Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Saturday, 2 February 2013

Ít ai ngờ rằng, dưới chân núi Nứa, thuộc Vũng Tàu – một trong những thành phố sầm uất nhất cả nước lại có một ngôi làng còn lưu giữ những tập quán và nếp sống của người dân Nam Bộ cổ xưa. Đó chính là làng biển Long Sơn – nơi còn truyền đời phong tục 'chết chung hòm' vô cùng độc đáo và có phần lạ lùng, kỳ bí.

Đạo “Ông Trần”

Từ thành phố Hồ Chí Minh chạy dọc theo quốc lộ 51, quẹo phải ngã ba Long Sơn, qua cầu Bà Nanh là đến làng biển Long Sơn nằm yên bình dưới chân núi Nứa. Ngoài những phong tục tập quán đậm chất truyền thống, làng biển Long Sơn còn khá nổi danh với đặc sản hàu tươi sống.

Dọc con đường nhựa chạy quanh làng, khá nhiều hộ dân đang tất bật bóc tách vỏ hàu để kịp phục vụ nhu cầu dịp cuối năm, khiến không khí sinh hoạt nơi đây càng thêm phần sung túc.


< Núi Nứa trên đảo Long Sơn.

Chạy thêm một đoạn nữa là đến khu di tích Nhà Lớn. Đây chính là nơi lưu giữ những lễ nghi, phong tục độc đáo của những người theo đạo “Ông Trần”, là vị tiên hiền có công khai hoang lập nên làng Long Sơn ngày nay. Chính “Ông Trần” cũng là người đã xây dựng lên quần thể kiến trúc Nhà Lớn nên người dân nơi đây còn kính cẩn tôn là “Ông Nhà Lớn”.

Nhà Lớn rộng gần hai ha, bao gồm: Nhà hội, đền thờ, dãy phố, nhà thuyền, khu chợ, trường học và khu mồ mả “Ông Trần”. Nhà Lớn trước kia hoàn toàn làm bằng các loại gỗ quý như lim, sến, trắc, gu … Đặc biệt là kiến trúc các dãy phố, nơi xưa kia để dành làm chỗ nghỉ ngơi của khách phương xa, vẫn còn nguyên màu gỗ nâu bóng, với những hàng chữ Nho được điêu khắc tỉ mỉ phía ngoài.

Cụ Võ Văn Chót, 77 tuổi, là vị cao niên được trông coi nhà Lớn cho biết: “Vào những năm 70, một số nơi trong quần thể Nhà Lớn bị xuống cấp phải trùng tu và xây dựng lại bằng xi măng. Còn sáu dãy phố cũng bị đánh bom cháy mất một dãy, giờ chỉ còn lại năm”.

Nhờ sự hướng dẫn của người dân nơi đây, chúng tôi đã tìm gặp và được tiếp xúc với bà Lê Thị Kiềm, cháu đời thứ tư của “Ông Trần”. Bà Lê Thị Kiềm năm nay đã hơn 67 tuổi, vẻ mặt hiền hòa, phong thái nhã nhặn, rất có cung cách của một người đảm nhận nhiệm vụ trông coi nhà lớn. Bà Kiềm vận bộ đồ bà ba đen, tóc búi gọn sau gáy, xung quanh, có rất nhiều người cũng diện trang phục tương tự.

Thấy chúng tôi hiếu kỳ về cách ăn mặc của mình, bà cười hiền hòa và bảo: “Từ rất lâu rồi, dân Long Sơn vẫn có thói quen mặc đồ bà đen, búi tóc, bất kể đàn ông hay đàn bà, già cả hay trẻ trai”. Quả thật, đến Long Sơn, rất dễ dàng bắt gặp hình ảnh những người diện đồ bà đen, búi tóc, chân trần, đi lại ngoài phố chợ khiến khách lạ ngỡ như đang lạc vào một làng quê Nam Bộ ở cái thời cách đây mấy trăm năm về trước.

< Hình ảnh những người Nam Bộ xưa với áo bà ba đen, tóc búi sau ót.

Theo bà Kiềm, lý do người dân nơi đây có thói quen ăn mặc như vậy là vì ngày xưa, “Ông Trần” lúc nào cũng bận đồ bà ba đen để thuận tiện cho những công việc lao động nặng nhọc hàng ngày. Người dân thấy áo bà ba đen ít lấm bẩn, nên học theo và cho đến nay, thói quen ấy đã in sâu vào nếp sống của người làng Long Sơn.

Tên thật của “Ông Trần” là Lê Văn Mưu, sinh năm 1865, tại làng Thiện Khánh, tổng Hà Thành, quận Giang Thành, tỉnh Hà Tiên (nay là Kiên Giang). Ông là nghĩa binh chống Pháp vùng Bảy Thưa - Láng Linh (nay thuộc Anh Giang) do quản cơ Trần Văn Thành thống lĩnh. Sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, nghĩa binh bị truy sát gắt gao, ông Lê Văn Mưu phải lưu lạc, lánh nạn khắp nơi.

< Người dân làng biển Long Sơn.

Đến năm 1900, ông cùng gia quyến đã vượt biển đến định cư dưới chân núi Nứa, lập nên ấp Bà Trao, nay là xã Long Sơn. Hiện, chiếc thuyền ông Lê Văn Mưu dùng để vượt biển còn gọi là Ghe Sấm, vẫn được lưu giữ và trưng bày tại Nhà Thuyền ở khu di tích Nhà Lớn. Theo bà Lê Thị Kiềm, thì sở dĩ gọi ông Lê Văn Mưu là “Ông Trần” vì vị tiên hiền này có thói quen đi chân trần, để đầu trần, suốt ngày lao động, phong thái chân chất như một người nông dân bình thường.

Ngoài ra, việc đi chân trần, để đầu trần còn mang ý nghĩa “đầu đội trời, chân đạp đất” của bậc anh hùng ngày xa xưa. Cho đến giờ, người dân Long Sơn vẫn tôn kính gọi “Ông Trần” bằng độc nhất một chữ “Ông”. Cụ Võ Văn Chót kể lại:

“Ông đã khai hoang mở đất, còn sẵn lòng cưu mang dân tứ xứ trôi dạt đến đây. Ông cắt đất, cắt ruộng cấp cho người mới đến, kêu gọi dân nơi đây cùng lao động, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau. Ông còn xây chợ, xây trường học rồi bỏ tiền rước thầy giáo từ Bà Rịa về Long Sơn để dạy cho dân chữ nghĩa. Ơn của Ông rất lớn, nên từ bao đời nay, dân làng Long Sơn vẫn một lòng tôn kính Ông”.

Chính vì thế, nên sau khi ông Lê Văn Mưu mất, trong dân gian đã hình thành tín ngưỡng đạo “Ông Trần”. Lấy những lời dạy của “Ông Trần” lúc sinh thời như: “Trai thời trung hiếu làm đầu – Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình” để làm phương châm sống. Đạo “Ông Trần” độc đáo ở chỗ không hề có chuông mõ, kinh kệ, giáo lý, không mê tín dị đoan mà chỉ là những lời được truyền khẩu qua nhiều đời về đạo đức, lối sống.

Bà Lê Thị Kiềm chia sẻ: “Thật ra, đạo Ông Trần chính là đạo làm người mà Ông đã truyền dạy cho con cái đời sau. Lúc sinh thời, Ông vẫn hay răn dạy những phẩm chất làm người như: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, hiếu kính với cha mẹ …”.

Tục “chết chung hòm”

Nghe theo đạo “Ông Trần” không bị buộc phải “li gia cắt ái” mà vẫn được phép lấy vợ, lấy chồng, xây dựng cuộc sống gia đình như bình thường. Ngoài ra, họ còn lưu giữ những phong tục tập quán riêng do “Ông Trần” chỉ dạy nhưng đặc biệt nhất, phải kể đến tục “chết chung hòm”.

< Nhà Lớn Long Sơn.

Theo bà Lê Thị Kiềm, tục này bắt nguồn từ câu “Ông Trần” đã dạy: "Sống đồng tịch đồng sàng, chết đồng quan đồng quách”. Theo đó, khi một gia đình trong làng báo có tang, thì những người hàng xóm xung quanh liền cùng nhau sang giúp đỡ. Người lo khăn áo, người chạy đi thỉnh chiếc “bao quan dùng chung” để về khâm liệm thi hài … và đám tang được gọi là “đám xác”.

Bà Đặng Thị My, được gọi là bà Bảy Chùm, năm nay 85 tuổi, ngụ ấp 1, xã Long Sơn cho biết: “Người đã mất được quấn trong ba lớp. Lớp thứ nhất là 4 thước 5 vải trắng, lớp thứ hai là một đôi chiếu, lớp thứ ba là 4 thước 5 vải đỏ. Sau đó quấn tiếp bằng 5 ruột vải trắng, gọi là “võng thân” – dùng để đưa thi hài xuống huyệt, rồi thi hài mới được đặt vào chiếc bao quan thỉnh ở Nhà Lớn về”.

Dưới đáy huyệt đã được để sẵn một đôi đệm, một đôi chiếu. Sau khi đưa thi hài xuống, người ta dùng 6 tấm lá chằm (lá dừa bện lại thành tấm, người xưa dùng để lợp nhà) xếp vào huyệt, mỗi bên ba tấm, mô phỏng hình nóc nhà hai mái.

Theo bà Phạm Thị Năm, 75 tuổi, thì sở dĩ vậy là do dân nơi đây luôn có ý niệm người đã khuất cũng cần có nhà đẻ không phải bơ vơ, hoang lạnh. Bà Lê Thị Kiềm cho biết thêm: “Xưa Ông dạy: “Sáng tử chiều táng, chiều tử sáng táng”, nên đám xác ở đây được tiến hành rất nhanh, trong vòng 24 giờ đã xong xuôi, hoàn tất. Không cần coi ngày, coi giờ cũng không quàn thi hài quá lâu như những nơi khác”.

Sau khi an táng xong, chiếc “bao quan dùng chung” kia lại được kính cẩn đưa về Nhà Lớn. Chúng tôi may mắn được đưa đi xem chiếc bao quan đã ủ ấm thi hài hàng ngàn người đã khuất tại Long Sơn. Chiếc bao quan được đặt trong khu nhà hội.

Qua vài lớp khóa, cánh cửa căn phòng nhỏ mở ra, ánh sáng buổi chiều le lói hắt qua những ô thông gió nhỏ chiếu lên chiếc bao quan màu đỏ như máu nằm im lìm trên hai chiếc ghế gỗ dài … cảnh tượng ấy khiến chúng tôi hơi gai mình. Lại gần một chút mới biết, màu đỏ tươi kia không phải là do sơn phết mà do sáp đèn cầy tan chảy, qua hàng ngàn “đám xác” lớp sáp cứ dày lên và bao phủ hết mặt ngoài của chiếc bao quan.

Cụ Võ Văn Chót, người đưa chúng tôi đi chiêm ngưỡng chiếc bao quan kể thêm: “Nắp của chiếc bao quan này được đan bằng lồ ô (một loại tre lớn – phóng viên), các cạnh cũng được viền bằng thân lồ ô, mặt dưới bằng gỗ, mặt trước được vẽ trang trí hình hoa sen cách điệu. Khi Long Sơn có tang gia, họ chỉ cần liên hệ Nhà Lớn thỉnh bao quan về, đặt thi hài người đã khuất vào, đập nắp, thắp đèn cầy lên, đưa ra huyệt chôn rồi lại đưa bao quan về đặt tại nơi đây”.

Khi được hỏi, tại sao ở Long Sơn lại có tục khâm liệm chung một bao quan hết sức lạ lùng này thì bà Lê Thị Kiềm chỉ cười hiền hòa: “Ngoài triết lý 'chết đồng quan đồng quách' thì Ông dạy làm đám xác như vậy còn là để dân nơi đây tập tính tiết kiệm. Và do an táng nhanh, không cúng bái, giết gà, mổ heo đãi khách linh đình nên hầu như đám xác ở Long Sơn rất ít khi tốn kém. Người phụ giúp chỉ dùng bữa cơm đạm bạc với gia chủ hữu sự rồi về”. Và độc đáo hơn, nghi thức xã tang được thực hiện ngay sau khi chôn cất người đã khuất.

Chúng tôi còn được đưa đi thăm khu mồ mả. Trái với tưởng tượng, khu mồ Ông Trần, có thể được gọi là vị Thành hoàng làng lại khá giản dị như bao nấm mồ khác. Mồ ở đây lại không có bia mộ, với mục đích sâu xa là tránh đi sự khoe mẽ, háo danh của những dòng tộc lớn muốn thể hiện sự giàu có của mình thông qua việc xây mồ mả khang trang.

Bà Lê Thị Kiềm điềm đạm nói: “Tục chôn cất chung một bao quan, mồ mả giản dị mang một thông điệp sâu xa rằng kẻ hèn, người sang, dân nghèo hay người có chức có quyền đều ngang hàng, bình đẳng như nhau. Và cũng là để tránh những lãng phí, rình rang không đáng có”.

Trong khi xã hội ngày càng nhiều những đám tang xa hoa phung phí, những khu lăng mộ được xây dựng hoành tránh để khuếch trương thanh thế liên tục mọc lên, thì tục an táng nhanh gọn, vừa tiết kiệm lại vừa mang lại những triết lý sâu xa của người làng Long Sơn quả thật mang nhiều nét tiến bộ vượt bậc.

Du lịch, GO! - Theo Pháp luật & Cuộc sống, ảnh internet
Dãy Hoàng Liên Sơn rộng 30km, chạy dài hơn 180km theo hướng tây bắc - đông nam, giữa hai tỉnh Lào Cai và Lai Châu đến tận phía tây Yên Bái. Rời Mường Lay, điểm cuối cùng trên quốc lộ 6 dọc cao nguyên Tây Bắc, chúng tôi qua Lai Châu, đi dọc Hoàng Liên Sơn.

Vượt Hoàng Liên Sơn

Ngày thứ tư của hành trình, chúng tôi ghé thăm xã Pú Đao, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. 34km đường thị xã Lai Châu đến ngã ba Bình Lư khá êm ả. Đi thêm khoảng 30km, đèo Ô Qui Hồ, cánh cửa đầu tiên của Hoàng Liên Sơn, hiện ra hùng vĩ hơn bao giờ.

Dài 40km, đèo Ô Qui Hồ (còn gọi là đèo Hoàng Liên) là con đèo dài nhất khu vực Tây Bắc, hơn cả Pha Đin (32km), nằm kéo dài từ đông sang tây trên dãy Hoàng Liên Sơn. Trong nắng chiều vừa đặt chân đến đèo, chúng tôi được tặng ngay một cảnh quan hùng vĩ bởi trùng trùng lớp lớp những dãy núi, chỉ độc nhất con đường quanh co uốn lượn, len lỏi giữa muôn trùng núi và mây.

Thật bất ngờ khi bên kia, đoạn thuộc tỉnh Lào Cai, con đường đèo đang tắm mình trong sương mù của buổi chiều tà, sương giăng mờ cả lối đi.

Lạc bước mây Ngãi Thầu

Cách thành phố Lào Cai hơn 80km, Ngãi Thầu là xã biên giới huyện Bát Xát, nằm trên cao chót vót. Đường về Ngãi Thầu là đường cấp phối, đá lởm chởm, quanh co uốn khúc và có rất nhiều ngầm.

Đường vẫn lên dần. Trời bắt đầu lạnh. Qua Y Tý, Ngãi Thầu đón chúng tôi bằng một bầu trời đặc quánh mây mù, tầm nhìn chỉ giới hạn trong khoảng cách chưa đầy 5m. Sau hơn ba giờ liên tục leo đèo dốc, trung tâm xã Ngãi Thầu hiện ra giữa mây mù chỉ lèo tèo vài ngôi nhà và một trung tâm y tế. Trong cái lạnh cắt da, những em bé gái lấm lem đang rửa mặt trong suối nước trong vắt bên đường, những em bé trai đang cho trâu gặm cỏ bên đường..., như những "tiên đồng" trong trang phục người Hà Nhì má lúc nào cũng ửng hồng.

Mây càng lúc càng dày hơn, vừa lần đường chúng tôi vừa bồng bềnh cảm giác trong mây lâng lâng, nhè nhẹ.

Xe vẫn liên tục xuống dốc. Khoảng xanh bạt ngàn vẫn mở đều, mở đều. Cả vùng thung lũng phía dưới như cô gái xuân thì phơi sắc xuân. Còn gì hạnh phúc bằng khi vừa được dạo trong mây, vừa được ngắm nhìn một góc Tây Bắc ở nơi đỉnh cao vời vợi này!

Nơi sông Hồng chảy vào nước Việt

Qua Ngãi Thầu, đang bon bon đổ dốc bỗng có tiếng nhạc vui nhộn giữa trời thanh vắng. Hai cô gái Mông đang về Ngãi Thầu. Trên tay là chiếc máy cassette to đùng với năm cuộn băng, chưa kể một cuộn đang cất tiếng hát véo von trong máy. "Đi Ngãi Thầu đấy!". Hai bạn đi tìm tình yêu phải không? Hai cô cười bẽn lẽn nhưng trả lời rất thật lòng "Ừ đấy!". Bao giờ tới? "Tối là tới mà. Nghe hết băng là tới". Vậy bao giờ về? "Mai về. Lo gì”.

Hơn 40km xuôi đường dốc quanh co chúng tôi qua xã A Lù, về AMuSung. Đồn biên phòng Lũng Pô đóng trên một đỉnh dốc nhỏ, xuôi theo con dốc này xuống phía dưới là cột mốc số 92. Đứng từ cột mốc này, chúng tôi đã thật gần với điểm giao nhau giữa dòng Lũng Pô và sông Hồng. Và bắt đầu tại ngã ba này, sông Hồng sau khi vượt hàng trăm cây số bắt đầu đổ vào VN.

Men theo sườn đồi, thiếu úy Lê Đình Chinh dắt chúng tôi xuống tận mép nước. Tháo tung giày dép, bỏ hành lý trên bãi đất bồi, cả nhóm nhảy ngay xuống nước để nhúng mình trong dòng sông Hồng mát rượi. Đứng tại ngã ba sông, phía bên trái là dòng Lũng Pô hiền hòa chảy giữa hai ngọn núi, trước mặt là nơi thượng nguồn sông Hồng thuộc địa phận Trung Quốc và hướng còn lại là dòng sông Hồng cuồn cuộn phù sa về nước Việt.

Lại vượt Hoàng Liên Sơn

Ngày thứ tám, ngày cuối của hành trình, chúng tôi từ thị trấn Bắc Hà (Lào Cai) theo quốc lộ 70 và tỉnh lộ 279 tiếp tục phần đoạn cuối dãy Hoàng Liên Sơn. Đèo Khau Cọ đón chúng tôi về Yên Bái, đoạn đường cuối của Hoàng Liên Sơn. 30km đèo quanh co uốn lượn vẫn là mây núi trập trùng, men theo một bên núi là dòng Nậm Chăn. Đèo Khau Cọ như một người anh thứ ít nói nhẹ nhàng đón khách.

Theo quốc lộ 32, chúng tôi qua Khau Cọ, Than Uyên, huyện Mù Căng Chải, xứ sở của những thửa ruộng bậc thang đẹp như tranh vẽ, chẳng khác nào cô gái duyên dáng cho chúng tôi ngắm nhìn trước khi "về đích": vượt đèo Khau Phạ để tạm biệt Hoàng Liên Sơn...

Du lịch, GO! - Theo Vi Thảo (TTO), ảnh internet
Núi Mỏ neo thuộc khu vực tổ 11, phường Minh Khai, thị xã Hà Giang, tỉnh Hà Giang.
Đông núi Mỏ Neo giáp xã Ngọc Đường; Tây núi Mỏ Neo giáp phường Minh Khai, Tp. Hà Giang; Nam núi Mỏ Neo giáp liên xã Phù Linh-Kim Thạch; Bắc núi Mỏ Neo giáp phường Trần Phú.
Tổng diện tích núi Mỏ Neo trên 300ha.

Núi Mỏ Neo có hình nón úp với địa hình núi cao hiểm trở, chủ yếu là rừng nghèo và một phần diện tích rừng phòng hộ. Điểm nổi bật nhất khi khách du lịch khám phá núi Mỏ Neo chính là nét hoang sơ, kỳ bí của những tán rừng với nhiều loại gỗ quý hàng trăm năm tuổi, hứa hẹn sẽ làm lữ khách có những trải nghiệm thú vị.

Núi Mỏ Neo, cùng với Núi Cấm kề cận (phường Nguyễn Trãi) tạo thành hai dãy núi bao bọc thành phố Hà Giang, có độ cao được tăng dần từ 150 - 500m với nhiều hang, động, cùng với thảm động - thực vật phong phú.

Vườn sinh thái đa dạng sinh học núi Mỏ neo có khu phục hồi sinh thái có tổng diện tích là 176,5ha, khu hành chính dịch vụ, vườn ươm, bảo tồn gen có diện tích là 20,5ha và khu quản lý, bảo vệ, phát triển rừng có tổng diện tích là 330,47ha.

Khu vực này bao gồm nhiều dãy núi có độ cao tuyệt đối tại đỉnh cao nhất là 770,8m so với mặt nước biển, địa hình chia cắt mạnh, nhiều nơi có dộ dốc lớn, nhiều đỉnh tạo ra nhiều vùng địa hình khác nhau, nhiều hang động, khe vách núi hiểm trở xen lẫn với những vùng đất bằng phẳng. Toàn bộ địa hình được che phủ bởi các loài thực vật lá rộng Á nhiệt đới của vùng núi dát đặc trưng, có giá trị kinh tế cao, giá trị khoa học và đa dạng sinh học.

Đứng bên dòng sông Lô, núi Mỏ Neo kỳ vĩ sáng rực trong nắng chiều rất đẹp, có một vài áng mây màu trắng sữa lững lờ trôi trong cảnh thanh bình. Trong tương lai, núi Mỏ Neo sẽ được kêu gọi đầu tư đầu tư trong và ngoài nước xây dựng hệ thống cáp treo hiện đại, an toàn nối từ núi Mỏ Neo sang Núi Cấm. Ngồi trên cabin du khách sẽ có cơ hội ngắm nhìn toàn cảnh thành phố Hà Giang, sẽ được chiêm ngưỡng sự đổi thay từng ngày của thành phố  và phường Minh Khai.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ internet
triền đê bên kia sông Đuống ấy còn có làng tranh Đông Hồ với hình ảnh gà, lợn nét tươi trong in trên giấy điệp. Nhưng có mấy ai biết rằng nơi đây thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh có một khu lăng mộ của Kinh Dương Vương.

< Cổng làng Á Lữ.

Từ cảm hứng thi ca mà cố nhà thơ Hoàng Cầm đã khắc họa, chúng tôi có chuyến hành trình mùa xuân xuôi theo dòng sông Đuống hiền hòa tìm về mảnh đất Kinh Bắc. Có thể nói bên kia sông Đuống là một miền văn hóa lâu đời với mái chùa Phật Tích, chùa Bút Tháp non nghiên, với Luy Lâu nơi khởi thủy của Phật giáo khi truyền vào Việt Nam.

< Lăng mộ Kinh Dương Vương.

Ở triền đê bên kia sông Đuống ấy còn có làng tranh Đông Hồ với hình ảnh gà, lợn nét tươi trong in trên giấy điệp. Nhưng có mấy ai biết rằng nơi đây thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh có một khu lăng mộ của Kinh Dương Vương.

Nếu ai đó đã từng một lần xuôi dòng sông Đuống theo triền đê văn hóa và chú ý trên đoạn đê từ làng tranh Đông Hồ về chùa Bút Tháp sẽ bắt gặp tấm biển bê tông cỡ lớn có ghi: "Di tích Lịch sử Lăng Kinh Dương Vương-Thủy tổ Việt Nam". Hẳn rằng nếu không có mục đích từ trước hoặc không thích quan sát hai bên đường thì khó có ai biết mình vừa đi qua lăng mộ, nơi yên nghỉ ngàn thu của con người được coi là thủy tổ khai thiên lập quốc của Việt Nam.

< Biển chỉ dẫn khu lăng mộ Kinh Dương Vương trên triền đê sông Đuống.

Men theo con đường bê tông từ đê sông Đuống rẽ xuống theo biển chỉ dẫn, chúng tôi bắt gặp một tấm bia cổ đã bị vỡ một phần được đặt trên bệ bê tông . Nơi miền Thủy tổ ở đây quanh năm u tịch, vắng lặng đến khác thường. Cả một khu vườn cây xà cừ cổ thụ chỉ có tiếng gió rít qua từng khe lá lạnh tê tái cõi lòng. Nhưng câu xà cừ cổ thụ ở đây theo chúng tôi được biết đã có tuổi đời hàng trăm năm, có nhiều gốc cây hai, ba người vòng tay ôm cũng không xuể.

Tìm kiếm một bóng người cùng chung mục đích với mình cũng chẳng thấy đâu, chúng tôi phải đợi mãi mới bắt gặp một ông lão lững thững từ phía chân đê đi lại.

< Đền Kinh Dương Vương tại thôn Á Lữ.

Ông lão ấy tự xưng là người trông coi khu lăng mộ vị vua Thủy tổ Việt Nam: "Tôi là Vương Hữu Thông, đã trông coi khu lăng mộ Kinh Dương Vương từ nhiều năm rồi". Sau khi biết chúng tôi là người từ phương xa đến thăm quan và muốn hiểu biết chút lịch sử về nơi này, ông lão đã mời khách vào một căn nhà nhỏ trước khu lăng mộ và bắt đầu kể chuyện. Theo ông Thông, Kinh Dương Vương được người đời truyền kể lại rằng thuộc bộ lạc Dâu, cư trú tại vùng phía nam sông Đuống, thuộc tỉnh huyện Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay.

Không chỉ Kinh Dương Vương mà người con của ông là Lạc Long Quân cũng từng sinh ra và lớn lên ở mảnh đất này. Ông Thông nhấn mạnh: "chính khu lăng mộ của Kinh Dương Vương hiện ở thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh quê hương chúng tôi vẫn còn dấu tích đến ngày nay là một bằng cứ, căn cứ để khẳng định gốc tích của Kinh Dương Vương".

< Đền Kinh Dương Vương.

Khu di tích lăng mộ Kinh Dương Vương đã được Bộ Văn hóa Thể thao (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích cấp quốc gia từ năm 2008. Hiện nay, khu lăng mộ Kinh Dương Vương nằm ở ngoài đê sông Đuống trên một nền diện tích khá rộng, khoảng 1 ha.

Theo thông tin do ông Thông cung cấp từ tư liệu hiện đang lưu giữ ở đây thì vào năm 1949, khu lăng mộ và đền thờ Kinh Dương Vương đã bị thực dân Pháp tàn phá gần như toàn bộ, chỉ còn vài tấm bia đá, cột đá là còn hình hài. Đến năm 1971, chính quyền địa phương đã cho xây dựng lại trên một diện tích khá khiêm tốn.

< Có lẽ chỉ vào ngày lễ hội 18-1 âm hàng năm khu lăng mộ Kinh Dương Vương mới đông đúc, náo nhiệt.

Phải đến năm 2000, tỉnh Bắc Ninh mới cho đầu tư xây dựng lại khu di tích lăng mộ, đền thờ Kinh Dương Vương như hình hài mà mọi người thấy hiện nay. Đền thờ hiện lưu giữ nhiều đạo sắc phong có niên đại từ năm 1810 đến 1924 và một bức đại tự có chữ Đại Nam tổ miếu. Tuy nhiên, theo ông Thông, quy mô và mức độ chuẩn xác trong các công trình phục dựng lại lăng Kinh Dương Vương so với trước đây vẫn còn là một điều đáng phải bàn.

Sau 12 năm kể từ ngày được tỉnh đầu từ, khu lăng mộ này vẫn chưa có gì thay đổi, quá khiêm tôn so với một người được coi là Đức Thủy tổ Việt Nam. Mặc dù có nhiều đoàn du khách đến thăm hơn xưa, nhưng thực sự lăng mộ của đấng Thủy tổ Việt Nam vẫn gần như bị chìm vào quên lãng trong tâm thức người Việt.

< Chùa thờ Phật trong khuôn viên đền Kinh Dương Vương.

Một nhà thơ xứ Kinh Bắc đã từng có những câu thơ rất hay về khu lăng Kinh Dương Vương như sau:

Lăng Kinh Dương Vương nhỏ nhoi bình dị,
Địa chỉ thiêng tồn tại muôn đời.
Cỏ vẫn non tươi thời tiền sử, mơn mởn xoè chín hướng mười phương,
Người khai mở giang sơn bờ cõi nằm yên trong tâm thức cháu con.
Đâu phải một đêm mà xong sự nghiệp,
Đâu phải một ngày có cả giang san.

Những câu thơ của nhà thơ Kinh Bắc đã nói lên tất cả ý nghĩa lơn lao của một con người xuất hiện trong truyền thuyết mà đã được dân tộc lịch sử hóa và tôn thờ. Ở miền đất Thủy tổ Việt Nam hiện nay tại khu đền thờ Kinh Dương Vương còn có ban thờ Lạc Long Quân và Âu Cơ.

Tất cả họ đều được phong là Thủy tổ, Quốc tổ và Quốc mẫu và đều chiếm một vị trí thành kính, ngưỡng vọng trong tâm thức người Việt Nam. Cũng trong khu đền thờ Kinh Dương Vương còn giữ rất nhiều đạo sắc phong, thần phả, đồ thờ tự, câu đối, bia ký có giá trị đã chứng tỏ việc thờ cúng các vị Thủy tổ dân tộc ở Á Lữ có từ rất xa xưa.

Qua đó, khẳng định vị trí quan trọng của khu di tích trong đời sống tinh thần của người dân địa phương cũng như sự tôn thờ, ngưỡng vọng của các triều đại lịch sử đối với tiên tổ.

Ông Thông cho biết: "Những bức đại tự, câu đối, sắc phong hiện còn lưu giữ tại đây cho thấy Lăng Kinh Dương Vương thời xưa được xếp vào hàng miếu thờ đế vương các triều đại, mỗi lần tổ chức quốc lễ đã ban sắc, gia phong mỹ tự, sai quan đến tế lễ trang nghiêm, trọng thể, đồng thời cho tu bổ, tôn tạo và lập bia...".
Lăng Kinh Dương Vương Đức Thủy tổ nước Việt là nơi cất giữ, cố kết tâm hồn Việt thành dân tộc, thành quốc gia từ bao đời nay. Mỗi lần đến đây, lịch sử mấy ngàn năm như lời nhắc mỗi người dấu thiêng thời mở nước.

Truyền thống và dấu tích cội nguồn dân tộc với hình tượng, câu chuyện về Đức Thủy tổ Kinh Dương Vương luôn được cái bậc cao niên trong làng truyền kể lại cho lũ trẻ. Chính vì thế ước vọng và niềm tự hào cội nguồn đã ăn sâu, bám rễ vào lớp lớp người ở nơi đây. Ba năm trở lại đây, lễ hội tưởng nhớ Đức Thủy tổ Kinh Dương Vương được chính quyền và nhân dân địa phương tổ chức khá long trọng. Lễ hội diễn ra trong 3 ngày ( 6, 17, 18 tháng Giêng Âm lịch).

Du khách thập phương sẽ được chứng kiến lễ dâng hương tại đền thờ Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân - Âu Cơ, nghi thức rước kiệu từ Đền ra Lăng Kinh Dương Vương và từ lăng trở lại Đền theo nghi lễ truyền thống. Trong đoàn rước có các hoạt động như: múa lân, múa rồng, điểm nhấn là rước kiệu Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân - Âu Cơ, tổ chức tế lễ theo nghi thức cung đình...

Tuy nhiên so với Quốc giỗ diễn ra hằng năm ở Đền Hùng, Phú Thọ thì lễ tưởng nhớ Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân - Âu Cơ ở Thuận Thành, Bắc Ninh thật quá nhỏ bé và chưa xứng tầm.

Đặc biệt là thực trạng hiu quạnh, quên lãng ở khu lăng mộ Kinh Dương Vương vào những ngày không lễ hội. Chúng tôi thiết nghĩ những mong ước của ông quản lăng Thông cũng là trăn trở của bao người con dân Việt.

Nếu Kinh Dương Vương đã được xưng tôn là Đức Thủy tổ hay Vương Thủy tổ của Việt Nam thì khu lăng mộ, đền thờ cần được quan tâm đầu tư hơn nữa. Đặc biệt là việc giáo dục truyền thống, ý thức cội nguồn cho thế thệ trẻ cả nước, chứ không chỉ bó hẹp việc truyền kể cho dân làng Á Lữ như hiện nay...

Du lịch, GO! - Theo Báo Doanh Nhân, ảnh internet
Nhắc đến đặc sản xứ Tuyên, là nhắc đến cơm lam, cam sành… Thế nhưng, trong những thứ “của ngon vật lạ” ấy, bánh cuốn, món bánh “giản dị đời thường” lại đang dần trở thành một món ăn được nhiều du khách xa gần biết đến.

Điểm khác biệt của bánh cuốn Tuyên Quang chính là ở nước chấm. Nếu ai đó đã có dịp thử các món bánh cuốn ở những vùng miền khác nhau sẽ thấy được sự khác biệt trong nước chấm của bánh cuốn Tuyên Quang. Theo chị Hoàng Thị Liên (phường Minh Xuân, TP Tuyên Quang), một người tráng bánh cuốn trên 20 năm nay thì nước chấm phải là nước ninh xương, thứ nước ấy phải sánh, có vị đậm đà mà vẫn cho cảm giác “dịu ngọt” của xương hầm ở đầu lưỡi mỗi khi nếm thử.

Cũng theo chị Liên, nước chấm sẽ không thể ngon nếu thiếu gia vị như hạt tiêu, ớt, chanh, hành khô chao mỡ và một chút lá mùi thái nhỏ. Tất cả tạo nên một bát nước chấm chắc chắn không lẫn vào đâu được của món bánh cuốn nơi đây.

Nếu như ở Việt Trì (Phú Thọ) có bánh cuốn nhân thịt ngóe, ở Cao Bằng có bánh cuốn thịt vịt, ở Hà Nội có bánh cuốn Thanh Trì và bánh cuốn trứng cà cuống phố cổ, ở TP Hồ Chí Minh có bánh cuốn “Hạt gạo làng ta”… thì ở Tuyên Quang lại có món bánh cuốn chả viên rất riêng biệt. Chả được làm từ thịt lợn địa phương, giống lợn thơm ngon và chắc thịt, sau khi băm nhỏ thịt sẽ được trộn với nấm hương và mộc nhĩ vùng cao, tiếp đến được nắm thành viên nhỏ, chả được rán chín trước khi ăn kèm với bánh cuốn.

Viên chả ngậy mà không quá béo, thơm ngon ăn kèm với bánh quả thực là rất hợp. Bên cạnh món chả viên, nhiều du khách khi đến Tuyên Quang cũng rất thích ăn bánh cuốn với món chả quế, giò lụa của địa phương hay là bánh cuốn ốp với trứng gà ta. Chị Nguyễn Huyền Trang (Ba Đình, Hà Nội) cho biết: Chị rất hay lên Tuyên Quang đi lễ chùa đầu năm, cứ mỗi dịp đến đây là chị phải tìm ngay những tiệm bánh cuốn ngon để thưởng thức. Là một người sinh sống ở Hà Nội với rất nhiều món bánh cuốn ngon đặc sản nhưng theo chị Trang, bánh cuốn xứ Tuyên vẫn thực sự rất hấp dẫn mà nhiều khi khiến chị nhớ đến “nao lòng”.

Chị Nguyễn Thị Xuyến tổ 25 phường Minh Xuân (TP Tuyên Quang) cũng là một người có thâm niên tráng bánh cuốn với hơn một chục năm trong nghề. Bánh cuốn của chị Xuyến rất đắt hàng, tiệm bánh nằm trong con ngõ nhỏ dẫn từ hồ Minh Xuân vào lúc nào cũng đông khách từ sáng đến đêm. Chị Xuyến chia sẻ:  Bánh phải được tráng bằng ba loại gạo phối hợp ngâm ủ trong đêm, đến sáng gạo được xay và tráng ngay cho khách, vậy nên bánh của chị tráng luôn mềm, dẻo nhưng vẫn dai và đặc biệt hơn cả là bánh phải mỏng để đạt yêu cầu của món ăn này.

Nhân bánh ngoài việc cho mộc nhĩ, nấm hương, ruốc thịt hay ruốc tôm thì chị Xuyến còn cho thêm một vài thứ gia vị mà theo chị gọi là “bí quyết nhà nghề” nên càng làm cho bánh cuốn thêm hấp dẫn, lạ miệng. Cũng theo chị Xuyến, nghề làm bánh cuốn nhất là bánh cuốn tráng ăn ngay thực sự vất vả, thức khuya dậy sớm để mang đến cho khách hàng những đĩa bánh ngon, nóng hổi. Người tráng bánh phải là người có kĩ năng tốt, “luôn chân luôn tay” để phục vụ rất nhiều người trong một khoảng thời gian ngắn, không để khách hàng phải đợi lâu.

Ở Tuyên Quang hiện nay có rất nhiều tiệm bánh cuốn ngon có tiếng, được nhiều người ưa thích và cùng giới thiệu cho bạn bè, trong đó phải kể đến như: Bánh cuốn Minh “rạp” (gần rạp Tháng 8, TP Tuyên Quang), bánh cuốn bà Lìn gần đền Cảnh xanh, bánh cuốn Xã Tắc (TP Tuyên Quang), bánh cuốn Cầu Chả (Km số 5 Trung Môn, Yên Sơn), bánh cuốn Thảo (tổ 6 Phan Thiết)...

Người con của thành Tuyên đi xa hay về gần luôn nhớ món bánh cuốn nóng, xuýt xoa húp nước trong cái ngày đông lạnh giá. Thế mới thấu hiểu hết được hương vị của quê hương và càng thêm yêu mảnh đất này cũng như sức hấp dẫn của nó với những du khách khắp mọi nơi dù chỉ một lần đặt chân đến Tuyên Quang.

Du lịch, GO! - Theo Tindulich, ảnh internet

Friday, 1 February 2013

Tết đến nhiều người về quê thăm nhà, tụ họp gia đình sau một năm vật lộn với cuộc sống. Gần đây xuất hiện khuynh hướng đem cả gia đình đi du xuân, vừa trọn nghĩa sum vầy lại vừa được nghỉ ngơi và rong chơi ngày xuân...

Muôn nẻo đường Xuân

Bà Trần Bạch Tuyết (80 tuổi, giáo viên về hưu) đã lên chức cụ từ nhiều năm nay. Thế nhưng hiếm tết nào hàng xóm lại không gặp cảnh bà tất bật balô cùng gia đình cô con gái và các cháu ngoại lên đường du xuân. Xa thì đón tết ở Hà Nội để trải nghiệm cái lạnh miền Bắc, gần thì chọn một bãi biển đầy nắng giữa miền Trung.

Cô Hoàng Lan (55 tuổi), con gái bà Tuyết, tâm sự: “Con cháu trong nhà đứa đi học xa, người thì có gia đình riêng, kẻ Bắc người Nam nên một năm chỉ có dịp tết là dịp sum họp đầy đủ mọi người. Cứ đến mùng hai tết, sau khi lo xong các thủ tục cúng ông bà tổ tiên là đại gia đình chúng tôi bao gồm bà, bố mẹ và các cháu lại cùng lái xe du xuân xa nhà”.

Khẳng định đã “không còn ăn tết ở nhà từ nhiều năm nay”, chị Trần Hồng Ngọc (29 tuổi, nhân viên ngân hàng) cho hay dù đang sinh sống ở TP.HCM nhưng năm nào cũng bay về Hà Nội rồi đưa cả gia đình gồm bố mẹ, em trai đi ăn tết xa. Chị giải thích: “Cuộc sống ngày càng đầy đủ, mọi người biết hưởng thụ nhiều hơn. Cứ tết đến, cả nhà chúng tôi lại lên kế hoạch chọn một điểm đến trong khu vực châu Á rồi cùng nhau lên đường ngao du”.

Với nhiều gia đình, du lịch ngày xuân còn là một cách để ngày tết kéo dài hơn với những niềm vui của năm mới. Ở tuổi ông bà, vợ chồng bác Lê Thanh Tuấn và Nguyễn Thị Phi (58 tuổi, giáo viên nghỉ hưu) cho rằng sau những ngày cận tết nhộp nhịp mua sắm, trang hoàng nhà cửa, bàn thờ, đón khoảnh khắc giao mùa giữa năm mới và năm cũ, rồi mùng một họp mặt gia đình… thì tết gần như đã hết khi mọi thứ trở lại như cũ.

Để tận dụng những ngày nghỉ còn lại, hai vợ chồng bác thường “lập nhóm” với gia đình hai cô con gái đang sinh sống ở Úc để cùng tận hưởng không khí tết ở một nơi xa lạ. “Đi đến đâu là chúng tôi chụp hình, gửi email cho người thân ở nhà, thỉnh thoảng còn gọi điện thoại để “truyền hình trực tiếp” không khí lễ hội ở nơi chúng tôi có mặt. Những lúc như vậy người thân cũng thấy rất thú vị và hiểu rằng không phải vì vui thú bản thân mà chúng tôi quên họ”.

Thói quen “đón xuân xa” cũng lan qua rất nhiều người trẻ độc thân đam mê du lịch bụi. Bất chấp những “cặp mắt khác lạ” hay “lời xầm xì” của người xung quanh, cứ đến giao thừa là anh Nguyễn Chí Linh (nhân viên truyền thông) lại bước lên một chuyến bay và nối dài danh sách gần 60 quốc gia và vùng lãnh thổ đã chu du. Vừa hoàn thành chuyến đi Pakistan, Linh đã lên ngay kế hoạch du lịch bụi đến Kenya và Tanzania vào Tết Quý Tỵ.

“Với tôi, tết là ngày lễ truyền thống không thể thiếu của người Việt Nam, nó mang một cảm xúc rất khó tả. Nhưng không phải nhất thiết trong ngày đó mới thể hiện tình cảm của mình. Điều quan trọng là cái tâm của mỗi người trong những ngày còn lại của năm”, anh nói.

Thèm da diết một lát bánh chưng

Du lịch ngày tết được đánh giá là có phần đắt đỏ hơn ngày thường. Nhưng bù lại, xuân trên những cung đường trở nên đặc biệt bởi “Một năm có lẽ tết là mùa đẹp nhất vì đường phố được trang hoàng lộng lẫy hơn, khách sạn nhà hàng cũng đón tiếp khách nhiệt tình hơn” - cô Hoàng Lan giải thích. Nhờ những chuyến đi xa như vậy, những bữa ăn ở nhà hàng đã trở thành cơ hội quây quần gia đình, mọi người hỏi han nhau sau một năm không gặp, đồng thời có cơ hội đi du lịch vui thú cùng nhau.

Du lịch tâm linh, thăm viếng chùa chiền cũng là một phần không thể thiếu trong chuyến du lịch bụi ngày xuân, dù ở trong nước hay nước ngoài. Gia đình chị Trần Hồng Ngọc đã từng có một chuyến du xuân đáng nhớ ở Indonesia. Gia đình chị đi Bali mùa tết năm 2010, cả nhà thuê hai xe máy rồi cùng nhau lái đến các ngôi đền linh thiêng như Tanah Lot, Besalik…

“Ngoài tết ra thì thật hiếm có cơ hội nào trong năm để làm những việc như vậy. Đi xa nhiều sẽ thiếu không khí tết, thậm chí có lúc đang ở nước ngoài cũng thèm da diết củ dưa hành và lát bánh chưng, nhưng chúng tôi luôn cảm nhận được không khí vui vẻ, nhộn nhịp ở một nơi hoàn toàn mới mẻ” - chị Ngọc chia sẻ.

Những gia đình có “thâm niên” đón xuân xa nhà thì rỉ tai nhau bí quyết “mang tết lên đường đi” bằng cách không bao giờ quên nhét vào balô một chiếc bánh tét hay gói mứt cổ truyền.

“Ngày tết đến, tôi thường đặt những đòn bánh tét hay bánh chưng ngon, gói cho thật chặt và chiên bằng cách lăn nước những chiếc lạp xưởng hay làm thịt muối cho vào lọ - anh Nguyễn Chí Linh kể về thực phẩm du xuân của mình - Bạn nhớ mang theo một ít mứt dừa hay mứt gừng để có thể ngồi ở quán cà phê nào đó nhấm nháp cùng với trà. Hạt dưa hay hạt bí cũng là món ăn vặt lý tưởng trên đoạn đường di chuyển bằng xe buýt hay tàu lửa”.

Theo các công ty dịch vụ cho thuê xe du lịch, những xe loại 16-29 chỗ đã được khách đặt thuê gần hết. Giá thuê xe chỉ nhỉnh hơn so với dịp tết năm ngoái 10-15%. Đại diện Công ty Tấn An Gia (Q.Tân Phú, TP.HCM), đơn vị chuyên cho thuê các loại xe, cho biết hiện nay xu hướng các gia đình tập họp với nhau cùng tổ chức tour riêng khá phổ biến vì tiết kiệm được nhiều chi phí. Những dòng xe cỡ nhỏ phục vụ nhóm gia đình, đặc biệt dòng 16 chỗ, thường hết trước.

Theo khảo sát tại một số công ty du lịch ở TP.HCM, hầu hết đều linh động để phục vụ đối tượng khách gia đình. Nguyễn Minh Mẫn - trưởng phòng truyền thông Công ty du lịch Vietravel - cho biết năm nay nhu cầu các nhóm gia đình du lịch tết tăng khá mạnh. Thay vì đi ghép với những đoàn khách khác, họ chủ động kết hợp lại với nhau đi tour. Để đáp ứng nhu cầu này, công ty có đội ngũ riêng nhằm tư vấn và thiết kế tour cho đối tượng khách này. Tuy nhiên, tối thiểu mỗi đoàn phải có khoảng 15 khách mới có được giá tour rẻ. Nếu lượng khách nhỏ hơn, công ty vẫn đáp ứng nhưng sẽ có mức giá phù hợp riêng.

Du lịch, GO! - Theo TTCN, internet
Khai bút đầu năm tại phố Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã trở thành điểm hẹn thân quen của các ông đồ cũng như người dân thủ đô mỗi độ xuân về.

< Chị Hương (37 tuổi, ở Hà Nội) xin chữ tại ngày hội.

Ở đó họ cùng nhau bày nghiên, pha mực và sáng tạo những đường nét thư pháp mừng năm mới.
Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã trở thành điểm hẹn thân quen để các ông đồ khai bút, tặng chữ đầu năm.

< Một em học sinh xin chữ của ông đồ Nguyễn Trần Đệ - là người chuyên viết thư pháp ở đền Ngọc Sơn, Hà Nội.

Bắt đầu từ sáng 31.1 nhiều ông đồ đã tụ về đây để khai bút. Nhiều người dân thủ đô và du khách cũng tìm đến "phố ông đồ" để xin chữ, tìm hiểu về nghệ thuật thư pháp hay hòa mình vào những câu chuyện đầy thú vị từ những ông đồ.

< Có rất đông các bạn trẻ xin chữ.

< Ông đồ Văn Thùy quê ở Hưng Yên đang cho chữ tại ngày hội.

Ông đồ Văn Thùy - thành viên của câu lạc bộ nghệ thuật thư pháp cho biết: “ Việc xin chữ đã trở thành một nét đẹp của người dân. Những người đến đây xin chữ có cả học sinh, sinh viên, người có tuổi thậm chí cả du khách nước ngoài. Những chữ được xin nhiều nhất là “Hiếu”, “Tâm”, “Phúc”, “Lộc”, “Tài”, “thọ”…

< Nhiều du khách nước ngoài thích thú khi tham quan phố ông đồ.

Được biết, các ông đồ sẽ tặng chữ phục vụ khách tham quan đến rằm tháng giêng (24.2.2013).

Phố ông đồ thực sự là điểm hẹn cho các nhà Nho hội tụ để giao lưu, học hỏi, là không gian văn hóa mang đậm nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt.

Du lịch, GO! - Theo Danviet
Hàng năm, vào mùa nước lên (khoảng từ tháng tám đến tháng mười Âm lịch), ở Cà Mau ba khía từ những hang ổ dày đặc dưới gốc đước, gốc mắm bị chìm trong nước, ba khía nhiều không biết bao nhiêu mà kể chen chúc nhau bám vào những thân đước, thân mắm. Gọi là “Chợ tình ba khía” cho vui chứ thực ra là ở thời điểm này ba khía quần hội cả một vùng, cư dân nơi này gọi là “ba khía hội”.

Họ hàng ba khía sống tập trung ở môi trường nước lợ, nơi các cửa sông, cửa rạch đổ ra biển, ba khía có nhiều nhất ở các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu... Thoạt trông ba khía rất giống cua đồng hoặc giống con chù ụ ở biển Ba Động Trà Vinh nhưng vóc dáng nhỏ hơn, càng và nghoe dẹp có thêm ba vạch ở trên chiếc mai màu sẫm nên “chết danh” ba khía.

Rất ngộ, đúng cữ tháng 8, tháng 10 hằng năm, từng cặp ba khía lềnh khềnh bu kín gốc tràm, mắm. Mỗi năm chúng chỉ xuất hiện khoảng 3 ngày, sau đó chúng tản đi đâu hết và năm sau đến hẹn lại lên. Chúng bám nhau sát rạt từng đôi, từng đôi một dày đặc cả một vùng như thể tổ chức “đám cưới” tập thể vậy. Tầm đó ba khía giao phối, sinh sản, cũng là lúc thịt ba khía chắc và ngon nhất. Nét độc đáo của chợ tình Ba Khía ở Cà Mau đã tạo nên điểm nhấn đặc biệt cho vùng đất này.

Ngay tại vùng đất mũi cũng có nhiều sự phân chia vùng sinh sống của ba khía. Chỉ có vùng Rạch Gốc, Tân Ân là ba khía có thịt ngon, thơm và chắc nịch. Ba khía vùng này ăn trái đước, vẹt đặc biệt là trái mắm đen – thứ cây có nhiều rễ bám sâu vào lòng đất của vùng bãi bồi, hàng năm rụng trái làm đen cả nước – nên gạch son nhiều và thịt chắc, ăn rất thơm. Những người sống ở Rạch Gốc cho biết ba khía có hai loại ngon: Một là loại có càng to màu xanh chuyên sống trong hang, dưới nước và trong các khu rừng ngập mặn. Hai là loại ba khía này càng nhỏ, thân mảnh nhưng chúng kẹp rất đau. Còn loại ba khía ăn trái mắm trắng có gạch màu tro thì ăn không ngon bằng.

Vào mùa ba khía “sánh đôi” những người dân chuyên nghề “làm ba khía” tứ phương gói ghém gạo, muối, nước, nóp ngủ, khạp da bò, khạp ba vú… chất xuống xuồng, neo đậu ở bìa rừng đợi đêm xuống, khi nước lớn ba khía kéo hàng đàn ra. Ban đêm ở rừng “muỗi kêu như sáo thổi”, những người thợ “săn ba khía” mặc áo dày, che kín mặt mũi, chân tay,  lấy vỏ tràm hay lá mắm khô xé nhỏ độn bên trong áo chống muỗi, cầm đuốc, bơi xuồng bắt đầu “mùa săn”. Chỉ cần ghé xuồng vào các gốc đước, mắm ba khía bám đầy không có chỗ trống vuốt nhẹ những "anh - chị” ba khía còn đang say sưa tình tự, cho vào khạp hoặc cần xé đặt sẵn trên khoang. Trong một con nước, một người có kinh nghiệm và cần mẫn có thể bắt được một khạp đầy ba khía.

Ngày trước, nghề làm ba khía bị xem là nghề hạ bạc của con nhà nghèo bởi muốn bắt phải ngủ rừng, ăn cơm bờ bụi, chịu muỗi vắt bu kín mình mẩy. Ca dao cũng ghi dấu mùa “săn ba khía”:
Tháng bảy nước chảy Cà Mau
Tháng mười ba khía hội kéo nhau đi làm
U Minh, Rạch Gốc, rừng tràm
Muỗi kêu kệ muỗi tao ham ba khía rồi.

Người ta còn gọi Cà Mau là xứ sở con ba khía bởi nó gắn bó với người nông dân ở đây từ hồi lập cõi mở đất để đến bây giờ món ba khía muối trở thành món “lừng danh Cà Mau”. Muối ba khía cũng phải có kinh nghiệm và kỹ thuật, quá trình đơn giản nhưng cách pha nước muối thế nào cho vừa là khó, nếu muối chưa đủ mặn, con ba khía sẽ bủng, không để được lâu. Cho nên phải qua hai lần nước muối, con ba khía mới giữ được màu sắc như khi còn sống, thịt vẫn chắc, mặn dịu, ăn ngon. Kinh nghiệm pha nước muối là bỏ hạt cơm nguội vào, nếu hạt cơm nổi lờ đờ là được. Nước muối chuẩn bị xong thì cho ba khía vào khạp da bò hoặc khạp ba vú ngâm. Tuyệt đối không để nước mưa lọt vào nếu không ba khía sẽ bị “trớ”, có mùi hôi. Phần nước muối còn lại trong khạp khi đã ăn hoặc bán hết ba khía dùng để nấu nước mắm rất ngon.

Tương truyền rằng công tử Bạc Liêu Ba Huy rất thích món ba khía muối. Chàng công tử “đốt tiền nấu trứng tỏ ra mình giàu” ấy ăn ba khía để nhắc bản thân mình nhớ cha ông thưở mở đất khai hoang đã đổ mồ hôi sôi nước mắt gây dựng cơ nghiệp. Thế mới biết cái món “chân quê” ấy đâu chỉ dành riêng cho người nghèo mà đó còn là “hồn quê”, là món ăn không thể nhạt phai trong tâm khảm bất cứ người nào đã từng sống, đã từng thưởng thức nó tại vùng sông nước Nam Bộ. Bởi vậy người miền Tây có câu “Đừng lo cưới vợ miệt đồng/ Ba khía cơm nguội ăn ròng cả năm”.

Từ vài năm nay, người ta chế biến thêm một vài món từ ba khía nhằm phục vụ nhu cầu ăn uống đang đòi hỏi ngày càng đa dạng: Ba khía rang me, ba khía rang mỡ hành, ba khía luộc "khan” chấm muối tiêu chanh ớt, cháo ba khía, gỏi ba khía… Độc đáo hơn còn có món canh chua ba khía. Lần về Rạch Gốc, cậu tôi hì hụi nấu canh chua ba khía đãi cháu. Trước tiên, rửa ba khía thật sạch đất bùn, sau đó bóc yếm và bẻ đôi làm hai nửa, tách cả càng, gọng. Tất cả ướp cùng hành lá giã nhuyễn, thêm đường, chút nước mắm, ít tiêu vào trộn đều. Bắc chảo dầu lên bếp, phi tỏi thật thơm rồi cho ba khía  đã ướp vào xào sơ. Khi mùi thơm của ba khía bốc lên cho cà chua đã bổ miếng vào, đảo đều và nhanh tay cho nước sôi để ngội với lượng vừa ăn. Đợi nồi canh sôi bùng lên, lọc trái giác và một ít bắp chuối đã thái chỉ vào. Ba khía chín, nêm gia vị lại lần nữa cho vừa miệng rồi tắt bếp, rắc thêm tiêu. Lần đầu tiên được ăn món canh chua lạ miệng đó, tôi “quất” một bữa no “đã đời”.

Nói gì thì nói, ba khía có chế biến thành trăm món ngon khác thì cũng không “qua mặt” được món nguyên thủy: Ba khía muối! Nếu giản dị thì xúc tô cơm nguội, vừa ăn vừa lấy tay bóc con ba khía muối, nút càng chùn chụt đúng điệu dân miền Tây rặt. Công phu hơn thì trụng ba khía bằng nước cơm còn ấm, tách yếm ba khía, bẻ ngoe, càng ướp tỏi ớt giã nhuyễn, chút đường cát trắng, thêm nước cốt chanh, sắt trái khế thiệt mỏng hay đập dập mấy trái cóc non bỏ vô tô trộn đều, để một chút cho ba khía thấm gia vị… Khi ăn nhất định phải có đầy đủ rau ăn kèm thì ăn món ba khía mới “bắt”, đó là dưa leo, chuối chát, rau thơm, rau răm, rau dừa, bông lục bình… Nhiều người ăn cầu kì còn phi mỡ tỏi cho thơm rồi tưới lên tô ba khía đã ướp để tăng độ béo. Món ba khía lúc này đã trở nên tuyệt hảo, ngon nhức răng. Dưa bồn bồn nhận bằng nước vo gạo ăn với ba khía Rạch Gốc thì ăn “chết bỏ”.

Ba khía giờ không còn là món nhà nghèo mà đã được vinh danh trong menu ở các nhà hàng, khách sạn nhưng tình thiệt ăn ba khía trong nhà lá, chan nước chắt cơm, uống nước mưa hay xúc tô cơm nguội với vài con ba khía ngồi dưới gốc dừa vừa ăn vừa bốc mới cảm nhận đầy đủ chất ruộng đồng sông nước miền Tây. Dân miền Τâу quen sống thanh bạch, mộc mạc; сó lẽ vì thế mà ngaу đến cả món mắm ba khía đặc sản cũng rất đỗi bình dị với dân quê. Tình thiệt, mắm ba khía chỉ ngоn nhất khi ăn với…cơm nguội!

Mấy năm gần đây ba khía Cà Mau không còn nhiều như trước, rừng bãi bồi bị phá, trái mắm đen thưa rụng vì cây mắm bị triệt hạ nhiều, ba khía “tủi thân” rủ nhau đi đâu càng ngày càng vắng. Tự dưng nghe nhói lòng khi nghĩ vào những ngày 30 tháng 8 hoặc tháng 9 âm lịch tới không Cà Mau không còn “chợ tình” ba khía thì Cà Mau có còn là Cà Mau….

Ba khía Nam bộ

Du lịch, GO! - Theo VanVn, internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống