Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Saturday, 26 January 2013

Về Hà Tiên, nhiều người nói chỉ có “ra hòn” là vui. Đảo Hải Tặc, cái tên nghe dữ dằn, gây nhiều tò mò khiến chúng tôi quyết tâm vượt sóng khám phá một lần cho biết.

< Biển tại đảo Hải Tặc trong xanh, nhìn thấu đáy.

Hòn Đốc thuộc xã đảo Tiên Hải, thị xã Hà Tiên (Kiên Giang). Hòn Đốc còn có tên gọi rất ấn tượng là “đảo Hải Tặc”, nằm ở khu vực biển Tây của Việt Nam. Hòn Đốc hợp với các đảo lân cận hình thành quần đảo Hải Tặc có diện tích đất nổi 1.100ha, gồm 16 hòn đảo cách bờ biển Hà Tiên 11 hải lý.


< Giữa hoang sơ biển trời đảo Hải Tặc.

Tấm bia chủ quyền ở bờ tây đảo Hải Tặc ghi rõ dòng chữ:
“Quần đảo Hải Tặc. Hải đồ số: 3686 S.H; vĩ tuyến 10 độ 10’8; kinh tuyến 104 độ 20’0”. Quần đảo Hải Tặc gồm có các đảo: Hòn Kèo Ngựa, Hòn Kiến Vàng, Hòn Tre Lớn, Hòn Tre Vinh, Hòn Gùi, Hòn Hòn Ụ, Hòn Giang, Hòn Chơ Rơ, Hòn Đước Non, Hòn Bô Dập, Hòn Đồi Mồi”.

Thú vị cua “ăn đèn”

Tàu phăm phăm gối sóng hướng về Hòn Đốc. Giữa biển khơi xanh biếc, phía nào cũng nhìn thấy đảo, du khách tưởng như đang du ngoạn giữa “tiểu Hạ Long”! Sau hai giờ hải hành, tàu cập bến Bãi Nam đảo Hải Tặc. Chúng tôi “đổ bộ” lên đảo, lúc này trời đã xế chiều. Có dịp ngắm hoàng hôn với mặt trời lặn dần xuống biển thấy lòng thanh thản lạ.

Cảng cá nhộn nhịp hàng lên xuống. Du khách sẽ gặp rất nhiều cá bớp, cá đuối, ghẹ, mực, tôm… Cá rất tươi ngon, giá cả cũng “rất ok”: cá bớp 80.000 đồng/kg, cá đuối 70.000 đồng/kg, mực trứng 80.000 đồng/kg, tôm tích 70.000 đồng/kg, ghẹ 70.000 đồng/kg…

Soi và đâm cua biển ở những kè, gành đá ven đảo Hải Tặc là một tiết mục hấp dẫn. Cua biển về đêm thường vào bờ, nép ven các vách đá để kiếm ăn, tìm bạn tình và sinh sản. Bạn sẽ được trang bị đèn ba pin cực mạnh để soi xuyên xuống mặt nước. Một cây chĩa hai có ngạnh, dài chừng hai thước. Khi soi gặp cua, bạn phải giữ tâm của ánh đèn chiếu ngay mắt cua. Mắt cua sẽ phản chiếu lại ánh sáng đỏ hồng như hai hạt lựu, trong suốt. Chúng sẽ bất động “ăn đèn”.

Bạn nhắm theo luồng ánh sáng và phóng chĩa vừa tầm cho thật ngọt và êm. Nếu săn tìm và đâm giỏi, một đêm trúng có thể thu được vài ký cua biển đem về nấu cháo hoặc hấp bia nhậu lai rai.

Sau một giấc ngủ ngon, không mộng mị giữa tiếng sóng biển rì rào, chúng tôi khoan khoái dậy sớm ngắm mặt trời vừa mới nhô lên ở phía quần đảo Bà Lụa, vượt qua Dốc Miếu thoai thoải đổ xuống Bãi Dừa thơ mộng. Một không gian hoang sơ hiện ra với khoảng trời biển bao la, tĩnh lặng. Trên núi, ven rừng thỉnh thoảng có tiếng chim được đặt tên nghe rất lạ như “lấu lấu” hay “bắt cô trói cột” hót lên lảnh lót, vang động rồi yên ắng chìm sâu giữa biển, rừng tịch mịch…


< Cổ thụ trên núi (Hòn Đốc).

Ra đảo Hải Tặc dứt khoát phải thử món ghẹ tươi hấp bia! Theo kinh nghiệm của ngư dân địa phương, ghẹ ngon là những con thật chắc, to cỡ bốn ngón tay, bấm vào yếm không lún. Ghẹ rửa sạch, cho vào nồi, đổ chừng một lon bia hấp với củ sả đập giập. Ghẹ hấp bia khi chín sẽ có màu vàng gạch tôm quyện với hương vị thơm lừng của bia, sả.

Ghẹ hấp bia phải ăn lúc còn nóng. Gạch béo ngậy cùng vị cay nhẹ của muối tiêu chanh, thấm vào miệng lưỡi mà theo ngôn ngữ “dân nhậu” là ngây ngất củ tỏi. Ăn ghẹ cũng là một nghệ thuật, phải từ từ bóc yếm, bóp vỡ càng, gỡ thịt, nhấm nháp lai rai… Ghẹ ở đây có khối thịt nhỏ màu trắng hồng, chắc lẳn, to bằng ngón tay út, ăn vào thơm, ngọt thấm dịu cả đầu lưỡi.

Cướp biển, “chuyện ngày xưa”

Trong tiếng sóng biển vỗ oàm oạp, nghe chú Tư “xe tăng”, một ngư dân cố cựu, kể: “Ông nội tôi nói lại hồi đó trên đảo này có đảng cướp “Cánh Buồm Đen”. Bọn cướp chủ yếu “đánh” những tàu buôn đi ngang vịnh Hà Tiên - Rạch Giá. Trên cột buồm của tàu “Hải Tặc” thường treo cây chổi có ý quét sạch tàu qua lại. “Cánh Buồm Đen” hoạt động trên một vùng biển rộng lớn của vịnh Thái Lan… Đến bây giờ, người ta vẫn đồn râm ran về một kho báu được bọn cướp biển chôn giấu đâu đó trên quần đảo…

Chuyện kể rằng từng có người đến đây để đào kho báu vào một buổi chiều tháng 3-1983, ngư dân xã Tiên Hải đã vây bắt được hai người này. Họ khai có một tấm bản đồ được vẽ cách đây 300 năm của dòng họ truyền lại, chỉ dẫn tới kho báu mà hải tặc chôn giấu! Chuyện trở nên ly kỳ hơn khi hồi đầu năm 2009, một số ngư dân lặn tìm ốc, hải mã tình cờ gặp một số lượng khá lớn tiền đồng cổ…”.

< Bãi đá Bắc đảo Hải Tặc.

Ngày nay chuyện cướp biển ở quần đảo Hải Tặc chỉ còn là quá khứ. Hòn Đốc đã hoàn toàn thay da đổi thịt. Xã đảo Tiên Hải đã có trường cấp II, trạm xá, bưu điện, đường giao thông quanh đảo. Ngư dân có một cuộc sống ấm no. Khách tham quan, du lịch tìm đến đảo ngày một đông. Đã có nhiều dự án đang được triển khai ở đây.

Từ TP.HCM du khách theo quốc lộ 1 về Vĩnh Long, rẽ qua QL80 đi Sa Đéc - Long Xuyên. Từ TP Long Xuyên đi Tri Tôn - Vàm Rầy - Kiên Lương - Hà Tiên. Đường dài chừng 350km, dễ đi. Từ Hà Tiên ra Hòn Đốc chừng 11 hải lý (21,7km).

Du lịch, GO! - Theo TTO, internet

Friday, 25 January 2013

Bạn sẽ không khỏi sửng sốt khi tới thăm những vùng vịnh dưới đây của Việt Nam bởi vẻ đẹp như những miền cổ tích.

1. Vịnh Hạ Long – Quảng Ninh

Từ trên cao nhìn xuống, vịnh Hạ Long như một bức tranh thuỷ mặc khổng lồ vô cùng sống động. Hàng ngàn đảo đá nhấp nhô trên sóng nước lung linh huyền ảo, vừa khoẻ khoắn hoành tráng nhưng cũng rất mềm mại duyên dáng, sống động.
Đi giữa Hạ Long với muôn ngàn đảo đá, ngỡ như lạc vào một thế giới cổ tích bị hoá đá. Đảo thì giống hình ai đó đang hướng về đất liền - hòn Đầu Người; đảo thì giống như một con rồng đang bay lượn trên mặt nước - Hòn Rồng; đảo thì lại giống như một ông lão đang ngồi câu cá - hòn Lã Vọng; và kia hai cánh buồm nâu lực lưỡng đang rẽ sóng nước ra khơi...

Hòn Cánh Buồm; rồi hai con gà đang âu yếm vờn nhau trên sóng nước - hòn Trống Mái; đứng giữa biển nước bao la một lư hương khổng lồ như một vật cúng tế trời đất - hòn Lư Hương... Tất cả đều rất thực, thực đến kinh ngạc.

Trong lòng các đảo đá trên vịnh còn có những hang động tuyệt đẹp như động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, động Sửng Sốt, hang Trinh Nữ, động Tam Cung...
Ngày 11/11/2011, Vịnh Hạ Long chính thức lọt vào danh sách 7 kỳ quan thiên nhiên thế giới mới do Tổ chức New7Wonders tổ chức.

2. Vịnh Lăng Cô – Huế

Thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc (Thừa Thiên - Huế) là một vùng đất giàu tiềm năng bởi thiên nhiên, phong cảnh đẹp. Đèo Hải Vân, non xanh nước biếc, núi chạy dài ra sát mép biển. Bên dưới là bãi tắm Lăng Cô phẳng lì, gần như nguyên sơ, nước xanh trong. Nhiều du khách khi tới Huế, được đắm mình trong khung cảnh ở Lăng Cô đã nói rằng "Lăng Cô đẹp hơn tranh thủy mặc".

Lăng Cô lại là một vùng biển hiền hòa, nguyên sơ với một dải cát trắng mịn, mặt nước biển xanh trong. Trước đây, người ta biết đến Lăng Cô như một điểm dừng chân của khách trước khi qua đèo, với vài dãy hàng cơm, một vài điểm bán hàng hải sản khô lèo tèo. Từ khi hầm đường bộ Hải Vân được khởi công xây dựng, thị trấn Lăng Cô mới trở nên nhộn nhịp hơn.

Từ Lăng Cô, vào những ngày đẹp trời, có thể phóng tầm mắt chiêm ngưỡng cảnh quan khu vườn quốc gia Bạch Mã. Lăng Cô còn có đầm Lập An. Cứ mỗi chiều, từng đàn cò trắng nhấp nhô bay về đầm tìm chỗ ngủ.
Hiện nay, Vịnh Lăng Cô đã chính thức trở thành thành viên thứ 30 của Câu lạc bộ các vịnh biển đẹp nhất thế giới (Worldbays Club).

3. Vịnh Nha Trang – Khánh Hòa

Được che chắn bởi 19 đảo lớn nhỏ, vịnh Nha Trang rộng chừng 500km2 khá kín gió, không có sóng lớn. Trong vịnh Nha Trang có gần mười đảo yến, hằng năm việc khai thác yến sào mang về hàng triệu USD cho tỉnh Khánh Hòa. Dưới mặt vịnh Nha Trang lại có một thế giới kỳ thú khác, đó là thế giới của 350 loài san hô, 190 loài cá, các loài nhuyễn thể, giáp xác, cỏ biển...

Về mặt sinh thái, vịnh Nha Trang là một trong những hình mẫu tự nhiên hiếm có của hệ thống vũng, vịnh trên thế giới bởi nó có hầu hết các hệ sinh thái điển hình, quý hiếm của vùng biển nhiệt đới. Đó là hệ sinh thái đất ngập nước, rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, hệ sinh thái cửa sông, hệ sinh thái đảo biển, hệ sinh thái bãi cát ven bờ. Đặc biệt khu vực Hòn Mun của Vịnh Nha Trang có đa dạng sinh học cao nhất với 350 loài rạn san hô chiếm 40% san hô trên thế giới.

Tháng 7 năm 2003. cùng với Vịnh Hạ Long, vịnh Nha Trang chính thức công nhận và xếp hạng là một trong 29 Vịnh đẹp nhất trên thế giới.

4. Vịnh Ninh Vân – Nha Trang

Ninh Vân là một hòn đảo xinh đẹp nằm trong quần thể vịnh Nha Trang. Nằm cách Nha Trang hơn 60km, thuộc bán đảo Hòn Hèo, huyện Ninh Hòa, Khánh Hòa, Ninh Vân vốn được gọi là xã đảo vì không có đường bộ, muốn đi đến đây, duy nhất chỉ có tàu từ Nha Trang qua lại bằng đường biển. Mất khoảng 18 phút đi tàu cao tốc từ thành phố Nha Trang.

Từ tàu cao tốc hướng vào bờ, Ninh Vân không phải là một khu nghỉ mát sang trọng, lộng lẫy như hình dung thông thường. Cảnh thiên nhiên ở đây gần như được giữ nguyên bản với những gì tự nhiên và hoang sơ nhất. Ninh Vân yên bình như một ốc đảo cổ tích xanh mướt hoa cỏ, thiên đường này sở hữu những rặng núi cao, rừng cây xanh ngút tầm mắt. Bãi biển cát trắng nguyên sơ, biển xanh như ngọc hay những rặng san hô ngầm đầy kỳ thú cũng là những yếu tố chính thu hút khách du lịch đến với Ninh Vân.

Nơi đây chỉ thấy những ngôi nhà gỗ nhỏ nằm ngay sát mé bờ biển, trên đá hoặc chếch trên đồi… Chỉ cần vài bước chân, bạn đã có thể xuống biển, để cảm nhận rõ hơn hương vị mằn mặn của biển, hay đơn giản là đùa nghịch với làn nước trong xanh và mát lạnh. Chèo kayak, câu cá hay lên chiếc thuyền gỗ ra xa xa ngắm hoàng hôn xuống dần, để thấy nhịp sống dường như chậm lại, thư thái. Mạo hiểm hơn một chút, bạn có thể tham gia lặn biển, ngắm nhìn những rặng san hô tuyệt đẹp với hệ sinh thái biển phong phú. Tất cả làm nên một ấn tượng đặc biệt với những du khách lần đầu tiên đến nơi đây.

5. Vịnh Vĩnh Hy – Ninh Thuận

Vịnh Vĩnh Hy thuộc làng Vĩnh Hy, xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải, cách trung tâm thành phố Phan Rang (tỉnh Ninh Thuận) chừng 40km. Từ Phan Rang, du khách sẽ lên thuyền thực hiện hành trình khám phá vịnh Vĩnh Hy. Vịnh Vĩnh Hy được bao bọc bởi những ngọn núi có nhiều hang động kì thú, khí hậu thiên nhiên trong lành, đặc biệt là làn nước xanh và trong đến mức bạn có thể nhìn thấy từng đàn cá cơm bơi quanh mạn thuyền.

Thuyền đưa du khách từ từ rẽ sóng hướng ra biển, đến với vịnh Vĩnh Hy trong mênh mang trời xanh, nước biếc. Vịnh Vĩnh Hy được đánh giá là điểm đến đầy hấp dẫn. Ngồi trên thuyền, giữa lòng vịnh mênh mông, hướng mắt về phía Nam, du khách sẽ thấy những bãi cát dài lượn cong ven chân núi.

Hiện nay, tại Vĩnh Hy đã có nhiều loại hình du lịch biển hấp dẫn, đặc biệt là thú vui đi tàu đáy kính ngắm san hô và cá dưới đáy biển... Tại khu bảo tồn biển Vĩnh Hy có 307 loài san hô quý hiếm, trong đó có 50 loài mới được phát hiện ở Việt Nam. Nếu gặp thời tiết thuận lợi, du khách có thể tham gia một tour lặn biển để được tận mắt chứng kiến những rạn san hô đầy màu sắc dưới đáy biển.

6. Vịnh Xuân Đài – Phú Yên

Từ thành phố Tuy Hòa - Phú yên, đi theo quốc lộ 1A về hướng bắc chừng 45km, vịnh xuân Đài hiện ra như một bức tranh thủy mặc. Vịnh được tạo thành bởi một dãy núi chạy dài ra biển khoảng 15km trông giống hình đầu của một con kỳ lân.

Ít có vịnh nào sự đa dạng đan xen về địa hình như vịnh Xuân Đài. Ghềnh nối tiếp vũng, vũng nối tiếp bãi, bãi nối tiếp núi, uốn lượn trùng điệp. Chỉ riêng vũng đã có hàng chục cái, to nhỏ, nông sâu khác nhau. Xuân Đài cũng có rất nhiều núi, đảo và bán đảo, nơi nào cũng đẹp một cách hoang sơ.

Một nét độc đáo khác của vịnh Xuân Đài là những bãi cát sạch mịn màng, sạch đẹp còn nguyên dáng vẻ hoang sơ như: bãi Than, bãi Vũng Lắm, bãi Trước, bãi Sau, bãi Tràm, bãi Nồm, bãi Ôm, bãi Rạng, bãi Trầu, bãi Nhỏ, bãi Nhàu... Ấn tượng hơn cả là bãi Bình Sa hay còn gọi là bãi Dài. Từ biển nhìn vào, bãi Dài như một dải lụa trắng óng ả chạy dài 5 km, ven những rừng dừa, rừng dương và những ngọn đồi lúp xúp.

Nằm trong danh sách đề cử những vịnh đẹp nhất thế giới, Vịnh Xuân Đài là một trong những thắng cảnh tiêu biểu ở Phú Yên

7. Vịnh Vũng Rô – Phú Yên

Nhìn trên bản đồ Phú Yên, ở góc đông nam có một bán đảo hình dáng như đầu con chim với chiếc mỏ nhọn. Bán đảo ấy được hình thành bởi núi Vũng Rô làm cho bờ biển cao và dốc, ghềnh đá ngổn ngang tạo ra nhiều mũi, phía đông có mũi Mao, mũi Ba, phía nam có mũi La.

Vịnh Vũng Rô rộng 1640ha mặt nước, vịnh có 12 bãi nhỏ: Bãi Lách, Bãi Mù U, Bãi Ngà, Bãi Chùa, Bãi Chân Trâu, Bãi Hồ, Bãi Hàng, Bãi Nhỏ, Bãi Chính, Bãi Bàng, Bãi Lau, Bãi Nhãn với phong cảnh sơn thủy hữu tình, quyến rũ tuyệt vời cho tham quan, tắm biển. Trong lòng biển của Vũng Rô có nhiều loài hải sản, dưới đáy biển là những rạn san hô màu rất hấp dẫn cho các loại hình du lịch câu cá, bơi, lặn.

Các bán đảo này ôm lấy Vũng Rô, tạo nơi đây thành một cảng biển tốt, để tàu thuyền neo đậu, tránh bão, đánh bắt cá. Vũng Rô được các dãy núi Đèo Cả, Đá Bia, Hòn Bà che chắn cả 3 hướng bắc, đông, tây. Phía nam là cửa biển có đảo Hòn Nưa cao 105m như một pháo đài canh gác cho tàu bè ra vào.

8. Vịnh Hà Tiên – Kiên Giang

Vịnh Hà Tiên (Kiên Giang) có đến 105 đảo lớn nhỏ, trong đó có xã đảo Hòn Nghệ, nơi đang phát triển nghề nuôi cá bè trên biển và có nhiều thắng cảnh du lịch.

Thiên nhiên ưu ái ban tặng cho Hà Tiên một tổng thể hài hòa: núi, biển, đảo và đồng bằng kết hợp thành một vùng đất đẹp như tiên cảnh. Biển Hà Tiên cũng rất dồi dào sản vật ngon và lạ. Có lẽ chính vì vậy mà du khách thích đến với Hà Tiên để ngắm cảnh, để ăn hải sản. Không khó lý giải khi Hà Tiên thu hút lượng khách tham quan đông nhất ở đồng bằng Sông Cửu Long.

9. Vịnh Cam Ranh – Khánh Hòa

Từ lâu người ta chỉ biết Cam Ranh như một hải cảng quân sự hơn là một nơi có tiềm năng du lịch. Trong khi thực tế, thiên nhiên Cam Ranh quá đẹp, rất lý tưởng cho việc xây dựng một khu du lịch biển tầm cỡ thế giới. Vịnh Cam Ranh đích thực là một kỳ quan thiên nhiên.

Nằm cách thành phố Nha Trang (Khánh Hòa) 60km về phía nam, vịnh Cam Ranh trải dài như một dải lụa xanh thẳm đẹp đến mê hồn. Vịnh Cam Ranh quanh năm nắng ấm chan hòa, bầu trời trong xanh tạo cho mặt vịnh một màu xanh rất dễ chịu.

Thiên nhiên ở vịnh Cam Ranh đẹp gần như còn nguyên sơ: những bãi cát trắng vàng, trải dài mịn màng như chưa bao giờ có dấu chân người, dưới lòng vịnh có những rặng san hô và những đàn cá nhiều màu sắc rất đẹp mắt. Nhưng đẹp nhất vẫn là những quần thể ghềnh đá granit do sự xâm thực của gió, của nước biển đã tạo nên những hình thù chồng chất.

Vịnh còn có nhiều bãi tắm hoang sơ tuyệt đẹp, bên cạnh những rặng dừa xanh cao vút, tạo nên nét đặc trưng của miền duyên hải Trung Bộ.
Vịnh Cam Ranh là nơi lý tưởng để tổ chức các loại hình du lịch biển quốc tế như: bơi thuyền, câu cá, lặn biển xem san hô, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, leo núi... không thua kém bất cứ nơi nào trên thế giới.

10. Vịnh Vân Phong – Khánh Hòa

Vịnh Vân Phong thuộc huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, cách thành phố Nha Trang khoảng 80km về phía bắc.Vịnh Vân Phong là một vùng vịnh rất rộng và kín đáo.

Vịnh có địa hình rất phong phú, đặc biệt là hệ thống đảo, bán đảo, vịnh sâu kín gió, bờ và bãi biển, cồn cát hấp dẫn và là khu vực có hệ sinh thái đa dạng như rừng nhiệt đới, rừng ngập mặn, động thực vật ven biển….

Vịnh có những bãi tắm tuyệt đẹp, hoang sơ cát trắng mịn, nước biển trong vắt như Bãi Tây, Bãi Me, Bãi Búa, Bãi Lách, Bãi Xuân Đừng… Các đảo đẹp trong vịnh phỉa kể đến: Hòn Đỏ, Hòn Ông, Hòn Cổ, Hòn Nước, hòn Bịp ( Điệp Sơn), đi lùi xuống phía nam của vịnh có Đầm Môn, Hòn Gốm….
Trong những năm gần đây, vịnh Vân Phong đã tạo được sự chú ý đặc biệt của các nhà nghiên cứu và khai thác du lịch trong, ngoài nước.

Du lịch, GO! - Theo 24H, internet
Trong nhiều tác phẩm văn học, âm nhạc, truyền hình hiện nay, chúng ta thường nghe đến cụm từ “Hà Nội 36 phố phường” nhưng xuất xứ và những thông tin liên quan đến nó không phải ai cũng biết.

Về băn khoan này, giáo sư sử học Lê Văn Lan đã từng đưa ra ý kiến như sau:
“Chúng ta đang có 2 văn bản đều có tên: Hà Nội 36 phố phường, thực ra là 2 bài thơ - đúng hơn là hai bài vè - đều có tên là Hà Nội 36 phố phường. Một bản kể: Phồn hoa thứ nhất Long thành/36 phố rành rành chẳng sai… Bản kia cũng là Hà Nội 36 phố phường nhưng lại kể: Phồn hoa thứ nhất Long Thành/Phố giăng mắc cửi chạy quanh bàn cờ…

Nếu cộng các tên phố có trong các bài Hà Nội 36 phố phường thì thấy có tất cả có hơn 50 phố. Văn bản có tên 36 phố phường ấy ra đời vào cuối thế kỷ 19, gây ấn tượng lớn nhưng không nên hiểu đó là sự đánh dấu của việc ra đời Hà Nội 36 phố phường, bởi Hà Nội 36 phố phường là điều không có trong lịch sử. Hà Nội chỉ có 36 phường vào thời Lê và có hơn 50 phố bắt đầu bằng chữ “Hàng” ở cuối thế kỷ 19.

Vì sao mọi người hay nhắc tới câu Hà Nội 36 phố phường? Có lẽ “công tích” thuộc về nhà văn Thạch Lam. Tác phẩm Hà Nội 36 phố phường của Thạch Lam quá nổi tiếng, nên dù không là sự thật lịch sử thì vẫn được mọi người đón nhận.

Và người ta vẫn dùng Hà Nội 36 phố phường như 5 cửa ô của Văn Cao hay Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội của Nguyễn Đình Thi. Tác dụng của Văn học nghệ thuật là cực kỳ lớn. Rất tiếc là khoa học chưa can dự để trả lại tính chính xác của các thông tin này bên cạnh tính hấp dẫn của nó”.

Một trong các số các bài ca về 36 phố phường được ghi trong sách Việt Nam thi văn hợp tuyển của Dương Quảng Hàm có nôi dung như sau:

“Rủ nhau chơi khắp Long thành/Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai:/Hàng Bồ, hàng Bạc, hàng Gai,/Hàng Buồm, hàng Thiếc, hàng Hài, hàng Khay,/Mã Vĩ, hàng Điếu, hàng Giầy/Hàng Lờ, hàng Cót, hàng Mây, hàng Đàn,/Phố Mới, Phúc Kiến, hàng Ngang,/Hàng Mã, hàng Mắm, hàng Than, hàng Đồng,/Hàng Muối, hàng Nón, cầu Đông,/Hàng Hòm, hàng Đậu, hàng Bông, hàng Bè,/Hàng Thùng, hàng Bát, hàng Tre,/Hàng Vôi, hàng Giấy, hàng The, hàng Gà,/Quanh đi đến phố hàng Da,/Trải xem hàng phố, thật là cũng xinh./Phồn hoa thứ nhất Long thành,/Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ/Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ/Bút hoa xin chép vần thơ lưu truyền”.

Xét theo ghi chép của sách sử thì 36 phố phường được đặt ra từ thời vua Lê Hiển Tông với mục đích duy nhất là thuận tiện hơn trong việc giữ gìn an ninh, trật tự. Theo sách Đại Việt sử ký tục biên, vào tháng 12 năm Mậu Thìn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 (1748) triều đình “hạ lệnh chia bên trong kinh thành làm 36 khu, mỗi khu đặt một quan coi giữ việc tuần phòng, khám xét. Lại định phép ty tộc đoàn (liên kết các gia tộc ở gần nhau cùng giữ an ninh). Tiếp đó lại chia làm 9 điện, mỗi điện có 4 khu, mỗi khu đặt một viên chánh khu”.

Trong tác phẩm Vũ Trung tùy bút của danh sĩ sống vào giai đoạn cuối thời Lê đầu thời Nguyễn là Phạm Đình Hổ cho biết cụ thể hơn về điều này: “Kinh thành Thăng Long chia ra 36 phường, mỗi phường đặt một người phường trưởng. Lại đặt ra phủ Phụng Thiên có quan Phủ doãn, quan Thiếu doãn kiêm coi cả việc tuần phủ và việc liêm sát, đốc suất hai huyện Thọ Xương và Quảng Đức, mỗi huyện có quan Huyện úy cai trị. Toàn thành thì cử một quan trọng thần sung chức Đề lĩnh tứ thành quân vụ, phân ra chánh phó hai dinh, chuyên coi việc cấm phòng, xét hỏi.

Song đất kinh thành đông đúc, nhà ở liễn nhau, thường có hỏa hoạn, lại nhiều những kẻ đầy tớ nhà quan, du đãng cờ bạc, gây chuyện đánh nhau, cãi nhau, cùng là những kẻ vô lại trộm cắp, nhiều lắm không thể kể xiết được, chẳng khác gì lục hải khi xưa là nơi bể cạn, vật sản rất nhiều, mà lại không thiếu một hạng người nào cả.

Đời Trịnh An Đô Vương (tức Trịnh Cương- TG), Nguyễn Công Hãng làm Thượng thư cầm quyền chính, mới chia hai huyện ra làm tám khu, mỗi khu đặt một người trưởng khu và một người phó khu; lại chia ra năm nhà là một tị, hai tị là một lư, mỗi lư cũng có một lư trưởng; bốn lư là một đoàn, mỗi đoàn đặt một quản giám, hai quản điểm, dưới quyền người khu trưởng và trực thuộc quan Đề lĩnh. Đó là phỏng cái ý cổ nhân bảo trợ phù trì lẫn nhau.

Phàm những việc phòng hỏa, phòng trộm và nhất thiết những việc giao dịch thuế má đều ủy trách cho khu trưởng, đoàn trưởng cả. Bởi vậy, những con nhà khá giả coi thường, không thèm ra làm, chỉ để cho những côn đồ trong các xóm chợ ra làm. Bọn chúng cùng những kẻ ti thuộc quan Đề lĩnh thông nhau làm càn, rất phiền nhiễu cho dân phố. Ôi! “Sinh nhất sự bất như trừ nhất hại” (thêm ra một việc không bằng bớt đi một tai hại) lời nói ấy rất đúng.

Theo lệ cũ, chốn kinh thành không phải chịu thuế dung, thuế điệu, chỉ tính từng dãy nhà, không cứ nhà quan hay nhà dân, hàng năm mỗi nhà phải chịu một suất đi sửa sang đắp lại nền cắm cờ tướng, dọn cỏ chung quanh cung đình, cung ứng các việc kiến trúc. Họ phải thay phiên nhau sắm đủ dây đòn, câu liêm, thang tre, bó đuốc, thùng gánh nước để theo quân quan Đề lĩnh đi túc trực các nơi điếm canh, phòng khi sai khiến; công việc rất là phiền nhiễu. Song tóm lại không tiền là không xong, chỉ làm nặng túi kẻ gian hoạt.

Tuy bảo rằng “phù bản ức mạt” (bồi đắp gốc rễ, ngăn chặn ngọn cành), nhưng cũng không phải là biện pháp tốt của đời thái bình”. Đến thời vua Gia Long nhà Nguyễn, trong một số sách dư địa chí như cuốn “Các tổng, trấn, xã danh bị lãm”, “Hoàng Việt dư địa chí”… cho biết tên của 36 phường.

Cụ thể, ở huyện Thọ Xương có 18 phường gồm: Yên Thọ, Hà Khẩu, Báo Thiên, Đông Hà, Đồng Xuân, Đông Tác, Đông Các, Cổ Vũ, Xã Đàn, Đồng Lạc, Thái Cực, Diên Hưng, Khúc Phố, Phục Cổ, Phúc Lâm, Kim Hoa, Hồng Mai, An Xá. Mười tám phường còn lại thuộc huyện Vĩnh Thuận là: Bích Câu, Quảng Bá, Thuỵ Chương, Yên Thái, Hoè Nhai, Tây Hồ, Nghi Tàm, Nhật Chiêu, Trích Sài, Võng Thị, Bái Ấn, Yên Lãng, Công Bộ, Thạch Khối, Hồ Khẩu, Thịnh Quang, Yên Hoa và Quan Trạm.

Vào năm Tân Mão (1831) vua Minh Mạng tiến hành cuộc cải cách lớn, trong đó có việc phân chia và đặt tên mới theo địa giới hành chính cấp tỉnh; lúc này Thăng Long xưa được sáp nhập với một số khu vực khác thành tỉnh Hà Nội với diện tích rộng hơn, gồm 4 phủ, 15 huyện so với Thăng Long xưa.

Trong số 15 huyện của Hà Nội vẫn có 2 huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận thuộc phủ Hoài Đức, 36 phố phường đều nằm trong địa phận hai huyện này. Sách “Hoàng Việt dư địa chí” in vào năm Qúy Tị (1833) cho biết như sau: “Phủ Hoài Đức, xưa là phủ Phụng Thiên có hai huyện, 13 tổng, 249 thôn phường. Huyện Thọ Xương: 18 phường. Huyện Vĩnh Thuận (xưa là huyện Quảng Đức): 18 phường”.

Trải qua thời gian và biến thiên của lịch sử, phố phường Hà Nội xưa đã thay đổi nhiều về tên gọi, số lượng cũng như diện tích nhưng một số vẫn giữ nguyên tên cũ như gợi nhắc cho những tâm hồn hoài niệm về một Hà Nội trong quá khứ.

Tên các phố ở Hà Nội bị cháy từ 1883-1888 do Claude Bourrin ghi lại đăng trong sách "Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX" - Nguyễn Văn Uẩn(4) cũng khai thác được tên phố mới; cũng viết về những đám cháy ở Hà Nội. Sách "Lịch sử thủ đô Hà Nội" của Trần Huy Liệu còn ghi thêm được tên 3 phố mới không trùng tên với các phố cũ(5). Những tư liệu trên giúp ta khai thác được tên 13 phố mới, cộng với 23 phố cũ vừa đủ 36 phố:

. 1. Phố Hà Khẩu: Hàng Buồm, theo Đại Nam nhất thống chí (1864-1875)
. 2. Phố Việt Đông: Hàng Ngang
. 3. Phố Hàng Mã
. 4. Phố Hàng Mắm
. 5. Phố Báo Thiên: Hàng Trống
. 6. Phố Nam Hoa: Hàng Bè
. 7. Phố Hàng Bồ
. 8. Phố Vàng bạc: Hàng Bạc
. 9. Phố Hàng Giấy
. 10. Phố Mã Mây
. 11. Phố Đồng Lạc
. 12. Phố Thái Cực: Hàng Đào
. 13. Phố Đông Hà: Hàng Chiếu
. 14. Phố Phúc Kiến: Lãn Ông
. 15. Phường Phục Cổ: Nguyễn Du
.
. 16. Phường Hàng Lam: phố Thợ Nhuộm
. 17. Phường Đồng Xuân
. 18. Phường Thanh Hà
. 19. Phường Hàng Gai
. 20. Phường Hàng Đẫy
. 21. Phường Hàng Chè
. 22. Phường Hàng Muối, theo Trương Vĩnh Ký (1876)
. 23. Phố Quảng Minh Đình*
. 24. Phố Hàng Đường*, theo Bản đồ Hà Nội 1883
. 25. Phố Hàng Mành
. 26. Phố Hàng Hòm
. 27. Phố Hàng Gà
. 28. Phố Hàng Đồng
. 29. Phố Hàng Nón: theo Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX
. 30. Phố Hàng Vai
. 31. Phố Hàng Lược
. 32. Phố Hàng Bông
. 33. Phố Lò Sũ
. 34. Phố Bắc Ninh: theo Lịch sử thủ đô Hà Nội
. 35. Phố Hàng Tre
. 36. Sở Lục lộ: Hàng Vôi.

Hà Nội liệu có 36 phố phường không?
Dựa vào câu trả lời có 2 loại ý kiến khác nhau:

Loại ý kiến thứ nhất khẳng định: Trong thực tế chỉ có “Thăng Long.

36 phường” ở thời Lê. Sang thời Nguyễn, khi đã mang tên mới là Hà Nội thì dưới đời Minh Mạng có tới 239 phường, thôn, trại để rồi tới thời Tự Đức con số đó rút xuống là 153, và .... không làm gì có ai gọi là “Hà Nội 36 phố phường”... cái gọi là “Hà Nội 36 phố phường chỉ là một cách nói tượng trưng, ước lệ; con số 36 đây có thể hiểu là “nhiều”.

Loại ý kiến thứ hai theo bài báo này trả lời sẽ là: Dưới triều vua Đồng Khánh (1885-1888) đúng là đã có 36 tên phường và rất có thể có cả tên 36 phố ở Hà Nội chăng? Những ai quan tâm xin suy nghĩ luận bàn. Còn hiểu về con số 36 có ý nghĩa thế nào? có phải đó chỉ là cách nói ước lệ? - tốt nhất là tìm câu trả lời ở chính những người sống đương thời đó.

Du lịch, GO! - Theo Diendanhanoi/Vietnam+, Đông Tác giao lưu, internet
5 giờ chiều của một ngày cuối tháng 12, Trần Ngẵng, ngụ tại thôn Tiến Phú, xã Tiến Thành cùng nhóm bạn lại gặp nhau trên bãi biển, nơi cách hòn đảo nhỏ và ngọn hải đăng nổi tiếng Kê Gà của xã Tân Thành, Hàm Thuận Nam (Phan Thiết) chỉ 5 phút đi ca nô.

Đó cũng là nơi mà bờ đá nhô ra biển  cùng vòng cung của hòn đảo tạo nên một vũng nhỏ, ít sóng. Trên bãi biển ấy, Ngẵng và  nhóm bạn sẽ câu suốt đêm. Để chuẩn bị cho cả đêm câu ấy, mỗi người đều chọn một đoạn bãi rồi tự tay chôn những chiếc ống nhựa Bình Minh cắt ngắn xuống nền cát theo một khoảng cách nhất định. Sau đó, họ cắm từng chiếc cần câu máy vào từng ống nhựa, nhờ vậy mà trong suốt  đêm gió và khi cá giật, cần câu cũng chỉ cong chứ không ngã xuống cát.

Ngẵng cho hay: Từ đây đến ngày 30 tết Quý Tỵ, Ngẵng và bạn bè đều có mặt tại bãi để câu cá hanh, một loài cá  sống ở hồ đầm và ngoài biển khơi. Một loài cá háu ăn nên rất dễ câu. Cá hanh, theo như Ngẵng cho biết thường đi ăn từng đàn vào lúc bình minh, hoàng hôn và không ăn một chỗ nào lâu.

Những người câu như Ngẵng đều sắm mỗi người trên dưới  một chục chiếc cần, cắm dọc theo bãi để… đón đợi cá. Có nhiều loại mồi câu nhưng tại  bãi Kê Gà, những người câu đêm đều chọn tôm tít, loại tôm có nhiều khoang, làm mồi.

Mỗi chiếc cần  có nhiều lưỡi, ở những vị trí khác nhau nên lượng tôm tít cần cho mỗi người câu trong một đêm phải trên 100 con. Điều này giải thích vì sao Ngẵng có 3 chiếc hộp đồ nghề đi câu.

Chiếc hộp to nhất đựng một chục chiếc bánh quy với lời giải thích “nhai cho vui miệng lúc ban đêm”, chiếc thứ hai đựng cước và lưỡi, chiếc  còn lại đựng mồi câu”.
Chuẩn bị mồi cho việc câu suốt đêm.

Văn hóa đi câu

“Trong  lúc câu đêm có qua lại nói chuyện, hoặc san sẻ cá cho nhau?”- tôi hỏi. Ngẵng không trả lời ngay  mà chỉ  từng nhóm cần câu của mỗi người cắm trên bãi, nói: “Có một quy định bất thành văn trong nghề câu là không đi lại lộn xộn, chiếm chỗ của nhau; không bí mật lấy mồi nhau; không vì lý do nào đó mà ganh ghét bạn câu được cá to; không quăng câu ngang dọc, làm vướng đường thu dây của bạn”… Do vậy, tiếng là câu đêm nhưng “giang sơn” ai người ấy biết!

Những người câu đêm chỉ biết nhau qua tiếng thu dây câu, tiếng cá quẫy khi lên gần bờ. Trong quá trình câu, ít ai tán chuyện gì; có chăng là  nhìn  ánh đèn pin mà đoán người câu bên cạnh đã mấy lần được cá hoặc mấy lần phải thay mồi.

“Người câu đêm phải trang bị cho mình những thứ cần thiết như: nước uống, thuốc hút, dầu xoa (nếu thầy cần)”, Ngẵng nói.

Đang trong lúc nói chuyện, tôi chú ý đến một thanh niên ngồi bó gối cách Ngẵng khoảng 20 bước chân.  Anh thanh niên đăm đăm nhìn ra mặt nước, trong khi cạnh đó là hai chiếc cần câu có phần hơi ngã về phía trước.

Tôi hỏi Ngẵng: “Cá cắn câu sao bạn ấy không giật?”. Ngẵng lắc đầu: “Nước chuyển đó anh. Trên bề mặt mình không thấy gì nhưng bên dưới đã bắt đầu chảy. Cần bị cong một phần là do sức nước, còn nếu cá cắn câu thì đầu cần sẽ giật nhẹ liên tục trước khi cong vòng. Khoảng nửa tiếng nữa khi đêm xuống hẳn, tụi em phải căng tai ra nghe, chốc chốc  phải bấm đèn pin quan sát từng cần câu”.

Thức với đêm sâu

Đêm mỗi lúc một xuống nhanh, những người câu cá biển ban đêm không ai bảo ai đều đứng lên, mắt hướng về phía vũng nước, về ngọn hải đăng Kê Gà. Sóng biển vẫn vỗ ì oạp. Những chiếc cần câu có vẻ như mỗi lúc một cong hơn. Tôi đoán là nước đang rút và những người câu đêm sẽ phải tập trung cả tai, mắt vào đó.

Tôi hỏi Ngẵng một câu vì sợ quên: “Một đêm câu được khoảng bao nhiêu cá?”. “Vài ký. Đủ cho vợ đi chợ. Nhưng nhiêu đó đã là quý với tụi em vì bây giờ tìm việc làm khó lắm. Có việc làm dù nhỏ vẫn hơn ngồi không rồi sinh hư”. Tôi nghe tiếng cười nhỏ của Ngẵng. Đêm của những người câu biển xao xát làm sao!

Du lịch, GO! - Theo Hà Thanh Tú (Bình Thuận Online), internet
Đôi khi những đặc điểm nằm bên ngoài món ăn lại làm tôi nhớ về đồ ăn, thức uống của một miền đất mình từng đặt chân qua. Riêng với phở Hà Nội, không hiểu sao, tôi chỉ thích ăn ở những quán cổ kính và... chật chội.

< Tô phở đầy đặn tại 23C phố Hai Bà Trưng.

Một người bạn bắt bẻ tôi, ở Hà Nội cái gì chẳng chật, nhà chật, đường chật thì chẳng có lý gì quán phở không chật? Tôi bảo vệ ý kiến của mình: "Chật đến độ phải nhường nhau từng cái ghế, và nếu giờ cao điểm, vai người này phải hích vào cùi tay của người kia cơ! Bạn tôi cười, thế thì chịu sở thích của một con bé... dở hơi!".

Vừa ăn phở vừa nghe"dàn đồng ca"

Quán phở đầu tiên tôi ăn ngày mới đặt chân lên Hà Nội là phở bò Hàng Đồng. Cậu học trò tôi làm gia sư năn nỉ cô giáo: Cô cứ thử ăn một lần đi, ngon hơn mấy cái quán được giới thiệu trên mạng là cái chắc! Và tôi đi ăn thật.

< Phở bò Hàng Đồng.

Quán nằm ngã tư Hàng Vải và Hàng Đồng, vỏn vẹn 12 mét vuông cho cả chỗ nấu của chủ, chỗ ngồi của khách. Tôi và học trò chọn một cái bàn ngoài vỉa hè cho thoáng, vừa ăn phở vừa nghe tiếng kim loại loảng xoảng của những cửa hàng lân cận. "Thế mới xứng danh là phở Hàng Đồng cô ạ", cậu bé thuyết minh.

Nước phở trong veo, bánh phở mềm, cọng hành xanh, thịt bò không nát cũng không dai. Chúng tôi vắt chanh và thả thêm vài lát ớt đỏ vào bát, cứ thế hai cô trò, mỗi người một đôi đũa, một chiếc thìa rồi xì xụp cho đến khi đáy bát chỉ còn chút nước. Thằng bé đưa giấy lau mồ hôi trên trán và hai sống mũi: Ăn xong ấm cả người!

Thằng bé nhà ở phố Bát Đàn, tuần nào cũng chạy ra quán phở bò này đôi ba lần, không ăn ở đó thì xách cà mên (cạp lồng) mua về cho ông, bà hay em gái. Cháu kể cho tôi nghe, thích nhất nước phở Hàng Đồng, thơm thơm mùi mắm, bánh phở vừa đủ độ dai, không nát. Thịt bò thái vừa đủ mỏng, gắp đủ cho người ăn, ăn đến độ cảm thấy đã miệng thì vừa hết bát. Tôi khâm phục một cậu bé lớp 8 nhưng khá sành phở.

Đến vỉa hè Hai Bà Trưng ăn phở


< Tiệm phở cổ kính trên phố Hai Bà Trưng rất nhỏ, nên thực khách phải ngồi ngoài vỉa hè.

Chúng tôi tình cờ biết được quán phở nằm ở 23C Hai Bà Trưng sau một chuyến đi chơi bờ hồ tết dương lịch mấy năm trước. Trời mưa phùn rét căm căm, người mệt nhoài, chúng tôi mừng như bắt được vàng khi thấy bên kia đường là một quán phở nằm ngay trên vỉa hè.

Không bàn ghế sang trọng, quán phở mang tên Huy Hoàng đơn sơ với những chiếc ghế nhựa để khách vừa làm bàn, vừa làm ghế. Phần diện tích trong nhà vài mét vuông đủ cho vài người khách ngồi, còn lại phần lớn khách đến được xếp ghế ngồi ngay vỉa hè.

Chúng tôi gọi phở tái chín. Hai tô phở đầy tràn được bưng ra, nhìn thôi đã thấy no nê. Nước dùng hơi ngậy, ngoài lớp hành lá tươi roi rói còn có những khoanh hành tây trắng muốt. Những miếng thịt bò nhìn có dính thêm chút mỡ nhưng ăn không hề thấy ngấy, bánh phở sợi to, mềm mịn. Tôi rưới chút tương ớt, vắt thêm chanh, trộn đều, đủ thấy tất cả các vị chua, cạy, mặn ngọt của tô phở Hà thành chính hiệu.


< Xếp hàng mua phở 49 Bát Đàn.

Về sau lên mạng tra cứu, tôi mới biết đây là quán phở nổi tiếng Hà Nội, có từ hàng chục năm trước.
Một câu chuyện kể rằng có một đôi nam nữ yêu nhau thường đến ăn phở ở quán này, đến giờ, khi cậu con trai của họ đã cao hơn bố một cái đầu, cả gia đình vẫn ghé đến 23C Hai Bà Trưng, gọi phở ăn, gặp hôm quán hết chỗ ngồi, nhất định họ đứng chờ người khác ăn xong thì thế chỗ chứ không tìm quán khác...

Theo Tây đi ăn phở xếp hàng

Ông bạn người Thụy Điển của tôi sau một hồi được dẫn đi ăn phở xếp hàng 49 Bát Đàn thì tỏ ra vô cùng phấn khích, anh ta reo lên bằng thứ tiếng Việt lơ lớ: Rất ngon
Đây là quán phở duy nhất tại Hà Nội có hình thức độc đáo như thời... bao cấp: khách đến phải xếp hàng, đưa tiền trước rồi tự bưng bát phở của mình đến một chỗ ngồi còn trống rồi tự thưởng thức. Quán phở không mở 24/24, chỉ từ 5 giờ 30 sáng đến 10 giờ 30 trưa, từ17 giờ 30 chiều tới 22 giờ tối, nhưng cảnh xếp hàng thì lúc nào cũng thấy.

Chúng tôi ăn nhiều lần ở quán này và thích nhất phở tái gầu. Một bát phở rất đầy đặn giá chỉ tầm 40.000 đồng. Thịt bò nhìn đã thấy mềm. Hành xanh muốt. Sợi phở vuông, nước dùng trong, ít béo hơn phở Hai Bà Trưng. Húp chút nước, đã thấy trong người ấm sực...


< Phở 49 Bát Đàn, cái ngon cũng từ sự đông đúc trong quán.

Người khách nước ngoài đi cùng chúng tôi không phải lần đầu tiên ăn phở Việt Nam, nhưng xếp hàng để lấy phở thì đúng là lần đầu tiên. Anh cũng cho thêm ớt, rau thơm vào bát phở sành sỏi như một người Việt chính hiệu. Anh còn làm chúng tôi bất ngờ hơn nữa khi khẳng định rằng, Phở 24 anh từng ăn ở nhiều thành phố tại Việt Nam đúng là có sạch hơn, rộng hơn, người phục vụ tận tình hơn, nhưng độ ngon, thì "phở xếp hàng" vẫn là số 1!

Xa Hà Nội, người ta có thể gặp những nỗi nhớ rất... ẩm thực. Nhớ ô mai Hàng Đường, nhớ trà chanh Nhà Thờ, nhớ caramen dốc hàng Than... Riêng tôi, tôi nhớ những giọt mồ hôi trên trán, dọc sống mũi, trên cằm, khi ngồi ăn phở ở một vỉa hè giữa trưa hay trong một cái quán chật chội, chỉ vừa kê đúng được 2, 3 chiếc ghế, nghe những thanh âm của một Hà Nội bận rộn.

Phở Hà Nội, cái tài tình của món ăn ngon từ miền đất lành đó là đánh thức được trong ta những cảm nhận không chỉ từ vị giác…

Du lịch, GO! - Theo iHay, internet

Thursday, 24 January 2013

Vị thần trên trời xuống tắm, rồi vẽ lại những hình thù trên tảng đá. Những hình vẽ đó sẽ mang lại những điều tốt lành cho người dân.

< Tác giả bên những tảng đá có hình khắc bí ẩn trưng bày ở thủy điện Sơn La.

Công trình thủy điện Sơn La hùng vĩ đã khánh thành. Các tuốc-bin đã hoạt động, sản sinh ra dòng điện lớn cho đất nước. Rất nhiều du khách lên Sơn La, đều muốn chiêm ngưỡng công trình hoành tráng này. Ngay con đường vào đập thủy điện, là khu nhà trưng bày những cổ vật khai quật dưới lòng hồ thủy điện. Giữa sân là những tảng đá lớn, mà phải quan sát kỹ, mới thấy những hình khắc.

< Tác giả bên tảng đá có hình khắc ở bản Pá Màng gần 10 năm trước, khi chưa được đưa về thủy điện Sơn La.

Nhìn những khối đá cổ chuyển từ bãi đá Pá Màng (xã Liệp Tè, Thuận Châu, Sơn La) về đây, lòng tôi trào dâng cảm xúc. Cách đây gần 10 năm, tôi đã mất 2 ngày trời, vừa đi xe máy, đi bộ, đi thuyền, để được chiêm ngưỡng những tảng đá lúc chìm, lúc nổi bên sông Đà. Hành trình vất vả đó, chỉ với mong muốn được tận mắt những hình vẽ trên khối đá, trước khi nó biến mất vĩnh viễn dưới lòng hồ. Nhưng không ngờ, những tảng đá có hình khắc cổ xưa đã được khiêng về trưng bày ở ngay thủy điện Sơn La. Cảm giác được xem lại tác phẩm nghệ thuật của tổ tiên tưởng như sẽ biến mất thật khó tả.

< Mùa lũ, những tảng đá có hình khắc cổ lại chìm dưới lòng sông.

10 năm trước, con đường từ xã Chiềng Khoang (Quỳnh Nhai) vào xã Liệp Muội quanh co, dốc ngược, khủng khiếp như đường… lên giời. Từ Liệp Muội phải cuốc bộ suốt ngày trời mới vào được xã Nậm Ét. Con đường mòn bé xíu hun hút trong rừng thẳm. Cuốc bộ từ sáng sớm đến chiều tối mới ra đến bờ sông Đà. Ngủ đêm ở bến sông, rồi hôm sau thuê thuyền xuôi sông Đà 2 tiếng nữa mới đến trung tâm xã Liệp Tè. Chỉ có 2 cách duy nhất vào xã Liệp Tè là cuốc bộ xuyên rừng hoặc cưỡi thuyền vượt thác.

< Hình khắc trên tảng đá Pá Màng.

Trung tâm xã Liệp Tè là chỉ có 3 ngôi nhà, gồm trụ sở ủy ban, trường học và ngôi nhà nghỉ chân của người lái đò cùng khách đi đò. Chủ tịch xã Tòng Xuân Sáng cùng các vị lãnh đạo chẳng có việc gì làm, nên ngồi uống rượu từ trưa đến xế chiều. Bao năm nay, các cán bộ và nhân dân sống trong cảnh phấp phỏng chờ nước ngập.

Ông Sáng bảo, ngoài cán bộ khảo sát, thì có thêm các nhà khảo cổ cất công tìm vào Liệp Tè nghiên cứu, đào bới. Lần đầu tiên các vị cán bộ xã được đón… nhà báo. Ông Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Lò Văn Sáy được phân công nhiệm vụ đưa nhà báo đi xem bãi đá cổ Pá Màng. Hóa ra, bãi đá Pá Màng nằm ngay mép sông, chỗ bến đò.

Ông Sáy bảo, ngay bãi sông, chỗ bến đò, các nhà khoa học đào được rất nhiều cổ vật. Năm 1996, người dân đào móng nhà, thu được vô số cổ vật bằng đá, bằng đồng, gốm. Những chiếc rìu, giáo, những lọ gốm cổ có đến hàng ngàn món. Dân đào đồ cổ thuê thuyền từ mãi Hòa Bình ngược lên đào bới, khuân đi vô số đồ cổ.

Những món đồ cổ bằng đá, đồng hiện vẫn có nhiều trong nhà dân. Các thầy mo, thầy cúng giữ rất nhiều đồ đồng, đồ đá. Họ coi đó là những vật thiêng tổ tiên để lại, nên cứ truyền từ đời trước đến đời sau cất giữ. Sau này, trao đổi với các nhà khoa học mới biết rằng, khu vực xã Pá Màng từng là một xưởng chế tác thủ công của người xưa. Theo lời ông Sáy, năm 1997, nghe tin phát hiện nhiều cổ vật ở Pá Màng, các nhà khảo cổ từ Hà Nội cũng đã đi thuyền ngược sông Đà lên đây căng dây, khoanh vùng, đào bới nhiều chỗ, mang về vô số cổ vật.

< Hòn đá khắc cổ được đánh số 1 bị vỡ mất một miếng. Hình khắc trên những hòn đá cổ vẫn là bí ẩn chưa được giải mã 

Nhóm nhà khảo cổ đó đến từ Viện Khảo cổ học Việt Nam. Là người trực tiếp khai quật, nghiên cứu về di chỉ Pá Màng, TS. Nguyễn Khắc Sử đánh giá về di chỉ này như sau: “Di chỉ khảo cổ Pá Màng là một di chỉ cư trú thềm sông có hai mức phát triển khác nhau.

Mức sớm nhất là lớp văn hóa nằm dưới độ sâu 1m, chứa công cụ cuội ghè đẽo, có thể trước văn hóa Hòa Bình, nhưng không hẳn là văn hoá Sơn Vi. Mức muộn hơn nằm ở bề mặt xuống đến 1m sâu chứa rất nhiều đồ gốm có khắc gạch, hoa văn cùng với bàn mài, thổ hoàng và sỉ đồng. Vì vậy, lớp văn hóa này thuộc sơ kỳ thời đại kim khí, cách ngày nay trên dưới 4.000 năm…”.

Cũng theo TS. Nguyễn Khắc Sử, việc phát hiện di chỉ Pá Màng đã chỉ ra sự phát triển sớm muộn của hai lớp cư dân trong cùng một di chỉ, trường hợp thật hiếm hoi ở miền Tây Bắc.

< Bãi đá Pá Màng mùa nước cạn.

Ông Sáy dẫn tôi ra mép sông Đà. Chúng tôi sắn quần lội bì bõm ra giữa sông. Ông Sáy chỉ mấy hòn đá nhô lên khỏi mặt nước và bảo đó chính là những hòn đá có hình khắc. Mùa lũ, nước sông Đà dâng cao, cuồn cuộn chảy, nhấn chìm những tảng đá này. Nhưng mùa khô, nước sông Đà cạn trơ đáy, tưởng như có thể lội qua sông được, thì những tảng đá có hình khắc nằm hẳn trên bãi sông. Những tảng đá đều sạch bong vì được nước sông rửa ráy mấy tháng trời.

Ông Sáy không biết ai khắc hình lên những tảng đá này. Tổ tiên ông Sáy cũng không biết. Nhưng đồng bào Thái nơi đây vẫn lưu giữ truyền thuyết về những tảng đá này. Người kể lại truyền thuyết về những tảng đá có hình khắc là cụ Lò Văn Hâu, là thầy mo uy tín của bản. Ông Hâu bảo rằng, những tảng đá đó là vật thiêng từ trên trời rơi xuống.

Ngày xưa, bãi sông Pá Màng có tới 40 tảng đá có hình khắc đen bóng nằm cạnh nhau. Vị thần trên trời xuống tắm, rồi vẽ lại những hình thù trên tảng đá. Những hình vẽ đó sẽ mang lại những điều tốt lành cho người dân.

< Những hòn đá có hình khắc bí ẩn được trưng bày ở thủy điện Sơn La.

Đồng bào Thái bản Pá Màng (Liệp Tè, Thuận Châu, Sơn La) không biết hình khắc trên những tảng đá nằm ven sông có từ bao giờ, nội dung ra sao. Họ tin rằng, những hình khắc đó là do vị thần trên trời xuống sông Đà tắm và để lại. Những hình khắc đó mang lại những điều tốt lành cho người dân.

Ông Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc xã Liệp Tè Lò Văn Sáy cho biết, người dân bản Pá Màng rất tin vào truyền thuyết đó, vì nó được kể bởi thầy mo Lò Văn Hâu. Cụ Hâu thường kể huyền thoại này vào những đêm trăng, hoặc những ngày cuối năm bên bếp lửa cho người trẻ nghe. Tuy nhiên, cụ Hâu đã chết cách nay hơn 20 năm. Theo ông Sáy, cụ thọ tới 120 tuổi. Người dân trong bản rất tin truyền thuyết này, vì đoạn sông Đà chảy qua địa phận bản Pá Màng rất dồi dào tôm cá. Theo lời ông Sáy, cụ Hâu chính là thợ săn cá giỏi nhất vùng.

Mùa lũ, nước từ thượng nguồn sông Đà phóng như tên bắn, gặp đoạn gấp khúc ở Pá Màng tạo thành dòng xoáy mạnh, đục ngàu. Những ngày lũ lớn, nước đục quánh bùn đất, khiến những loài cá yếu nổi trương bụng, nhao nhao lên mặt nước. Đồng bào ở Pá Màng chỉ việc mang vợt ra bãi sông xúc được hàng tạ cá.

Cụ Lò Văn Hâu chính là thợ săn cá chiên tài ba nhất vùng. Mùa nước cạn, nước sông Đà trong vắt. Vũng nước qua Pá Màng sâu hoắm, tới cả chục mét. Những con cá chiên khổng lồ, nặng tới 50-60kg lởn vởn như những bóng ma trong các vụng sâu, xoáy nước. Cụ Hâu cầm theo xiên nhảy ùm xuống vụng xoáy, tìm bọn cá chiên. Cụ đâm thật mạnh vào gáy cá. Chú cá chiên khổng lồ đau đớn, vùng vẫy, rồi nổi bụng chịu chết. Săn được cá chiên khổng lồ, cụ Hâu chia cho cả bản cùng ăn.

Ở Liệp Tè cũng có một số thợ săn cá chiên rất giỏi. Tuy nhiên, loài cá khổng lồ này ngày một hiếm, vả lại công việc này rất nguy hiểm, nên cả chục năm nay, không có ai lặn xuống đáy sông săn cá kiểu tay không nữa. Giờ thủy điện Sơn La ngập nước, Pá Màng và quá nửa xã Liệp Tè đã chìm dưới lòng hồ, nước tĩnh lặng, trong vắt. Loài cá khổng lồ ưa sống ở vùng nước chảy đã ngược lên phía thượng nguồn.

Quay lại chuyện những tảng đá khổng lồ có hình khắc bí ẩn bên bãi Pá Màng. Theo lời cụ Hâu, cách đây 100 năm, bãi Pá Màng có tới 40 hòn đá có hình khắc. Tuy nhiên, trong lần thám sát dọc sông Đà của các nhà khảo cổ vào năm 1977, thì bãi sông Pá Màng chỉ còn 18 hòn đá có hình khắc. Nhưng thời điểm cách nay gần 10 năm, tôi và ông Lò Văn Sáy đếm mãi, mà chỉ thấy còn 5 hòn đá có hình khắc.

< Liệu đây có phải chữ viết cổ của người Việt?

Theo lời ông Sáy, có thể một số tảng đá đã bị mất cắp! Một số hòn đá bị trôi mất, hoặc chìm sâu dưới lòng sông do những chiếc thuyền khai thác vàng ngày đêm moi cát đá dưới lòng sông lọc lấy bụi vàng.

Các hòn đá có tranh khắc hình chim muông, thú, cảnh vật, hình phụ nữ, bông hoa... Niên đại xuất hiện bãi đá cổ được xác định khoảng cuối thời kỳ đồ đá mới - sơ kỳ thời đại kim khí (cách đây từ 5.000 đến 7.000 năm). Những tảng đá có hình khắc vẫn còn tồn tại đến ngày nay vì chúng là những tảng đá lớn, có chân đế sâu, chắc chắn, không thể đào lên được. Những tảng đá nằm ở nơi sơn cùng thủy tận mà cũng bị con người phá hoại, thật tiếc biết bao.

TS. Nguyễn Khắc Sử (Viện Khảo cổ học) là người nghiên cứu kỹ lưỡng về những di chỉ khảo cổ trong lòng hồ thủy điện Sơn La. Ông cũng là người từng có nhiều thời gian nghiên cứu những hòn đá có hình khắc ở bãi đá Pá Màng. TS. Sử đã đo đạc tỉ mẩn, vẽ, dập tiêu bản và chụp lại chi tiết các hình khắc trên các hòn đá để nghiên cứu và làm công tác lưu trữ. Tuy nhiên, TS. Sử cũng chưa đưa ra lời giải mã nào về những hình khắc bí ẩn này. Ông mới chỉ dừng lại ở việc mô tả những hình vẽ cổ như sau:

< Những hình khắc mang tính cách điệu cao.

“Hều hết các vết khắc tập trung ở mặt phía Tây Bắc của hòn đá, tức là hướng ra phía sông Đà hoặc chính mặt quay lên trời. Các hình khắc chủ yếu được thể hiện bằng các đường tròn tiếp giáp nhau, hoặc được nối với nhau bằng một gạch nối có thể thẳng, có thể cong.

Có những hình gần như hình người gồm một hình tròn làm đầu, một vạch thẳng làm thân nối với hai chân choãi cong ở dưới. Hình vẽ không thể hiện tay. Có những hình khắc con thú 4 chân. Có những hình tròn hay bầu dục có vết lõm ở giữa hay một vạch phân đôi. Phần lớn các hình khắc này được khắc lung tung, không tuân theo một trật tự nào.

Các nét khắc rộng, hẹp và nông, sâu khác nhau, chỗ rộng nhất tới 3cm, chỗ hẹp nhất 1cm, chỗ sâu nhất 1cm, chỗ nông chỉ 0,2cm. Những nét khắc này được khắc từ một dụng cụ cứng và có đầu nhọn sắc kiểu lưỡi đục hơn là mũi rìu, bởi vì phần nhiều chiều ngang vết khắc là ổn định trong kích thước 1,5cm và sâu 0,3cm.

< TS. Nguyễn Khắc Sử là người có nhiều năm gắn bó, nghiên cứu bãi đá cổ Pá Màng.

Điều đặc biệt là bản thân những đường khắc đó có tận dụng các đường nét tự nhiên của hòn đá như các lỗ lõm, các vết nứt tự nhiên để thể hiện đề tài”. Về nội dung hình khắc, có những hình thể hiện ý tưởng vô cùng phức tạp, kỳ dị, song có những hình khắc lại rất đơn giản, thô sơ.

Ở viên đá mà các nhà khoa học đặt tên theo thứ tự là hòn đá số 1 có hình khắc liên tục, trải dài từ thân bên này, vắt qua mặt rồi tràn xuống phần thân bên kia. Nhìn toàn thể, hình khắc đó giống con thú có một sừng, hai mắt, một tai. Tuy nhiên, khi hỏi ông Hâu, thì ông bảo, các cụ già người Thái cho rằng hình khắc đó thể hiện mình và đầu con rồng. Ngoài ra, nhìn vào phần thân “con rồng” thì lại thấy được hình tượng của dòng sông Đà đoạn từ xã Chiềng Bằng qua Liệp Tè với những khúc uốn lượn quanh co rất phù hợp.

Nhìn vào hình khắc này, ai cũng có thể có những liên tưởng nào đó, do vậy vấn đề này rất cần sự phân tích xác đáng của các nhà khoa học. Ở những hòn đá khác có rất nhiều hình học với đường nét không còn đối xứng chặt chẽ. Các nhà khoa học vẫn chưa lý giải được nội dung những hình khắc kỳ lạ nhưng rất kỳ công này.

< Các nhà khoa học phải cắt một phần tảng đá có hình khắc vì tảng đá lớn quá, không thể vận chuyển về được.

TS. Nguyễn Khắc Sử đưa ra giả thiết rằng những hình khắc có thể là một thứ chữ cổ, dạng tượng hình. Bước đầu ông suy đoán những ký hiệu này có thể là chữ Thái cổ hoặc ký hiệu riêng của thầy mo khắc khi tiến hành nghi lễ ở đây từ thuở xưa. Niên đại của những hình khắc có nhiều khả năng rơi vào thời đại kim khí hơn là thời tiền sử.

Hệ thống chữ viết trên bãi đá cổ đã thể hiện rằng, chủ nhân của bãi đá có nền văn minh rực rỡ. Nhưng điều quan trọng, những hình khắc thể hiện người Việt cổ đã sống ở đây rất lâu, có thể cả vạn năm, chứ không phải di cư từ nơi khác đến cách nay vài trăm năm. Những hình khắc, họa tiết sắc nét trên những tảng đá siêu cứng khẳng định trình độ chế tác của cư dân nơi đây rất đáng nể. Nghiên cứu những hình khắc trên những tảng đá này, sẽ giúp chúng ta hiểu thêm văn hóa cổ và tự hào hơn về nền văn hiến Việt cổ xưa.

Đã có một số nhà khoa học cắt rừng lội bộ vào Liệp Tè để nghiên cứu, song đều chưa giải nghĩa được các hình khắc kỳ cổ này. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng, hình khắc trên những hòn đá cổ ở Pá Màng mang tích cách điệu nhiều hơn so với hình khắc trên bãi đá cổ Sapa.


< Những tảng đá chứa thông điệp của tổ tiên là vô giá.

Điều cần giải mã, là những hình khắc trên những hòn đá cổ có quan hệ thế nào với chủ nhân di chỉ khảo cổ Pá Màng? Đó là điều thú vị mà những nhà khảo cổ học cần dày tâm nghiên cứu.

Gần 10 năm trước, tôi kỳ công vào Pá Màng, với mong muốn được lần cuối cùng tận mắt, tận tay những thông điệp của tổ tiên, trước khi nó vĩnh viễn chìm dưới dòng nước bạc.

Thế nhưng, may mắn thay, những thông điệp quý báu của tổ tiên ta đã được các nhà nghiên cứu, được chính quyền ứng xử đúng mức. Dù không ít người dè bỉu rằng thật ngớ ngẩn khi bỏ ra bạc tỉ để khênh những tảng đá vô tri đó về thủy điện, nhưng với những người yêu tri thức cổ, thì giá trị của những thông điệp đó, không thể tính bằng tiền.

Du lịch, GO! - Theo VTC New

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống