chất cực độc như cá nóc nếu làm không khéo, nên chuyện mua bán sam để ăn cũng cần được xem xét kỹ ở các điểm du lịch.

Từ Mỹ Tho, trên Quốc lộ 1, rẽ vào Quốc lộ 50 chừng 50km là tới Gò Công và đi thêm hơn chục cây số nữa để tới biển Tân Thành. Không chỉ có “biển một bên và… nghêu một bên” làm mềm lòng du khách, Gò Công còn là vùng đất của rất nhiều di tích lịch sử.

< Những con ốc nhỏ bám đầy trên các cọc gỗ và đầy bãi biển Gò Công.

Đây là vùng đất đã sinh ra 2 bậc mẫu nghi thiên hạ là Hoàng Thái hậu Từ Dũ và Hoàng hậu Nam Phương. Đồng thời đây cũng là quê hương của các anh hùng dân tộc Trương Định, Võ Tánh. Chúng tôi hẹn sẽ cùng bạn trở lại Gò Công với các di tích lịch sử của chốn này.

Con đường từ Sài Gòn đi Gò Công dài khoảng 60 km, qua bắc Mỹ Lợi (ngày xưa gọi bắc Cầu Nổi). Từ thị xã Gò Công, vượt thêm 16 km nữa để tới Tân Thành. Đây là đoạn đường hấp dẫn đối với bất cứ du khách nào.

Đầu tiên là bạn sẽ có dịp ghé thăm Khu di tích Lăng Hoàng Gia rộng khoảng 4.000 m2, với nhà thờ và mộ Phạm Đăng Hưng - thân sinh bà Nguyễn Thị Hằng (Hoàng thái hậu Từ Dụ, mẹ vua Tự Đức). Kế đó là xã Hòa Nghị. Ngoài cây dầu cổ thụ sống mấy trăm năm, nơi đây còn được mệnh danh là “quê hương trái sơ ri”.

< Chú Tấn: Bãi nuôi nghêu kéo dài tới xa tuốt ngoài kia hàng cây số.

Tiếp theo, bạn đến thăm đền thờ Trương Định ở xã Tân Hòa - nơi khởi binh chống Pháp của người anh hùng dân tộc lừng lẫy với địa danh “Đám lá tối trời” mà thực dân và tay sai khi nghe tới đều rụng rời tay chân, khiếp đảm tinh thần. Thưởng thức các món đặc sản Tân Hòa như bánh giá, mắm còng và mắm tôm chua với rượu sơ ri xong, bạn sẽ rong xe tới biển Tân Thành.

Biển Tân Thành dài khoảng 7 km. Riêng Khu du lịch biển Tân Thành đã được làm bờ kè dài gần 300 m. Bờ kè tuy đẹp, giúp ngăn chặn những cơn sóng dữ mùa gió chướng làm sạt lở bờ nhưng lại khiến nó trở thành bờ biển “chết”, vì chẳng mấy du khách đoái hoài tới chuyện đùa giỡn thỏa thuê với con sóng từ đại dương ùa vào. Tại đây, nhìn ra xa thấy những chiếc chòi giữ nghêu cao lênh khênh trên sóng biển. Nhưng, điều hấp dẫn du khách đến với Tân Thành chính là đặc sản biển.

Du lịch, GO! - Theo Vĩnh Long Online, báo Hậu Giang, internet
Các vườn hoa ở làng Nhật Tân, Tứ Liên (Hà Nội) bỗng biến thành công viên tự nhiên với nhiều đồ trang trí, đủ loại hoa màu sắc rực rỡ.

Giới trẻ đổ xô tới tạo dáng chụp ảnh, dù phải trả phí 20.000 đồng một lượt tham quan.

Một trong những khu 'vườn thượng uyển' tại làng hoa đào Nhật Tân (quận Tây Hồ) - nơi chỉ cách sông Hồng vài trăm mét. Những ngày cuối năm Nhâm Thìn, nơi đây luôn luôn đông đúc nam thanh nữ tú đổ về dạo chơi và tạo dáng chụp ảnh.

< Nhưng để được vào vườn hoa, mỗi người phải trả phí 20.000 đồng cho chủ vườn.

< Đào Nhật Tân chưa nở hoa nhưng nhà đầu tư vẫn đánh các loại cây từ nơi khác về trang trí nhằm tạo không khí xuân.

< Nhiều người không khỏi ngỡ ngàng khi đi xuống vườn đào truyền thống lại thấy toàn 'công viên'.

< Bác Lê Thị Hòa, người trồng hoa gần đó cho biết, dịch vụ ăn theo sở thích tạo dáng chụp ảnh này đã có từ năm trước nhưng năm nay quy mô ngày một lớn hơn. "Ước tính mỗi ngày chủ vườn thu về từ vài triệu đến cả chục triệu đồng từ việc tính tiền chụp ảnh theo đầu người", bác Hòa nói.

< Các loại hoa được giới trẻ yêu thích đều có mặt trong vườn, nhưng khá nhiều trong số đó là hoa giả như hoa mai, mận, đào...

< "Vườn thượng uyển" có nhiều đạo cụ phục vụ chụp ảnh cho các đôi uyên ương. Mỗi ôtô chở đoàn chụp ảnh cưới phải trả 100.000 đồng.

< Vườn hoa bách nhật, cánh bướm thu hút đông bạn trẻ.

< Một góc vườn được tô điểm thêm bằng những cây hoa đào giả đỏ thắm.

< Các cô dâu chú rể thích thú với vườn hoa cải vàng.

< Những cây hoa giả cao vài mét được dựng bên ngôi nhà mái lá và các luống hoa sặc sỡ với lối đi đẹp mắt đã thu hút đông bạn trẻ tới vui chơi.

Du lịch, GO! - Theo Hạ Nguyên (VnExpress)
Trong rất nhiều dấu tích, di tích của người xưa để lại trên đất Quảng Trị, hệ thống khai thác và xử lý nước cổ ở xã Gio An còn lại khá nhiều và tương đối nguyên vẹn, lại rất độc đáo.

Hệ thống giếng cổ này bao gồm hơn 30 giếng, nằm rải rác hai bên đường 75 (Km 7,8), ở 5 thôn: An Nha, An Hướng, Hảo Sơn, Long Sơn, Tân Văn thuộc địa phận xã Gio An, huyện Gio Linh; cách nghĩa trang liệt sỹ Quốc gia Trường Sơn khoảng 4 km về phía Đông Nam. Đây là một loại hình di tích độc nhất vô nhị, không chỉ của Quảng Trị mà còn đối với cả nước. Khẳng định những giá trị lịch sử, văn hoá đặc sắc của hệ thống di tích này và tạo cơ sở pháp lý để bảo tồn và phát huy hiệu quả của nó, ngày 13/3/2001 Bộ Văn hoá – Thông tin đã quyết định công nhận là di tích Quốc gia.


< Giếng Đào ở thôn An Nha.

Đây là những công trình khai thác nước ngầm độc đáo của các thế hệ dân cư trên vùng gò đồi miền tây Gio Linh. Đặc điểm kỹ thuật nổi bật của hệ thống khai thác nước là các công trình đều xây dựng theo phương thức xếp kè, và đẻo bằng đá bazan mà dân địa phương gọi là đá ong, đá mồ côi. Về khái quát, có thể phân hệ thống khai thác nước ở Gio An tập trung 3 loại chính sau:

Loại thứ nhất: Là loại có cấu trúc hoàn chỉnh nhất. Người ta dựa vào những mạch nước ngầm chảy ra ở triền đồi rồi dùng đá xếp ngăn lại ở xung quang tạo nên một bể lắng (bể hứng). Phía dưới bể hứng còn có một bể nữa gọi là bể chứa. Nước từ bể lắng chảy xuống bể chứa qua một bãi tràn có đặt các miếng đá, máng đá này được chế tác từ đá bazan dạng nữa hình trụ bổ dọc, dài từ 1,3 – 1,5m, mặt trên có một đường rãnh chạy dọc dài theo thân để dẫn nước.


< Giếng Gái ở thôn Hảo Sơn.

Bể chứa hình tròn hoặc hình bầu dục được xếp đá xung quanh, phía ngoài có các đường cho nước thoát ra chảy vào các con mương. Bể chứa thường sâu từ 1 - 2m, rộng từ 15 – 30m2 . Đây vừa là nơi lấy nước sinh hoạt phục vụ ăn uống, vừa là nơi tắm giặt của con người. Ngoài ra còn có các kênh mương dẫn nước được kè đá hoặc đắp bằng đất chạy ngoằn nghèo, có nhiệm vụ nhận nước trực tiếp từ bể chứa rồi dẫn ra ruộng. Những giếng thuộc loại này tiêu biểu là: Giếng Đào, giếng Trạng (An Nha), giếng Côi, giếng Kình (An Hướng), giếng Máng (Long Sơn), giếng Gái (Hảo Sơn).

Loại thứ hai: Là giếng không có bể lắng, không có máng dẫn mà thường là các bể chứa nhận trực tiếp nước từ những mội nước (mạch ngầm) phun nổi có lưu lượng dòng chảy mạnh. Phía ngoài có cửa thoát nước ra mương dẫn hay chảy ra ruộng. Loại công trình này do chỉ có một bể chứa nên tất cả các sinh hoạt đều diễn ra trong lòng bể. Vì thế, để giữ vệ sinh người ta rãi một số khối đá chắn ngang 1/3 bể phía trong với mục đích tạo ra một đường ranh giới quy ước, từ đó phần bên trong chỉ dành lấy nước ăn, phần bên ngoài là nơi tắm giặt. Những giếng thuộc loại này tiêu biểu là giếng Ông, giếng Tép (Hảo Sơn), giếng Nậy (Thanh Khê).


< Giếng Ông ở thôn Hảo Sơn.

Loại thứ ba: Giếng hình dáng giống giếng khơi cổ truyền ở vùng đồng bằng của người Việt, bằng cách thả “bi giếng” xuống nơi có mạch nước ngầm tạo thành vách từ dưới đáy lên khỏi mặt đất, các bi giếng là một khối đá nguyên, hình trụ tròn, mặt ngoài khum, dạng hình tang trống cao chừng 0,4m, đường kính 0,5m, dày 0,1m. Nền được xếp các phiến đá ong ghè đẻo sắc sảo. Mặc dù có sự khác biệt về cấu trúc đối với hai loại trên nhưng nó vẫn giữ nguyên tắc khai thác nước ngầm.

Từ trước đến nay đã có nhiều nhà khảo cổ trong và ngoài nước quan tâm đến các công trình dẫn thuỷ cổ này như: M.colain, Trần Quốc Vượng, Lâm Mỹ Dung, Lê Duy Sơn, … Tuy có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc, chủ nhân, niên đại, … song giới nghiên cứu đều công nhận đây là những sản phẩm văn hoá được hình thành bởi sự sáng tạo tuyệt vời của con người từ rất xa xưa.


< Giếng Pheo ở thôn Tân Văn.

Hệ thống dẫn thủy cổ Gio An là là một loại hình di tích độc đáo của Quảng Trị và cả nước, có giá trị về lịch sử, văn hoá, kiến trúc nghệ thuật và cả sinh thái. Từ người bản địa cổ đến người Việt Nam sau này hệ thống dẫn thuỷ cổ Gio An vẫn tồn tại với thời gian, vừa là những di tích có giá trị vừa mang chức năng sử dụng, trở thành một trong những sản phẩm văn hoá đặc sắc, độc đáo, thể hiện lối ứng xử khôn khéo, thông minh của con người trước tự nhiên để phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Nó vừa là sản phẩm vừa là đặc trưng của cư dân nông nghiệp, phản chiếu sự kế thừa giữa các thế hệ dân cư nơi đây.

Tuy nhiên do đặc thù của di tích này cùng một lúc tồn tại song song hai giá trị: Di tích – Sử dụng, cho nên giải quyết hài hoà vấn đề giữ gìn di sản và vấn đề sử dụng để lấy nước, phát triển cây rau liệt (là một loại rau chỉ trồng được ở nơi này, cho hiệu quả kinh tế cao) không chỉ là trách nhiệm của cơ quan chuyên môn, chính quyền địa phương mà đòi hỏi sự góp sức, tự giác của toàn dân và các tổ chức xã hội. Đây là một di tích lịch sử - văn hoá cần được đầu tư, khai thác du lịch.

Du lịch, GO! - Theo Nguyễn Duy Hùng (Dulich.Quangtri)

Người dân tỉnh Quảng Trị, đặc biệt là những bô lão cho rằng nước giếng cổ đem lại hơi thở cho dân làng. Đặc biệt, rượu làng Gio An là loại rượu nổi tiếng ngon, thơm... Tất cả là nhờ có nước giếng cổ. Người già các làng trên khẳng định, sau nhiều lần thử nghiệm, khi công đoạn lên men rượu, công đoạn vào nước để nấu ra rượu thì nước giếng cổ là loại nước cho ra loại rượu độc đáo nhất về độ ngon mà chưa có loại nước nào (như nước giếng thường, nước máy) có thể thay thế được.

Không chỉ dừng lại ở việc tạo ra loại rượu ngon, người dân các làng có giếng cổ nói, để trồng được loại xà lách song thì phải tìm đến những vùng có mạch nguồn của nước giếng cổ chảy ra để trồng. Còn nếu trông loại rau này ở các vùng khác thì chất lượng cũng như màu sắc không thể nào sánh được với loại rau trồng ở nguồn nước giếng cổ
Con nhum, nhiều nơi gọi là cầu gai, có nơi gọi nhím biển bởi hình dáng tròn, bề ngoài phủ đầy gai nhọn tua tủa và dễ gãy. Với dân thành thị, nhum là món đặc sản kiểu “ông nhậu bà khen”.

Nhum là giống... trời ơi!

Ở Nha Trang, món nhum cũng được liệt vào hàng hiếm bởi chỉ vài nhà hàng mới có nguồn cung cấp. Riêng ở Phú Quốc (Kiên Giang) - nơi được mệnh danh là đảo ngọc với địa thế núi non, sông suối, thác ghềnh, những bãi biển đẹp và hoang sơ - ít người để mắt tới món nhum.

Trước kia, dân Phú Quốc chê con nhum là giống... trời ơi bởi vẻ ngoài gớm ghiếc, lỡ chân đạp phải thì đau buốt phải biết.
Nhưng từ độ một ngư dân nhìn thấy khỉ trong rừng hay lân la xuống mé biển bắt con vật lạ này lên bờ, lấy đá ghè ra ăn phần ruột bên trong, họ mới phát hiện cái con gớm ghiếc này ăn được. Ngay cả “bài thuốc” trị cái gai độc của nhum cũng học từ mấy chú khỉ trong rừng.

Chẳng là có bữa chú khỉ đạp phải gai nhum, nó chạy ngay lên bờ tè vào chân, ngư dân cũng bắt chước như thế quả là êm ngay, bao nhiêu đau nhức lập tức tan biến.

Dân Phú Quốc bắt đầu lai rai ăn nhum, cộng thêm làn sóng du khách từ Sài Gòn ra, khách Nhật Bản tới, yêu cầu món nhum ăn sống chấm mù tạt. Nhum đảo ngọc Phú Quốc dần dần nổi danh trong giới ngao du khoái của ngon vật lạ. Thật  lạ, hương vị nhum Phú Quốc không giống bất cứ một loại hải sản nào. Thịt và trứng nó vừa ngọt, béo, thơm tựa gạch cua bể lẫn dư vị mằn mặn của biển...  Ấn tượng vô cùng!

Nhum thường sống thành đàn ở những vùng biển nước ta, nhiều nhất là ở Cà Ná, Ninh Thuận và Phú Quốc, Kiên Giang. Chúng thường quần tụ ở những nơi có nhiều rạn san hô, đá ngầm và hang hốc để ăn rong rêu, cỏ biển, đặc biệt là cỏ lá hẹ. Ngoại hình nhum tròn như quả cầu nhỏ, nhiều gai tua tủa tựa lông nhím nên còn có tên cầu gai hay nhím biển.

Đi kẹp nhum

Khoảng 9 giờ sáng, anh Thanh Tùng, một ngư dân chuyên săn nhum ở Bãi Thơm, Phú Quốc rủ tôi ra biển bắt nhum. Ra khỏi bờ chừng vài trăm mét, anh Tùng cho ghe dừng lại, sửa soạn đồ nghề, đeo kính lặn rồi nhảy đùng xuống biển.

Dụng cụ anh mang theo chỉ có một cây kẹp sắt dài 1m,  dùng để kẹp từng con nhum cho vào giỏ. Vì gai nhum dài và nhọn hoắc nên không ai dám đụng vào, nhờ có cây kẹp sắt mới tóm gọn được.

Khoảng mười phút sau, anh Tùng đã ném vào ghe trên 20 con nhum. Con nào cũng đen sẫm, gai chơm chởm thật ngộ nghĩnh. Xong anh dùng kéo cắt bỏ tất cả gai trước khi tách đôi mình nhum ra như tách một trái măng cụt.

Được biết, nhum ở đây có nhiều loại: nhum sọ màu trắng hoặc vàng cam, gai ngắn, ít thịt; nhum bàn gai nhọn, dài  như chông; nhum đen thịt nhiều, ngon và béo nên được nhiều người chuộng.

Thơm ngon độc đáo

Anh Đinh Văn Tạo, một thổ địa  ở Phú Quốc, rất sành ăn, quả quyết rằng trong các loài cua sò ốc biển, chưa có loại nào chất lượng bằng  thịt nhum, đặc biệt là phần trứng.  Tách đôi con nhum, bên trong là một khối cầu trống rỗng nhưng nằm sát lớp da lại có nhiều múi chứa một lớp thịt mềm mại, màu vàng như kem. Tuyệt nhất là trứng nhum vừa thơm vừa béo, được coi như món quà quý báu của biển khơi. Ai lỡ... ăn qua dễ sinh ghiền!

Dân Phú Quốc có nhiều cách ăn nhum. Cầu kỳ nhất là cạo hết lớp thịt bên trong, xào sơ với mỡ tỏi và cho vào nồi cháo đang sôi. Cháo nhum với vị béo, bùi và đặc biệt có mùi thơm ngai ngái rất đặc trưng, được xem là thức ăn bổ dưỡng, giúp nhanh lấy lại sức sau những chuyến đi biển, những khi đi đường xa mệt nhọc.

Thế nhưng, cách ăn nhum phổ biến nhất ở Phú Quốc là cắt đôi con nhum, nướng quanh lửa hồng. Trên bếp hồng, nhum nướng nhanh chóng tỏa mùi. Chỉ cần nướng sơ, cho thêm mỡ hành vào rồi dùng muỗng nạo phần thịt chấm muối tiêu chanh… là sẽ thưởng thức được thịt nhum thơm, béo mà khách nào thấy cũng phải thèm. Riêng những người thích gọn lẹ hơn thì cứ chanh, mù tạc cho vào nửa “quả cầu”. Món nhum tái chanh, mù tạc càng thích hợp nếu trên bàn tiệc có ít bia.

Dân sành ẩm thực ra Phú Quốc rất thích món nhum nướng chấm muối tiêu, còn người Nhật thì khoái tái chanh mù-tạt.

Riêng bạn: khi ăn có thể dùng muỗng nhỏ xúc từng miếng thịt hoặc trứng, rắc chút muối tiêu chanh, đưa vào miệng nhai từ tốn... Chắc chắn bạn sẽ ấn tượng với hương vị đậm đà quyến rũ của nó. Đúng là một món ăn ngon và lạ, hương vị không giống bất cứ loại hải sản nào. Nó vừa có vị ngọt lẫn mùi thơm của gạch cua, hòa quyện cùng hương nồng của biển. Anh em ở  đây còn rỉ tai nhau rằng, ăn nhum phải có vài ngụm đế hoặc rượu Tây hay bét nhất là vài chai bia mới phát huy "bản lĩnh đàn ông".

Anh Trần Quốc Hùng, một thợ lặn cừ khôi ở đây khen nức nở: thịt nhum là một món ăn cực kỳ bổ dưỡng. Ăn thường xuyên, cơ thể sẽ dẻo dai, ít mỏi mệt.

Một vài lão ngư còn nhắc lại món mắm nhum tiến vua thời nhà Nguyễn. Đó là thứ mắm đặc biệt được chế biến thủ công thật tinh tế. Câu chuyện về con nhum càng lúc càng miên man bất tận, khiến cho thực khách thêm sảng khoái.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ TTO, TNTT&GT và nhiều nguồn ảnh khác.

Monday, 21 January 2013

Có nhiều phượt thủ rất khoái trải nghiệm cái lạnh rét buốt mùa đông. Và họ vác ba lô lên đường. Phượt thủ Thu Hường đã chia sẻ với bạn đọc iHay những điểm đến thú vị trong hành trình "săn" rét mùa đông.

Tam Đảo chìm đắm trong màn sương

Vào mùa hè, Tam đảo được ví như thiên đường nghỉ dưỡng lý tưởng với khí hậu bốn mùa hội tụ trong ngày. Qua mùa hè, sang thu đến suốt mùa đông, không khí ở Tam Đảo tuyệt hơn bao giờ hết nếu bạn thực sự muốn tận hưởng cảm giác đắm chìm trong sương, run rẩy trong cái rét buốt  và mọi vật xung quanh nhạt nhòa làn hơi nước.

Đường đến Tam Đảo khá thuận tiện, có thể đi được bằng xe máy hoặc ô tô bởi Tam Đảo chỉ cách Hà Nội hơn 70 km. Tuy nhiên, nếu đến Tam Đảo bằng xe máy bạn sẽ tận hưởng được cảm giác thuần khiết của thiên nhiên, tiếng suối róc rách trên suốt con đường cua chừng 20 km uốn lượn theo triền núi. Một lời khuyên cho bạn nếu muốn đến Tam Đảo mùa đông bằng xe máy cần chuẩn bị kỹ lưỡng về kinh nghiệm và đồ tư trang.

Con đường dẫn đến Tam Đảo liên tục có những đoạn cua lắt léo, dốc này nối dốc khác, liên tục cây cối um tùm và sương giăng dày đặc sẽ khiến “tay xế” khó có thể quan sát được gương cầu. Thông thường, đường sẽ khá vắng, thỉnh thoảng có một vài chiếc xe tải lớn hay xe của những người dân chở su su xuống núi, nếu bạn không biết điều chỉnh tốc độ sẽ dễ đụng nhau bất cứ lúc nào. Càng lên cao, với độ cao gần 1000m so với mực nước biển, cái lạnh mùa đông ở Tam Đảo càng trở nên se sắt, buốt giá hơn.

Tam Đảo mùa đông sẽ mang đến cho bạn cảm giác hoang vu, vắng vẻ. Tam Đảo lúc này như thành phố nhỏ chìm đắm trong màn sương, chỉ thấy một màu xanh ẩn hiện của những vườn su su mát mắt.

Mộc Châu rét buốt mùa đông

Từ lâu, cái tên Mộc Châu không còn xa lạ với nhiều người, bởi mỗi mùa Mộc Châu lại có những nét đẹp riêng, nét đẹp gắn với mỗi loài hoa theo mùa như hoa đào, hoa ban trắng, hoa cải, hoa ngũ sắc...

Riêng tôi, gọi Mộc Châu về đông là Mộc Châu rét buốt. Nếu những ngày này, Hà Nội run rẩy trong cái lạnh kéo dài thì nhiệt độ ở Mộc Châu cũng lạnh không kém. Đoàn chúng tôi có dịp dừng chân ở bản Lóng Luông để cùng đón tết với đồng bào Mông nơi đây nên cũng thấm thía cái lạnh cóng của cao nguyên hoa.

Cả đoàn ai cũng sụt sịt vì chưa quen giá rét, nhưng được ngồi sưởi ấm trong những bếp lửa hồng cùng bà con dân bản và nhâm nhi chén rượu thì cũng phần nào quên đi cái lạnh buốt ấy.

Săn băng tuyết trên đỉnh đèo Ô Quý Hồ

Đèo Ô Quý Hồ được dân phượt mệnh danh là “Cổng Trời” bởi đứng trên đèo, chúng ta có cảm giác giơ tay lên đã chạm được vào những áng mây trắng bồng bềnh tựa chốn thần tiên. Đèo Ô Quý Hồ còn có tên gọi khác là Đèo Hoàng Liên Sơn hay đèo Hoàng Liên.

Nơi đây năm xưa có trạm khí tượng thủy văn trên đỉnh núi Hoàng Liên, là nguyên mẫu trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của nhà văn Nguyễn Thành Long.

Ngày nay, đây là ngọn đèo có đường ô tô chạy qua, cao nhất Việt Nam và cũng là cung đường nối liền hai tỉnh Lào Cai và Lai Châu, nổi danh là một trong những cung đường dài, hiểm trở và hùng vĩ vào loại bậc nhất.

Với độ cao xấp xỉ 2.000m so với mực nước biển, đèo Ô Quý Hồ là nơi thường xuất hiện băng tuyết và mưa tuyết nhiệt đới nhất mỗi khi đông về. Vì thế, địa danh này là nơi lý tưởng mà nhiều du khách muốn đặt chân đến vào mùa đông.

Vào mùa đông năm ngoái (2011), khi nhiệt độ Sapa giảm xuống còn 1o C, nhiệt độ trên đỉnh đèo giảm sâu dưới 0o C, sương mù dày đặc kèm theo mưa phùn nhỏ tạo băng tuyết phủ trắng đèo Ô Quý Hồ.

Còn gì tuyệt hơn nếu chúng ta đặt chân đến đây đúng dịp có băng tuyết để có thể tận hưởng trọn vẹn một mùa đại hàn với băng giá phủ trắng rặng cây, núi đồi và chộp lại những khoảnh khắc đẹp mê hồn.

Du lịch, GO! - Theo Thu Hường (iHay)
Sùng Hưng cổ tự - ngôi chùa lâu đời nhất ở huyện đảo Phú Quốc (Kiên Giang) - hiện là một điểm tham quan không thể thiếu trong các tour du lịch lữ hành trên đảo.  

Sùng Hưng cổ tự tọa lạc trên đường Trần Hưng Đạo (đối diện với trung tâm Viễn Thông, gần chợ đêm Dinh Cậu Phú Quốc).

Khuôn viên chùa khá rộng, gồm các công trình kiến trúc, nhà thờ tổ, tòa chính điện. Các công trình Phật sự trong chùa được làm với mái lợp ngói âm dương và tường gạch từ năm 1924.

Sùng Hưng cổ tự được xây dựng theo phong cách dân gian “trước miếu, sau chùa”. Ngay chính diện là khoảng sân rộng và vườn tỳ ni với sự góp mặt của nhiều loại cây cảnh cùng những pho tượng đắp nổi theo phong cách kiến trúc quen thuộc của Phật giáo. Trong sân chùa có tượng Quan Âm Nam Hải, kế sau là cột cờ. Bên trái nền và miếu cũ có miếu thờ bà Chúa Xứ Nương Nương, bên phải thờ Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Hai bên chánh điện có thờ Thập Điện Diêm Vương và Ngũ Điện Diêm Vương, còn các tượng khác trên bàn thờ chính.

Sau chánh điện là khu Hậu tổ và Hậu liêu. Bên hông chùa có đường lên viếng đài Phật tổ A Di Đà. Phía sau là đài Thích Ca Niết Bàn được xây dựng vào năm 1960 cùng các ngôi miếu và những hàng cây cổ thụ tỏa bóng mát sum suê…Với quy mô và kiến trúc độc đáo, từ lâu chùa Sùng Hưng cùng với đình thần Dương Đông, Dinh bà Thủy Long Thánh mẫu và Dinh Cậu đã trở thành cụm văn hóa tâm linh liên hoàn nơi đảo ngọc.

Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Sùng Hưng cổ tự là một điểm liên lạc bí mật cho cách mạng. Đặc biệt, hơn 40 năm nay, chùa Sùng Hưng đã liên tục duy trì lễ cúng ngọ Bác Hồ.

Theo Đại đức trụ trì Thích Huệ Thông, do mến mộ và tôn kính Chủ tịch Hồ Chí Minh, nên hằng ngày cứ đến giờ Ngọ (12 giờ trưa), thầy trụ trì chùa lại dâng cơm trắng (cơm lạt) cúng Bác, gọi là cúng Ngọ. Cũng theo lời Đại đức Thích Huệ Thông, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh mất năm 1969, hòa thượng Thích Huệ Chánh là trụ trì chùa khi ấy đã thường xuyên tổ chức cúng Bác Hồ theo những nghi lễ trang trọng.

Hiện mỗi ngày có khoảng trăm khách thập phương đến Sùng Hưng cổ tự tham quan, vãn cảnh. Nhiều người dân thị trấn Dương Đông cũng thường đến đây dâng hương  trong các dịp lễ tết và thư giãn tĩnh tâm sau những giờ phút lao động căng thẳng.

Du lịch, GO! - Theo Giang Sơn (TNO), internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống