Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Wednesday, 6 February 2013

Bánh chưng là món bánh cổ truyền của dân tộc ta từ bao đời nay, là món bánh không thể thiếu được khi thờ cúng tổ tiên khi mỗi độ xuân về. Quen thuộc, nhưng để được nhiều người biết đến, chỉ thưởng thức một lần rồi nhớ mãi có lẽ chỉ có bánh chưng Bờ Đậu với hương vị đặc trưng nhờ bí quyết riêng, truyền từ thế hệ này đến thế các thế hệ sau trong mỗi gia đình ở đây.

Đến với đất Thái Nguyên, nơi được mệnh danh là “ thủ đô gió ngàn”, du khách chẳng thể nào quên hương vị chè xanh đậm đà, thơm ngon. Đặc biệt, chưa thưởng thức bánh chưng Bờ Đậu thì như chưa đặt chân tới mảnh đất này.

Có dịp đi qua Thái Nguyên, bất kể ngày nào trong năm các bạn cũng thấy những nồi bánh chưng nghi ngút khói, không khí tấp lập như tết đang về. Và những ngày này, khi những ngày tết cổ truyền đang đến gần thì không khí nơi đây dừng như đang náo nhiệt hơn. Đặt chân xuống đầu làng, có cảm giác hương vị tết cổ truyền đã ở gần lắm rồi.

Từ nguyên liệu làm bánh cũng đã được người dân nơi đây lựa chọn công phu, kỹ càng. Lá gói bánh phải được lấy từ vùng núi của huyện Định Hóa, mang hương vị đặc trưng của núi rừng Thái Nguyên. Lá phải to bản, màu xanh ngắt được rửa sạch bóng, tươi và lá được chọn phải là lá nếp, không quá già và cũng không quá non.

Với gạo nếp, người dân nơi đây phải tìm mua từ Na Rì (Bắc Kạn), Chiêm Hóa (Tuyên Quang), Định Hóa (Thái nguyên), loại gạo nếp thuần chủng. Nhân thịt lợn là thịt ba rọi tươi, luộc mềm, thái dày được trộn với hạt tiêu đất Bắc. Còn nước luộc bánh cũng được người dân nơi đây kỳ công lấy nước suối nguồn từ núi đá sau làng.

Kỳ công từ chọn nguyên liệu làm bánh, chế biến bánh cũng được mọi người chú trọng trong từng khâu. Cẩn thận và cầu kỳ ngay từ lúc chọn nguyên liệu đến khâu chế biến, vì vậy bánh chưng nơi đây mang một hương vị riêng rất đặc biệt.

Gạo nếp được vo, đãi sạch qua ba lần nước rồi để ráo. Theo người dân nơi đây, gạo sau khi đãi phải để ráo nước, nếu không bánh luộc sẽ bị nát. Đỗ xanh nguyên lõi được đãi sạch rồi đồ chín, để tránh đỗ bị sượng khi nấu bánh, đỗ vo thành từng nắm nhỏ, đặt thêm miếng thịt đã sơ chế vào giữa tạo thành nhân cho mỗi chiếc bánh.

Ở nhà mỗi khi xuân về tôi thường cùng mẹ gói bánh cùng với sự trợ giúp của những chiếc khuôn vuông vắn, nhưng tới đây mới được chứng kiến những người dân lành nghề gói bánh chỉ với đôi bàn tay khéo léo. Một loáng họ đã tạo ra những chiếc bánh đẹp đẽ vuông vắn mà ngay cả gói bằng khuôn cũng khó đẹp bằng.

Khâu cuối cùng là luộc bánh, đây cũng là một khâu quan trọng, những chiếc bánh được xếp vào nồi phi to, phải luộc khoảng 10-12 giờ, giữ lửa đều, nước sôi liên tục và thường xuyên chế thêm nước để đảm bảo nước luôn ngập bánh. Khi bánh chín lá vẫn mang màu xanh tươi, chiếc bánh chắc, vuông vắn đẹp mắt.

Khi thưởng thức miếng bánh Chưng Bờ Đậu, thực khách sẽ không thấy ngán bởi gạo nếp, mà sẽ cảm nhận được vị dẻo thơm của nếp hòa cùng vị béo ngậy của thịt và vị cay cay, thơm nồng của hạt tiêu, cảm nhận như cả đất trời hòa quyện vào bánh. Chỉ thưởng thức một lần sẽ nhớ mãi và cũng quên ngay cái vị ngấy khi thưởng thức đồ nếp.

Những chiếc bánh chưng Bờ Đậu được gói lên không chỉ bằng gạo nếp, đỗ xanh, lá dong mà còn được bao bọc bởi tình cảm, nềm say mê của người dân nơi đây hòa cùng hương vị đất trời riêng của vùng đất này.

Bánh chưng Bờ Đậu không chỉ là niềm tự hào, là nỗi nhớ của những người con Thái Nguyên khi xa quê, mà còn là nỗi nhớ của các thế hệ sinh viên khi rời xa mảnh đất này, là một hương vị khó quên đối với mỗi du khách khi đặt chân đến với “Thủ đô gió ngàn”.

Tết sớm ở làng bánh chưng
Dẻo thơm bánh chưng Vĩnh Hòa
Bánh chưng Tranh Khúc

Du lịch, GO! - Theo Hoàng Hân (TTO), internet
Đền Vua Rộc ở thôn An Điềm, xã Vũ An (Kiến Xương, Thái Bình) còn được gọi là đền "đầu rồng" vì theo thuật phong thủy, đó là vùng đất đắc địa với mũi rồng không bao giờ cạn nước. Đền còn chứa đựng nhiều câu chuyện kỳ lạ liên quan đến một vị tướng thời nhà Lý.

Đền lạ trên đất thiêng

Đền Vua Rộc được coi là tứ linh từ (bốn ngôi đền thiêng) nổi tiếng của huyện Kiến Xương. Đền thờ Vua Rộc, một vị tướng phương Bắc nhưng theo gia phả còn giữ lại tại xã Vũ An thì Vua Rộc chính là Đoàn Thượng Công, một vị tướng tài năng thời nhà Lý đã ra sức giết giặc. Sau này được nhà Lý phong tước là Đông Hải và Tây Hải Đại Vương.

Đền nằm trên cánh đồng Rộc của thôn An Điềm, theo như các cao niên thì đây là đất long mạch, tức "đầu rồng". Vùng đất dựng đền cao hơn hẳn so với mặt bằng chung. Khí hậu ở đây rất lạ lùng, mùa đông thì ấm áp, mùa hè lại rất mát mẻ.

Hiện tại, đền Vua Rộc còn tồn tại dấu tích được xác định là "đầu rồng". Phía trước đền có hai cái ao nhỏ được gọi là mũi rồng. Ông Vũ Thượng Đốc, Thủ từ đền Vua Rộc cho hay: "Hai cái mũi rồng không bao giờ cạn nước. Còn phía trên có hai tai rồng lại không bao giờ ngập nước, dù có mưa to hay bão lụt lớn như thế nào".

< Chuông đồng cổ trong đền.

Phía trước cổng đền có gò đất "hình nhân bái tướng", phía Nam lại nổi lên gò đất hình voi phục. Phía Bắc là gò con phượng (người dân gọi là Đồng Xuân, mùa xuân xuất hiện một con phượng từ gò đất này - PV). Trên hậu cung là gò hậu chẩm, tức là gối của vua. Đây là vùng đất cấm kỵ nên dân địa phương không ai dám làm mồ mả quanh đây.

Việc xây dựng đền Vua Rộc tại đây có liên quan đến truyền thuyết lạ lùng. Khi Đoàn Thượng Công bị địch chém đứt đầu nhưng không chết, vua Rộc một tay giữ đầu, một tay thúc ngựa giết giặc. Đến cánh đồng Rộc, vua gặp một bà lão bán nước đã hỏi, liệu người đứt đầu thì sống được không? Bà lão trả lời, người đứt đầu thì chỉ có chết. Tức thì vua Rộc chịu chết và được an táng tại gò đất cao nhất.

Mộ Vua Rộc ngày càng đùn to lên, chính vì vậy dân làng đã xây đền thờ tụng. Nhiều hiện tượng lạ xảy ra tại đây khiến người dân khiếp sợ không dám bén mảng. Chính vì vậy, giữa vùng đất lúa đã còn sót lại một cánh rừng già với các loại gỗ quý và cổ thụ bao quanh đền.

Chuyện đôi rắn mào khổng lồ

Đền Vua Rộc lúc nào cũng thâm u bởi được phủ bởi những cây cổ thụ quý hiếm, qua cổng đền là ngũ môn đồ sộ cao tới 27m là thế giới của rừng nguyên sinh còn sót lại với Thiều Hoa, Bẹ Vàng, Móc, Màng Rề...

< Cây sanh ôm cây cọ cạnh mũi rồng bên phải.

Chính vì vậy mà đền Vua Rộc không bao giờ thiếu vắng những con rắn hổ mang cực độc. Rắn ở đây nhiều đến nỗi xác da rắn lúc nào cũng la liệt khắp các cành cây. Tuy nhiên, ông Đốc khẳng định, rắn ở đây chưa bao giờ cắn ai.

Điều đặc biệt mà nhiều người ở Vũ An khẳng định là đôi rắn mào to như cái phích màu hồng đỏ thường xuyên leo trên mái đền. Chính ông Đốc đã từng hai lần nhìn thấy. Ông Đốc bảo: "Cả hai lần tôi đều nhìn tận mắt, mỗi con một bên mái đình nằm vắt vẻo trông rất khiếp sợ. Tôi còn từng thất kinh khi thấy một con rắn khổng lồ vào tận trong đền để lột xác".

Đem chuyện này đến hỏi ông Phạm Văn Khiêm, Phó Chủ tịch UBND xã Vũ An, ông Khiêm cho hay: "Đúng là đền Vua Rộc có rất nhiều rắn, vì là rừng nguyên sinh nên rắn đến cư trú. Nhiều loại rắn to lớn mà không ai dám bắt, cũng không ai dám đánh đuổi chúng đi vì người dân quan niệm là rắn tu".

Phía cạnh hậu cung đền Vua Rộc còn một rừng tre lạ lùng vài trăm năm tuổi. Mỗi cây tre đều to hơn bình thường, thẳng tắp và dài đến 30m. Đặc biệt, gai tre to như chiếc đũa và cứng như đinh sắt. Tre mọc độc lập không thành bụi quanh một cái hố nhỏ.

Phía cạnh "mũi rồng" bên phải còn một cây sanh ôm chặt và bao quanh cây cọ trông rất kỳ lạ. Thậm chí cây sung cổ thụ cũng có bộ rễ rồng uốn lượn đẹp mắt. Trên thân cây xuất hiện những u bướu hình người với đủ mọi tư thế.

Xâm phạm là bị trừng phạt

< Ao mũi rồng không bao giờ cạn nước.

Vốn là một ngôi đền thiêng nhưng vẫn có trường hợp bị người dân xâm phạm. Theo lời ông Đốc, trước đây đền có 2 cây hoa ngọc lan và nhiều cây gỗ cổ thụ bị hai người dân hạ xuống. Sau một thời gian thì một người chết, người còn lại nằm liệt giường đến 7 năm trời.

Hay chẳng nói đâu xa, ngay trận bão số 8 vừa qua tràn vào Thái Bình khiến nhiều cây lớn trong đền bị đổ. Có người đã tự ý đem gỗ về nhà, nhưng chuyện chẳng lành xảy ra khi đôi mắt tự nhiên cứ mờ dần đi rồi mù hẳn. Đi bệnh viện chữa trị cũng không khỏi, cuối cùng phải lên đền làm lễ thì 3 ngày sau trở lại bình thường.

Thậm chí có người đi chợ qua cổng đền, vì trời nắng nên mới vào đền hái lá sen làm mũ. Chẳng ngờ, tâm trí cứ bị lú lẫn, ngồi mãi trong đền mà không cách nào ra ngoài được. "Chính vì sự linh thiêng của đền Vua Rộc nên bọn nghiện hút không bao giờ dám bén mảng vào đền hút chích hay trộm cắp gì", ông Đốc cho hay.

Theo tìm hiểu của chúng tôi, ngoài những tin đồn tâm linh, đền Vua Rộc từ xa xưa đã trở thành nơi cầu duyên của các đôi trai gái. Chính vì vậy, vào ngày 5, 6 tháng Giêng hằng năm người dân đều tổ chức lễ hội rất trang trọng. Đền Vua Rộc từng là nơi sơ tán và hoạt động bí mật của Đảng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Năm 2002, UBND tỉnh Thái Bình đã công nhận đền Vua Rộc là di tích lịch sử văn hóa.

Du lịch, GO! - Theo Kienthuc

Tuesday, 5 February 2013

Cặp rắn cao gần 4 mét, con thuyền đi biển của ngư dân, cầu khỉ, khóm lúa, rặng tre, mái nhà tranh... được kết từ hơn 120.000 chậu hoa hiện ra rực rỡ trên đường hoa và sẵn sàng đón người dân tới tham quan tối 27 tháng Chạp.

Như thông lệ, đầu đường hoa Nguyễn Huệ là biểu tượng con giáp của năm được thiết kế cách điệu. Tết Quý Tỵ, cặp rắn cao gần 4 m được đặt ngay lối vào. Hai con rắn chụm đầu vào nhau, đuôi uốn tạo thành hình trái tim - mang thông điệp "Xuân yêu thương". Thân rắn làm bằng mút xốp, quấn vải màu vàng và được các nhân viên kỹ thuật ốp vỏ cây tràm, hàn silicon rất tỉ mỉ, trông xa như từng chiếc vẩy.

Một điểm nhấn khác của đường hoa Nguyễn Huệ là con thuyền lớn dài gần 7 m, mô phỏng kiểu thuyền đi biển của ngư dân Việt Nam. Thuyền được đặt ngay đầu khu vực "Xuân biển đảo" ở cuối đường hoa. Chiếc thuyền đi biển này được cách điệu với một biển hoa tươi, thể hiện mùa đi biển bội thu của bà con, xa xa là hàng dừa xanh, bãi cát trắng, những chiếc thuyền thúng...

Bên cạnh con thuyền là ao sen cùng cây cầu khỉ, đặc trưng của miền Tây sông nước.

Dàn bầu xanh ngắt cùng những tấm liếp phơi cũng xuất hiện giữa đường hoa.

Đồng lúa xanh rì đang trĩu hạt, rặng tre cùng mái tranh thân thuộc của làng quê Việt Nam cũng xuất hiện ở đô thị hiện đại Sài Gòn.

Những chiếc xe ngựa chở đầy hoa cũng là một hình ảnh quen thuộc.

Các nghệ nhân đang hoàn thiện những công việc cuối cùng trước khi đường hoa mở cửa cho người dân vào tham quan miễn phí từ tối mai.

Hoa rực rỡ, tươi tắn như dòng suối chảy dài.

Theo Trưởng ban tổ chức Trần Hùng Việt, năm nay đường hoa sẽ trưng bày hơn 120.000 chậu hoa các loại.

Việc thiết kế giảm tối đa các vật liệu như sắt, thép, bêtông... mà tăng chất mộc; phần lớn trang trí, tiểu cảnh sẽ được nâng lên ngang tầm người để dễ ngắm và khách thưởng ngoạn đường hoa có thể ghi lại nhiều hình ảnh đẹp.

Đường hoa sẽ mở cửa từ 19h tối 7/2 (27 tháng Chạp) đến 22h ngày 13/2 (mùng 4 Tết).

Dulichgo: Rất mong tất cả bạn sẽ thể hiện ý thức văn minh và biết giữ gìn khi thăm vườn hoa cũng như những nơi tham quan khác. Chốn đẹp là của chúng ta, vậy không lý do gì mình lại làm hư hỏng, làm vấy bẩn những chốn ấy nha.

Du lịch, GO! - Theo VnExpress
Tết Nguyên đán chính là dịp tuyệt vời để được nhìn thấy một Việt Nam lung linh màu sắc với những nét văn hóa cổ truyền độc đáo. Thế giới cảm nhận như thế nào về Tết Việt?

Tết âm lịch của người Việt Nam bắt đầu từ đêm giao thừa, ba ngày đầu tiên trong năm mới được coi là ba ngày quan trọng nhất với câu thành ngữ quen thuộc: “Mùng một tết cha, mùng hai tết mẹ, mùng ba tết thầy”.

Tuy vậy, Tết của người Việt Nam thực chất kéo dài tới tận ngày Rằm tháng Giêng với quan niệm “Tháng Giêng là tháng ăn chơi”. Tết là dịp lễ quan trọng nhất, dài ngày nhất đối với người Việt, vì vậy, nó có nhiều nét đặc trưng làm nên phong vị riêng cho ngày Tết:

Hoa Tết ngày xuân

Vì Tết trùng với mùa xuân nên các loại hoa quả dịp Tết vô cùng phong phú. Tết Việt tùy theo từng vùng miền mà đặc trưng với sắc mai, đào, hay quất, hoa cắm bình thì có các loại hồng, hướng dương, cúc…

Trong đêm giao thừa, nếu trong nhà có người xuất hành đi đón giao thừa thì khi về, người đó đều rước về nhà những cành lộc xanh hoặc mua cặp mía còn đủ cành lá về nhà như một cách để mang may mắn theo về.

Tết không thể thiếu mứt quả

Một trong những mặt hàng thực phẩm ấn tượng nhất đối với du khách nước ngoài được bày bán trong dịp Tết đó là những món mứt khô làm từ các loại quả. Mứt quất, mứt khoai lang, mứt bí, me xào, mận xào, mứt dừa, mứt gừng, mứt dâu tây khô, mứt dứa, mứt chuối khô, hạt sen sấy, sen bọc đường, mứt hồng khô… Khi đến Việt Nam vào dịp Tết, du khách thường vô cùng ấn tượng với những sạp hàng Tết bày bán mứt quả và không ai có thể bỏ qua những món ăn tinh túy này.

Lì xì mừng tuổi

Pháo hoa lúc giao thừa đánh dấu thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Kể từ lúc này, Tết chính thức bắt đầu, người ta gặp nhau và “mừng tuổi” nhau. Trẻ em lớn thêm một tuổi, người già sống thọ hơn.

Bánh chưng, bánh tét

Món bánh đặc trưng trong dịp Tết ở miền Bắc là bánh chưng, miền Nam là bánh tét. Bánh chưng hình vuông, bánh tét hình trụ dài, cả hai đều được làm bằng gạo nếp, đậu xanh giã nhuyễn và những xúc thịt lợn được cuốn trong lá rong. Bánh luộc xong dẻo dính, có màu xanh nhạt ở mặt ngoài, món bánh này có thể ăn nguội với củ hành muối hoặc rán lên ăn với xì dầu đều rất thơm ngon.

Tết và ông Táo

Trước khi Tết đến, các gia đình người Việt đều miệt mài đuổi vận đen năm cũ ra khỏi nhà bằng cách lau dọn nhà cửa, trang hoàng, sơn sửa lại, mua thêm quần áo mới, trả hết công nợ, quên đi những chuyện bất hòa, không vui… để tĩnh tâm đón một năm mới sắp sang.

Người Việt Nam có một vị thần rất đặc biệt, được gọi là Táo Quân (vị thần cai quản việc bếp núc, củi lửa trong mỗi gia đình). Mỗi năm, ông Táo lên thiên đình báo cáo tình hình sinh sống của gia đình trong suốt một năm cho Ngọc Hoàng.

Một tuần trước khi Tết đến, vào ngày 23 tháng Chạp, các gia đình người Việt sẽ làm lễ tiễn ông Táo lên chầu Trời. Họ đốt vàng mã, trong đó đặc biệt phải có hình cá chép bằng giấy hoặc cầu kỳ hơn sẽ mua cá chép sống đặt trong thau nước để gần bàn thờ gia tiên mời Táo Quân cưỡi chép lên thiên đình.

Ngày nay, người Việt Nam thường mua đào, quất hay mai để “chơi Tết” nhưng trước đây, trồng cây nêu trước sân nhà mới là “chơi Tết” đúng kiểu. Cây nêu thực chất là một ngọn tre được dựng trước sân, trang trí với cờ đuôi nheo màu đỏ để gọi may mắn tới và ngăn không cho tà khí vào nhà trong suốt một tuần ông Táo “đi vắng”, bận lên chầu Trời báo cáo với Ngọc Hoàng.

Ngày Tết, người Việt Nam luôn hướng tới tổ tiên, không chỉ dâng cơm cúng gia tiên trong ngày đầu năm mà hoa quả cũng được bày biện trên bàn thờ rất đẹp mắt, được giữ nguyên cho tới tận ngày hóa vàng. Trong suốt khoảng một tuần đầu năm mới, nhang và hương trầm được thắp liên tục tạo nên một mùi hương rất đặc trưng cho ngày Tết.

Người Việt Nam cũng rất quan trọng người xông nhà cho mình trong ngày đầu năm bởi người đầu tiên bước qua bậu cửa trong năm mới được tin là người giúp mang lại vận may cho cả gia đình gia chủ. Vì vậy, những người đã có gia đình đề huề và cuộc sống ổn định, vững vàng thường được mời làm người xông đất đầu năm.

Du lịch Việt Nam hãy quảng cáo cho Tết nhiều hơn nữa

Dường như du lịch Việt Nam chưa thực sự quan tâm quảng bá cho dịp Tết cổ truyền của dân tộc. Mỗi khi Tết đến, cả đất nước Việt Nam hòa vào không khí lễ hội, cả dân tộc quên đi những nhọc nhằn trong cuộc sống để tận hưởng những ngày tháng vui vẻ đầu năm. Đó là một thời điểm tuyệt vời để làm du lịch.

Tuy vậy, du lịch Việt Nam trong dịp Tết dường như đóng băng, hầu như không có những tour du lịch hấp dẫn trong dịp Tết để quảng bá cho một nét văn hóa đặc trưng của dân tộc. Trong dịp Tết, khung cảnh Việt Nam nói chung và tại các thành phố lớn nói riêng trở nên đẹp đẽ khác thường. Những sự đầu tư đó đã bị lãng phí khi du lịch Tết chưa được quan tâm thích đáng.

Những tinh túy ngày Tết được thể hiện qua những phiên chợ xuân, các lễ hội, những con đường hoa, đình chùa tấp nập… chắc chắn khiến một tour du lịch văn hóa Tết trở nên ấn tượng và thu hút.

Thời điểm náo nhiệt trước Tết, thời gian hội hè trong và sau Tết đều rất thích hợp để phát triển du lịch với phong vị cổ truyền độc đáo, những tục lệ văn hóa, những trang trí ngày xuân… Tất cả đều vô cùng hấp dẫn. Tết chính là dịp tuyệt vời để được nhìn thấy một Việt Nam lung linh màu sắc với những nét văn hóa cổ truyền độc đáo.

Du lịch, GO! - Theo Pi Uy, Go Southeast Asia
Khu di tích lịch sử Gò Tháp, thuộc xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp sẽ là Trung tâm văn hóa-du lịch lớn nhất vùng Đồng Tháp Mười trong tương lai. Nơi đây hiện còn quần thể di tích của Vương quốc Phù Nam cách đây hơn 1.500 năm; có di tích 2 thời kỳ kháng chiến cùng nhiều tầng văn hóa dân gian. Gò Tháp cũng được xếp hạng di tích khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật, là di tích Quốc gia đặc biệt.

Gò Tháp gồm nhiều gò nhỏ, thấp nằm trên một vùng đất pha cát, ở trung tâm khu vực Đồng Tháp Mười, có hệ thống kênh rạch chằng chịt, hệ sinh thái rừng tràm phát triển mạnh...

Đặc biệt, nơi đây chứa đựng nhiều di tích lịch sử văn hóa của dân tộc và nhân loại, là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của du khách thập phương. Từ những năm cuối thế kỷ 19, các nhà khảo cổ học người Pháp đã phát hiện ra khu di tích này.

Về sau, nhiều nhà khảo cổ học phát hiện nhiều dấu tích, di vật, hiện vật cổ thuộc nền văn hóa Óc Eo. Đồng thời tìm ra được 3 loại hình di tích quan trọng là di tích cư trú với các di vật như: bếp lửa, những mảnh nồi, thanh củi cháy dở, cọc nhà sàn,...; di tích mộ táng được phát hiện ở các gò cát, qua nhiều đợt khai quật đã phát hiện 13 mộ táng, thu được trên 1.000 hiện vật, tùy táng chôn theo như: mảnh vàng có chạm khắc hoa văn, đá quí, đầu tượng, đồ gốm, nhẫn vàng...và di tích kiến trúc được phát hiện ở các gò cao như: Gò Minh Sư, Gò Tháp Mười, Miếu bà Chúa Xứ, Chùa Tháp Linh...Hầu hết di tích kiến trúc tìm thấy nằm sâu trong lòng đất, được xây dựng công phu có tường thành bao bọc xung quanh để chống sự xâm thực của gió và nước, kiến trúc xây dựng ở trình độ cao. Di vật, hiện vật tìm thấy ở đây chủ yếu là các tượng thần Visnu, Siva bằng đá sa thạch, cột đá có chốt, các phiến đá có chạm khắc hoa văn và minh văn.

< Di tích lịch sử và khảo cổ Gò Tháp.

Với kết quả nghiên cứu khoa học trong nhiều năm cho thấy, cư dân cổ Gò Tháp về đây định cư khi nước biển vừa mới rút. Họ có nền văn minh khá cao. Ngoài giá trị về khoa học khảo cổ học, KDT Gò Tháp còn chứa đựng giá trị lịch sử cách mạng. Cách đây khoảng 1.500 năm, Gò Tháp là nơi cư trú của một bộ phận dân tộc có nền văn hóa phát triển, là vùng đất có quá khứ gắn liền với lịch sử của nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á. Gò Tháp, một “ốc đảo xanh” nổi lên giữa vùng đồng ruộng bao la có sức hấp dẫn mạnh mẻ bởi cảnh quan độc đáo cùng nhiều huyền thoại về một nền văn minh cổ với những phế tích đi theo thời gian và chiến tranh. Cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, một bộ phận cư dân người Việt từ đàng ngoài đã vào đây khai hoang lập nghiệp, mở mang bờ cõi trên vùng đất còn hoang hóa với nhiều rừng rậm, sình lầy, muỗi bầy, thú dữ.

Chính vì thế, Gò Tháp không chỉ nổi tiếng về khai hoang, lập ấp mà còn nổi tiếng với địa hình hiểm trở, nơi hội tụ của bao anh hùng hào kiệt chống ngọai xâm giữ nước thời kỳ đầu chống Pháp khi Đảng ta chưa ra đời. Nơi đây là đại bản doanh của nghĩa quân Thiên hộ Võ Duy Dương, Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều thời kỳ đầu chống Pháp (1864 - 1886). Từ năm 1946 - 1948, Gò Tháp là căn cứ địa của Xứ ủy Nam Bộ, Ủy ban Hành chính kháng chiến Nam Bộ, Khu ủy khu 8. Nơi đây từng in dấu chân hoạt động cách mạng của nhiều cán bộ cao cấp của Đảng như các đồng chí: Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Trần Văn Trà, Nguyễn Bình, Nguyễn Thị Thập... Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Tiểu đoàn 502 anh hùng đã đánh sập Viễn vọng đài cao 42m do chế độ Ngô Đình Diệm xây dựng để quan sát, khống chế các hoạt động của quân giải phóng vào tháng 12/1959.

< Kiến trúc độc đáo, nổi bật của chùa Tháp Linh trong KDT Gò Tháp.

KDT Gò Tháp còn là một điểm danh lam thắng cảnh của vùng sinh thái ngập nước. Nơi đây, môi trường sinh thái còn mang nhiều dấu vết hoang dã đã và đang bảo tồn được các thảm thực vật, động vật như: tràm, sen, sậy, năng, lúa trời, trăn, rắn, các loài chim cá... Gò Tháp là một địa điểm chứa đựng các hoạt động tôn giáo và tín ngưỡng lâu đời. Nơi đây có Chùa Tháp Linh, Miếu bà Chúa Xứ, đền thờ hai vị anh hùng dân tộc Thiên hộ Võ Duy Dương, Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều, mộ Hoàng Cô - theo truyền thuyết dân gian cho rằng đây là em gái Vua Gia Long (Nguyễn Phúc Hồng Nga) trong thời kỳ chạy loạn về đây ẩn mình và mất tại nơi này.

< Cầu nối từ khu du lịch Gò Tháp qua khu dân cư.

Hầu như chưa bao giờ Gò Tháp bị ngập hoàn toàn mỗi khi mùa nước lên, kể cả những năm mực nước lũ đạt đỉnh cao nhất. Đứng trên Gò Tháp sẽ thấy bốn bề toàn cảnh bao la của vùng Đồng Tháp Mười. Gò Tháp là một quần thể do nhiều gò nhỏ hợp thành với thế đất uốn lượn nhẹ nhàng, đẹp mắt. Trên bề mặt hiện còn tồn tại nhiều khối đá, những mảnh vụn kiến trúc và nhiều mảng tượng gỗ…Năm 1984, các nhà khảo cổ đã thu được nhiều hiện vật có giá trị khoa học và phát hiện những vết tích của một thành phố cổ đã bị vùi sâu trong lòng đất với những di chỉ đặc trưng của nền văn hóa Óc Eo cách đây trên 1.500 năm; chứng minh rằng nơi đây đã từng tồn tại và phát triển một thành phố thuộc vương quốc Phù Nam vào thế kỷ thứ I-VI sau Công nguyên.

Từ huyện lỵ Tháp Mười, đi theo tỉnh lộ DT 845 hơn 6 km, đến xã Mỹ Hòa, tiếp tục rẻ phải vào xã Tân Kiều đến Gò Tháp. Đây là gò cao nhất. Trên đỉnh gò có gốc cây cổ thụ lớn khoảng 3 người ôm và nhiều gạch đá, dấu tích của những kiến trúc cổ nay đã thành phế tích. Trên sườn gò phía nam hiện còn một hố bom đường kính gần 20 mét, dấu tích quả bom đã phá hủy một ngôi chùa mang tên Tháp Cổ Tự, tương truyền được xây dựng từ thời vua Thiệu Trị những năm 1841-1847. Đến năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm cho xây một tháp hình lục giác 10 tầng cao 42 mét để làm đài quan sát chống phá cách mạng. Đêm 19 rạng 20/12/1959, đặc công quân giải phóng đã dùng mìn đánh sập ngôi tháp này. Và tên gọi Gò Tháp, Đồng Tháp hay Đồng Tháp Mười bắt nguồn từ lời truyền cho rằng xưa kia nơi đây có ngọn tháp 10 tầng, hoặc đây là một ngôi tháp cổ thứ 10 nếu tính ngược lên Ăng-Co (Campuchia), hay đây là vọng gác thứ 10 của nghĩa quân Thiên Hộ Dương - Đốc Binh Kiều.

Cách Gò Tháp Mười 100 mét về phía bắc là Tháp Cổ Tự, ngôi chùa này trước kia ở Gò Tháp Mười đã được dời sang đây năm 1956 sau khi bị bom đánh sập. Hiện nay, ngôi chùa cổ đượm màu hoang phế với những vết tích chiến tranh tàn phá này đã được thay bằng một ngôi chùa mới đẹp và khang trang hơn từ sự đóng góp xây dựng của người dân.

< Lễ hội Gò Tháp.

Khu mộ và đền thờ quan lớn: Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều và Thiên hộ Võ Duy Dương được xây dựng hoàn chỉnh năm 1995 ngay trên nền đồn của nghĩa quân thời chống Pháp cuối thế kỷ XIX. Khoảng giữa khu di tích là một gò hình tròn, nơi trước đây từng có một ngôi chùa tu theo đạo Minh Sư nên gọi là Gò Minh Sư. Trên gò có miếu thờ Bà Chúa Xứ mang tính chất tín ngưỡng dân gian, tiêu biểu cho lòng hướng thiện, đức nhân từ và cứu nhân độ thế…

Với bề dày lịch sử truyền thống và văn hóa đó, Gò Tháp đã được công nhận là di tích lịch sử-văn hóa cấp quốc gia đặc biệt và đang được xây dựng thành trung tâm văn hóa - lịch sử và du lịch. Hàng năm, Gò Tháp có 2 kỳ lễ hội truyền thống dân gian: lễ hội rằm tháng 3 vía Bà Chúa Xứ và lễ hội rằm tháng 11 tưởng niệm 2 vị anh hùng dân tộc là Thiên hộ Võ Duy Dương và Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều.

Mỗi kỳ lễ hội, Gò Tháp thu hút hàng trăm ngàn lượt khách từ khắp nơi về dự. Các lễ hội được tổ chức trang nghiêm, long trọng theo phong cách cổ truyền dân tộc với nội dung cầu an, thỉnh canh, tế thần nông, cúng Thiên Hộ Dương-Đốc Binh Kiều và vía Bà Chúa Xứ. Chính từ những di tích lịch sử nhuộm màu huyền thoại cùng những kỳ lễ hội mang đậm nét văn hóa dân tộc mà Gò Tháp ngày càng thu hút, hấp dẫn du khách.

Khu di tích đặc biệt Gò Tháp hội tụ 3 loại hình: di tích kiến trúc, di tích cư trú và di tích mộ táng. Đây còn là những chỉ dấu quan trọng về các phương diện lịch sử, chính trị, kinh tế, nghệ thuật, tôn giáo của nền văn minh cổ xưa, rực rỡ gắn với Vương quốc Phù Nam từ hàng nghìn năm trước.

Ngoài giá trị khảo cổ, lịch sử, Gò tháp được xem là tâm điểm của vùng Đồng tháp Mười, một trong số ít nơi còn lưu giữ nét hoang sơ của thiên nhiên, với những thảm thực vật phong phú đặt trưng của vùng đất ngập nước. Hiện nay Gò Tháp được tỉnh Đồng Tháp qui hoạch tổng thể với diện tích 300 ha, được chia thành 4 khu chức năng chính là: Khu di tích bảo tồn, bảo tàng 53 ha; khu rừng sinh thái 166 ha; khu dịch vụ 54 ha; khu nuôi thú hoang dã Đồng Tháp Mười 27 ha. Đặc biệt , giữa Gò Tháp sẽ xây dựng Tháp Sen cao 110 mét, phỏng theo ý nghĩa câu thơ của nhà thơ Bảo Định Giang " Tháp Mười đẹp nhất bông sen. Việt Nam đẹp nhất có tên Cụ Hồ".

Du lịch, GO! - Theo Vietnamplus, ảnh internet
Nằm trên địa hình trung du thuộc xã Tịnh Trà (Sơn Tịnh), hồ Sơn Rái như nàng tiên xanh bình yên trong giấc ngủ. Còn núi Đá Chồng như chàng trai bốn mùa gọi gió kêu mưa cho nước hồ luôn đẹp. Nơi đây thiên nhiên có pha một chút bàn tay con người kiến tạo để nên cảnh đẹp Sơn Rái - Đá Chồng ấn tượng.

Hồ Sơn Rái diện tích cả quần thể hơn 10 ha, lòng hồ chứa nước chiếm khoảng 5 ha. Bao bọc các mặt là núi, mặt nam của hồ được ngăn bởi đập nhân tạo đã có từ xưa do biện pháp trị thủy của con người. Sau năm 1975, bờ đập được đắp  to và cao, nâng sức chứa của hồ đến gần 3 triệu mét khối nước.

Hồ nằm ở vị trí thôn Khánh Mỹ, nhận nước từ ba nhánh chính chảy về hồ và có hai nhánh dẫn nước tưới cho đồng ruộng Trà Bình, Khánh Mỹ. Đứng trên đập nước nhìn trực diện với hồ, ấn tượng đầu tiên là sự êm ả của màu xanh và mặt nước phẳng lặng. Chân núi nhô ra mặt hồ, rồi mấy khe nước lớn lại kéo hồ vào trong núi như duyên tình non nước không thể chia xa. Lòng hồ không lớn lắm nhưng kiểu dáng của nó giống Biển Hồ của Thành phố Pleiku.

Phía nam sát với hồ là núi Đá Chồng, trên đỉnh có cụm Đá Chồng, liền dải với núi Giông Tranh và núi Cà Ty. Đá Chồng và Cà Ty là những di tích kháng chiến cấp tỉnh. Khám phá cụm Đá Chồng, mới biết gồm nhiều hòn to bằng ngôi nhà chồng lên nhau. Có chỗ như ghép liền, có chỗ để lộ khe hở. Người địa phương giới thiệu đường lên trời, đường xuống đất, bàn cờ Tiên, giếng Tiên.

Theo đường lên trời tới đỉnh núi rồi thả tầm nhìn tứ phía, du khách sẽ quan sát được nhiều khu vực lân cận, kể cả thành phố Quảng Ngãi ở cách xa mấy chục cây số. Bàn cờ tiên là tảng đá nằm rời một bên cụm đá chính, bằng phẳng như bàn cờ, tương truyền là nơi tiên ông đánh cờ.

Đặc biệt, giếng Tiên từng dệt nên câu chuyện thần kỳ, rằng mỗi năm vào đêm rằm tháng bảy, tiên nữ giáng trần tắm nơi giếng ấy. Mà cũng lạ thật, giữa bề mặt một tảng đá trên đỉnh núi lại có ao nước đường kính hơn hai mét. Người địa phương cho biết vào mùa mưa nước tràn qua miệng thì giếng sâu chừng một thước. Mùa hạ lúc nắng hạn nhất giếng vẫn còn nước sâu hơn hai tấc. Chẳng biết do sương đọng thành nước, mạch ngầm trong tảng đá lộ thiên, hay từ một nguồn nước "kỳ bí" nào chăng?

Khu vực Đá Chồng-Sơn Rái từng lưu lại trong ký ức quê hương chuyện tú tài Nguyễn Văn Danh quyết bắt hổ trả thù cho cha bởi con hổ ấy đã vồ chết cha ông. Từ con đường lớn Dung Quất - Bình Long - Trà Bồng trong kế hoạch có đoạn rẽ vào Sơn Rái. Đối với địa phương, trong đề án xây dựng nông thôn mới có tuyến đường bê tông dẫn vào khu di tích thắng cảnh này. Suy nghĩ của lãnh đạo xã Tịnh Trà có thể tổ chức ngày hội đua thuyền trên hồ Sơn Rái vào dịp tết, đó cũng là cách phát huy ưu thế địa phương, khuyến khích gìn giữ vốn quí văn hóa dân gian và tạo khí thế sôi nổi cho vùng bán sơn địa âm vang tiếng gọi mùa xuân về.

Du lịch, GO! - Theo báo Quảng Ngãi, internet
Trên Quốc lộ 1A từ ngã ba Thị trấn Diễn Châu ngược về phía Tây theo Quốc lộ 7A 8km, bạn sẽ đặt chân lên khu vực lèn Hai Vai – một di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.

< Lèn Hai Vai - Nghệ An.

Lèn Hai Vai là một khối đá tự nhiên khổng lồ có chiều dài 800m, nơi rộng nhất 120m, nơi cao nhất 141m. Lèn gồm nhiều đỉnh, trong đó có đỉnh chính, ngọn lớn có tên là lèn Hai Vai (Lưỡng Kiên Sơn, hay lèn Dặm) và ngọn nhỏ (Hổ Lĩnh Sơn) nổi hẳn lên giữa cánh đồng mênh mông thuộc địa phận 3 xã: Diễn Bình, Diễn Minh, Diễn Thắng.

Theo sử sách thì lèn Hai Vai được tạo nên sau cuộc chấn động trong lòng đất cách đây hơn 50 triệu năm. Qua bao biến thiên, lèn có diện mạo ổn định như ngày nay. Từ năm 1964 các nhà khảo cổ học đã tìm thấy ở lèn xương người hóa thạch, một số công cụ bằng đá và 7 bình gốm. Phát hiện này chứng tỏ lèn Hai Vai từng là địa bàn có người nguyên thủy sinh sống.

Trước đây lèn có rừng cây rậm rạp với nhiều chim muông, thú rừng. Mùa xuân khí hậu mát mẻ, cây cối xanh tươi, muôn hoa khoe sắc. Trong cuốn du lịch Đông Dương của một tác giả người Pháp đã xếp lèn Hai Vai là danh thắng đẹp của miền Trung đất Việt.

Điều hấp dẫn đó là thấp thoáng dưới tán cây là các hang động có cấu trúc độc đáo với nhiều tên gọi khác nhau, gắn liền với những truyền thuyết ly kỳ. Trong các hang động không khí mát lạnh. Trước kia các nho sỹ vẫn vào đây nghỉ mát, ôn luyện văn chương.

Hướng về phía Đông Nam có hang Thắt Cổ. Hang nằm ở độ cao 30m so với mặt đất. Trong hang có nhiều tảng đá với hình thù kỳ dị. Đặc biệt có khối thanh nhũ  mang hình người tựa lưng vào vách đá, phía trên cổ có vân đá nổi lên, vì vậy hang có tên là hang thắt cổ. Ở độ cao 15m so với mặt đất có hang Đa. Dưới đáy hang có một mạch nước mát không bao giờ cạn. Ngoài ra còn có nhiều hang nữa như hang Khản, hang cô Tú, đặc biệt là hang Gươm sâu thăm thẳm.

Đứng ở mỗi góc độ người ta nhìn lèn bằng các hình dáng khác nhau.Trong tâm tưởng người Diễn Châu người ta coi lèn Hai Vai như biểu tượng có nhiều thần bí. Vùng Lý Trai, Đông Tháp nhìn lèn như tấm bảng đá – vùng này thường có người đỗ đạt cao. Vùng Diễn Đồng, Diễn Thái lắm thóc nên lại thấy lèn Hai Vai có dáng người khổng lồ gánh thóc. Vùng Nho Lâm lắm thợ rèn lại nhìn lèn Hai Vai như một cái đe, vùng Diễn Thịnh, Diễn Trung lắm người cắt thuốc bắc lại thấy lèn giống cái dao cầu. Phía Đông vùng Diễn Hoa phụ nữ thanh lịch lại thấy núi như một cô gái để tóc xõa, vai tròn...

Không chỉ thế núi, dáng sông là nét văn hóa một vùng quê. Lèn Hai Vai là địa danh có nhiều lợi thế. Trước đây ngư dân đi biển còn thiếu phương tiện họ xem lèn như ngọn hải đăng. Mỗi lần xa bờ gặp thời tiết xấu, ngư dân Diễn Châu dùng lèn Hai Vai định hướng để đem thuyền vào bờ.

Tốt gió buồm chạy cánh tiên
Chạy khỏi vùng Vạn thấy lèn Hai Vai

Trên lĩnh vực quân sự, lèn Hai Vai là chiến trường ác liệt của những cuộc giao tranh của hai tập đoàn phong kiến Lê – Mạc, thời Nguyễn, lèn Hai Vai là căn cứ địa khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn.

Thời kỳ 1930-1931; 1936-1939 lèn Hai Vai là nơi in ấn tài liệu của Đảng, là nơi tập hợp hợp quần chúng mít tinh biểu tình. Thời kỳ 1939-1945 nơi đây trở thành nơi luyện tập quân sự, dự trữ vũ khí để khởi nghĩa giành chính quyền. Trong những năm cả nước có chiến tranh, lèn Hai Vai dùng làm nơi trú ẩn, nơi cất giấu vũ khí, lương thực, là nơi vọng gác máy bay Mỹ từ ngoài biển... Và hôm nay lèn Hai Vai lại có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của đất và người Diễn Châu. Người dân trong vùng vẫn xem lèn Hai Vai như một bức tường vững chãi che chắn bão gió triều cường để mọi người yên tâm làm ăn sinh sống.

Hiện nay, quần thể lèn Hai Vai đang được huyện Diễn Châu quan tâm bảo vệ, tôn tạo. Có thể nói với cấu trúc độc đáo đa dạng, cảnh quan nhiều màu sắc, vừa có vẻ đẹp mềm mại, nguyên sơ, thanh thoát, quần thể lèn Hai Vai đã thu hút nhiều du khách đến tham quan. Tại núi Hổ Lĩnh Sơn, ngôi chùa Cổ Am thiêng liêng, cổ kính đã được xây dựng lại nằm trên lưng chừng núi. Cảnh sắc thanh tĩnh, hoang sơ của núi rừng nguyên sinh đã trở thành điểm đến hấp dẫn của những du khách ưa thích khám phá thiên nhiên, được đắm mình trong hương hoa, không khí mát lành. Bên cạnh là một tổng thể thiên nhiên kỳ thú thì điều hấp dẫn hơn nữa là lèn Hai Vai gắn với sông Bùng tạo nên bức tranh sơn thủy hữu tình, là địa danh du lich nổi tiếng mà bất kỳ ai khi đặt chân đến Diễn Châu không thể không biết đến.

Núi sông và tình người đã tạo nên nét duyên dáng, thanh cao cho đất và người Diễn Châu. Mãi mãi  lèn Hai Vai, sông Bùng là niềm tự hào và nơi gửi gắm niềm tin, ước mơ, gửi gắm tình yêu quê với những nỗi buồn vui thăm thẳm của người Diễn Châu.

Lèn Hai Vai là biểu tượng về cốt cách, văn hóa, về đạo lý làm người và hầu như đã trở thành máu thịt trong cơ thể, trong tâm thức của người dân Diễn Châu để rồi có đi đâu, về đâu, người Diễn Châu vẫn nhớ về lèn Hai Vai – nơi ấy dáng quê mình với nghĩa tình cao, dài như sông, như núi.

Du lịch, GO! - Theo Báo Nghệ An, ảnh internet
Bình Dương không chỉ nổi tiếng với vườn cây ăn trái Lái Thiêu - hoa quả bốn mùa, mà còn thu hút khách du lịch bởi những món ăn ngon, độc đáo, mang hương vị rất riêng của con người miền Đông Nam Bộ.

Hạt điều

Từ hạt điều người ta có thể chế biến thành nhiều món ăn ngon, hấp dẫn, bổ dưỡng. Theo đông y, hạt điều có vị ngọt, bùi, tính ấm, tác dụng bổ dưỡng, làm dịu, trừ đàm. Rất tốt cho người suy nhược cơ thể, đau họng, ho do phong hàn. Hạt điều không chỉ là một sản phẩm có giá trị dinh dưỡng mà còn đem lại giá trị kinh tế cao.

Bánh bèo bì

Ai đã từng đi qua chợ Búng đều không thể không biết thương hiệu bánh bèo bì Bình Dương nổi tiếng từ nhiều nãm nay. Nằm trên xã An Thạnh, chợ Búng tạo nên tiếng vang trong làng ẩm thực miền Nam với hai quán bánh bèo bì từ lâu đời là Ngọc Hương và Mỹ Liên. Một quán nằm ở sát quốc lộ 13, ngã ba cầu Cống, còn một quán ngay trước chợ Búng gần khu bến xe.

Bánh bèo ngon phụ thuộc bởi bì và nước mắm. Bì là hỗn hợp thịt heo và da heo ram xắt mỏng trộn thính và thêm gia vị cùng tỏi để tạo mùi vị và độ thơm. Thịt heo thì phải chọn loại đùi ngon bọc da, rang vàng ươm rồi hầm nước dừa cho ngấm vào thì mới ngon ngọt và mềm thịt.

Gà quay xôi phồng

Xôi có nhiều loại: xôi đậu đen, đậu xanh, đậu phộng, xôi gấc, xôi cúc. Vật liệu chính để tạo xôi là gạo nếp và tuỳ loại xôi chỉ cần gạo nếp. Một đĩa xôi phồng tròn to chiên vàng đều đặn đặt bên cạnh một đĩa gà quay chín thơm, béo, ai trông thấy cũng muốn ăn.

Ai có dịp qua Bình Dương đều không bỏ qua món ăn đặc sản này. Làm sao có thể chiên một miếng xôi phồng lên tròn to, ruột rỗng, vàng đều thơm ngon? Đó là một bí quyết.

Bò nướng ngói

Bò nướng ngói đặc biệt ở chỗ, thịt bò sau khi nướng giữ được mùi thơm, đồng thời có hương vị rất đặc biệt vì thịt bò chín được là nhờ sức nóng của miếng ngói đốt trên bếp. Bò nướng ngói là món ăn bổ, chứa nhiều chất sắt tốt cho sức khỏe, đặc biệt là phụ nữ, bà bầu.

Ăn bò nướng ngói không thể thiếu bánh tráng và rau thơm để cuốn. Rau thơm có thể dùng là tía tô, chuối chát thái lát, ngải cứu, khế chua, dưa leo… Đặt rau thơm lên bánh tráng, gắp miếng thịt bò vào giữa và cuộn lại rồi chấm mắm nêm. Bò nướng ngói có đầy đủ hương vị: vị ngọt của thịt bò, vị chát của chuối, vị tê tê, hăng hăng của ngải cứu, tía tô, vị chua của khế… cùng với mùi thơm hấp dẫn của mắm nêm.

Bún tôm

Nét đặc trưng của món bún tôm Bình Dương là cách làm bún vô cùng độc đáo, không nơi nào có được vì bún tôm không dùng loại bún làm sẵn bán ở thị trường. Người bán làm bún trực tiếp tại chỗ, tức là khi có khách vào, chủ quán mới bắt đầu ép bột gạo đã làm sẵn và hấp trong nồi nước sôi. Do vậy, sợi bún ở đây nhỏ, mềm mại và trong vắt. Tôm cũng là những con tôm tươi, thịt chắc và ngọt.

Thông thường bún tôm được ăn kèm với bánh đa nướng. Nhiều người mới ăn lần đầu chưa thấy ngon và thích. Tuy nhiên, ăn nhiều lần thì nghiền lúc nào không hay. Nghiền vì vị ngọt của nước dùng, của mùi hành thơm ngát và nghiền luôn cái giá rất bình dân.

Du lịch, GO! - Theo Nguyễn Nhung (Vietnamnet)

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống