Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Thursday, 14 February 2013

Bạn bè tôi ai ai cũng đã đi Hội An (Quảng Nam) vài chục lần mà rồi vẫn thèm thuồng muốn đi nữa. Có người tổng kết: 3 năm đi Hội An 5 lần, mỗi lần đến lại cùng một bạn đồng hành khác và bảo, chỉ có người tình là bỏ ta đi, còn Hội An thì vẫn luôn đứng đó. Cả mùi vị món ăn và không khí phố xá cũng vẫn vậy, chẳng đổi thay.

< Đêm bình dị tại Hội An.

Một Hội An dung dị, văn minh tựa người phụ nữ đẹp mặn mòi, hiểu chuyện thấy dễ mến, càng tiếp xúc càng mê mẩn. Câu chuyện với vùng đất có duyên ấy cứ miên man từ năm này qua năm khác, không dứt ra được.

Sống chậm với Hội An

Nhịp sống ở Hội An gợi cho ta những ngày tháng ở Luang Prabang, kinh đô cũ của Lào. Chậm rãi, khoan thai, mọi đền đài nhà cửa đều xinh nhỏ, giống nhau vô cùng. Có khác chăng là ở Hội An không có núi đồi và ở Luang Prabang thì không có biển khơi.

Quán cơm gà bà Buội chẳng vội vàng gì, cứ bán tà tà tầm trưa là đã hết cơm, hết gà. Khách đường xa quen thói ở thành phố lớn lúc nào cũng sẵn đồ ăn mời chào mà tầm 1g chiều mới qua thì đừng mong còn cơ hội gọi món. Cơm dẻo nóng thơm rưới nước gà mỡ màng, trộn đều với thịt gà thơm phức, hành răm, chu choa, tự dưng người Bắc sao thốt lên tiếng của người Trung, người Nam là sao ta? Vì ngon quá đấy mà.

< Sống chậm ở Hội An.

Quán xá ở các mặt phố tập trung đông khách nước ngoài vẫn màu sắc ấy, từ bao năm rồi nhỉ? Đã hơn chục năm trôi qua kể từ lần đầu tôi gặp gỡ Hội An, nhiều quán mới mở ra nhưng phong cách vẫn trầm, vẫn chậm, vẫn kỹ lưỡng như thế. Quán mới không bị chọi với quán cũ, lại hòa vào với tổng thể chung. Và tôi vẫn ngồi ở một góc nào đấy, có thể là Cà phê Hải, có thể là cạnh chiếc xe đạp mô hình làm bằng tre của quán... , có thể là tì tay lên mặt bàn tết song mây ở quán Tam Tam nhìn ngắm người qua lại, ngắm kẻ lữ khách suy tư góc quán mặt đường đối diện. Cũng có khi cười khúc khích khi một tốp khách Âu trẻ tuổi hưng phấn hát vang trên phố.

< Dây tơ hồng vấn vít vấn vương hồn người lữ khách ở Hội An.

Đến lúc mình quay trở về nơi trú ngụ thì lại không đủ can đảm làm ồn như những người ngoại quốc nọ, tự đi nhẹ nói khẽ cười duyên và còn đưa tay lên miệng ra dấu với bạn khi bạn hưng phấn tăng âm lượng. Tự thấy mình thật ngại nếu làm xao động không gian tĩnh lặng thoảng mùi hương sử quân tử, hương hoa nhài và quấn quít mùi hương ai đốt bên thềm trước khi cài then đi ngủ.

Có "xí" thôi hà

Thời gian càng trôi, càng thấy Hội An thật bé nhỏ. Lần đầu đến còn mỏi gối đi tìm từ dãy phố nọ sang dãy phố kia, nay vừa thong dong lượn hết mấy con đường chính Trần Phú, Lê Lợi, Nguyễn Thái Học... rồi tiến qua cầu sang bên thôn Cẩm Nam đã nhìn thấy bạn mình đang bấm cò... máy ảnh choách choách. Cũng như cảm giác về thăm lại căn nhà nhỏ thời ấu thơ, sao mà bé tẹo, sao mà trong trí nhớ khoảng sân rộng thế, chập chững bước mãi mới băng hết sân ra vườn ngắt một nụ hồng.

< Trong nhà cổ Đức An.

Vậy là mình đã trưởng thành, đã lớn rồi còn Hội An vẫn mãi dung dị thế, vẫn hồn hậu đón ta mỗi lần có dịp ghé. Cho dù là ngày bão lũ, nước dâng thì mình chèo thuyền trên phố; cho dù là ngày nắng đẹp, thảnh thơi chụp ảnh chân dung; cho dù là ngày sụt sùi gió bấc, ta lại nâng bát chè trôi nóng hổi thơm phức vị gừng rồi uống từng ngụm nhỏ tự sưởi ấm trong lòng.

Những phố cổ xinh nhỏ san sát nhà ống quét ve vàng hườm, mái ngói không chỉ có rêu mà còn đầy cỏ bám. Gió từ sông Hoài thổi qua, những đám cỏ dài lại dập dờn rung rinh. Nhà cửa ở Hội An vừa lạ lại vừa quen, vẫn kiểu nhà phố mặt tiền tận dụng buôn bán, vào giữa có sân, bậc thang gỗ lên gác, tường mỏng tiết kiệm diện tích như muôn vàn kiểu nhà xưa trên đất Việt; nhưng ở Hội An là cả một tập hợp nhà phố mang cho ta một hình ảnh khác.

< Những đêm đèn lồng lung linh soi dọc hai bờ sông Hoài.

Đâm ra người Việt vẫn thích ngắm nhà Việt ở Hội An. Tất nhiên có bạn sẽ cự nự mà rằng, nhà phố Hội An mang âm hưởng, hơi hướm, dấu ấn của khách buôn người Nhật, người Tàu; nhưng chắc chẳng ai phản đối điều này, nhà cửa dù kiểu nào chăng nữa, khi đã xây trên đất nước nào thì mang hồn của người dân nước đó rồi. Thời tiết, khí hậu, địa hình, phương hướng, thói quen sinh hoạt dân cư đã định hình phong cách của những ngôi nhà, cho dù người xây là ai, từ đâu đến.

Đi thăm Hội An từ chỗ nọ qua chỗ kia đều có "xí" (chút xíu) thôi, người Quảng Nam cười hồn hậu bảo thế. Phố cổ, chùa Cầu, các hội quán rồi qua Cẩm Nam nhìn nắng rọi qua đám lá xanh ngọc; làm một chuyến đi thuyền trên sông Hoài Phố thăm làng gốm Thanh Hà, làng chài hay đạp xe ra biển Cửa Đại chơi đùa trên bãi cát mịn mênh mông, thảy đều gói gọn trong ngày được.

Nhưng người ta đâu đến Hội An để "điểm danh" các địa điểm nhỉ. Đến chỗ nào cũng đều có "xí" thôi, vậy thì mình phải hưởng cái thú thong dong để kéo dài "cái xí" đó thật lâu. Không nhất thiết phải tìm đến Hội An vào những đêm rằm các nhà đều treo đèn lồng đỏ, đêm nào ở Hội An cũng làm người ta say men tình, đêm nào cũng thấy phố và mình cùng tỏa sáng lung linh, như ngọn đèn chao lụa trước cửa nhà ai.

Du lịch, GO! - Theo Minh Lý (TTO)
Hình ảnh khỏa trần của những sơn nữ miền Tây Bắc có lẽ khiến một số người có cái nhìn phản cảm. Vậy nhưng với nhiều người, họ lại bị cuốn hút, tò mò muốn khám phá nét hồn nhiên của phong tục độc đáo này...

Tại các khe nước, suối nguồn thuộc Mường Pồn, Mường Lay, Mường Tè, thị xã Lai Châu, dọc suối Nậm Lay (Mường Lay, Lai Châu) hay dòng suối nước nóng Púng Hon (Mường Lèo, Lai Châu)...: hình ảnh những cô gái Thái nô đùa, hồn nhiên trong dòng nước trong vắt giữa núi rừng Tây Bắc là hình ảnh dễ bắt gặp khi đến thăm nơi đây. Sau mỗi buổi lao động về, các cô gái nghỉ chân bên suối, làn nước mát lành làm sạch sẽ bụi bặm, trả lại nước da trắng ngần của mẹ, của cha và tinh hoa của núi ngàn đã hòa trộn hàng ngàn năm nay mới có được...

... Bao nỗi mệt nhọc trôi theo dòng nước, con người như được tiếp thêm nguồn năng lượng mới. Đấy là một phong tục đặc sắc và được gắn với cái tên đầy ý nghĩ: “tắm tiên”.

Từ trước đến nay, người con gái truyền thống thường gắn với những hình ảnh nhẹ nhàng, dung dị, kín đáo. Vì vậy hình ảnh khỏa của những cô sơn cước miền Tây Bắc có lẽ khiến một số người có cái nhìn phản cảm. Nhưng với nhiều người, nếu nhìn với ý nghĩ trong sáng của một phong tục đã có từ hàng trăm năm qua: họ lại bị cuốn hút, tò mò muốn khám phá nét tuyệt mỹ cả về tập quán lẫn nghệ thuật về nét đẹp người phụ nữ vùng cao.

Nước nóng ở Púng Hon ở Bản Liềng, Mường Lèo, Lai Châu có lẽ là nơi được nhắc đến nhiều nhất về phong tục tắm tiên, nét đẹp tuyệt tác của núi rừng. Nơi đây còn nổi tiếng với truyền thuyết nàng Huổi xinh đẹp. Trong truyện, Nàng đã vượt qua bênh tật và lấy lại được nhan sắc bởi ngâm mình trong dòng nước nóng Púng Hon...

“Những cô gái nơi đây trân trọng và giữ gìn dòng nước lắm, nước nóng ở Púng Hon cho người già ở bản nước da hồng hào, khiến con ma bệnh tật không thể xâm nhập vào cơ thể...” - Ông Lèo Văn Chai - nguyên Chủ tịch UBND xã Mường Lèo nói, năm nay hơn 80 tuổi nhưng trông còn trẻ lắm.

Bởi thế, như một vị thuốc trời ban, bất kể ai thấy xương khớp mỏi đau, đều ra đây ngâm nước. Hơi nước ngai ngái, nóng hôi hổi xông vào huyết quản khiến mệt mỏi tan biến, thay vào đó là sự sảng khoái, khoáng đạt nhẹ nhàng...

Ngoài bản Mường Tè, Mường Pồn, Mường Lay thuộc Lai Châu cũng là nơi có những tiên nữ giữa đất trời. Ven lối mòn ở các bản Mường đều có ống bương dẫn nước từ khe suối và mỗi con suối đều có bến tắm riêng dành cho phụ nữ. Họ với tấm lưng trần vô tư ngâm mình trong dòng nước mát. Sự tự nhiên đó có lẽ bởi sự đặc biệt, đàn ông nơi đây như thông lệ không bao giờ bước vào thế giới riêng dành cho phụ nữ...

Thân hình tuyệt mỹ của các cô gái ẩn hiện dưới dòng nước biếc trông thực mà ảo đấy. Các cô hồn nhiên té nước trong ánh chiều Tây Bắc, từ những bàn tay như bông hoa ban huyền thoại tung lên muôn ánh cầu vồng. Dòng suối như lòng mẹ ôm ấp vuốt ve tấm thân tuyệt mỹ, sỏi đá nơi lòng suối thêm rạng ngời ngần trắng, chim rừng ngưng hót, gió như ngừng thổi, chỉ còn xanh ngắt đến thẫn thờ ngàn con mắt của cây là đại ngàn. Tất cả như lặng đi trước kiệt tác của núi ngàn Tây Bắc…

Những dòng suối của khắp vùng Tây Bắc thường có những cái tên vô cùng thơ mộng, chở đầy khát vọng về cuộc sống ấm no hạnh phúc, về tình yêu trắng trong chung thủy: Suối Tiên, Suối Mơ, Suối Xuân… Mặc dù các sơn nữ hồn nhiên tắm tiên như vậy, nhưng nếu xuất hiện người lạ, họ lập tức trốn sau tảng đá, hoặc dìm sâu dưới nước rồi mặc quần áo lại.

Ở một nơi khác: người Thái ở Tú Lệ (Yên Bái) ngày nay vẫn giữ nét sinh hoạt truyền thống “tắm tiên”bên dòng suối Tú Lệ.

Tại Tú Lệ có hai bể tắm nước khoáng nóng ngay cạnh dòng suối mát và bên bờ là ruộng nương chín vàng. Mỗi khi chiều xuống, sau một ngày lao động những cô gái Thái tự nhiên  trút bỏ xiêm y thả mình trong những dòng suối trong vắt như để rũ hết những nhọc nhằn và mệt mỏi tìm đến sự nghỉ ngơi tuyệt vời. Tâm hồn họ trở nên nhẹ nhõm...

Lữ khách tới đây cũng có thể cùng tắm, các chàng trai cũng được phép tắm chung, được hòa mình vui đùa giữa thiên nhiên, nghỉ ngơi hay thư giãn. Tuy nhiên tuyệt đối phải giữ khoảng cách và không được có những hành vi xấu, nếu không sẽ bị trai bản và chính quyền trừng phạt.

Quả thật, những con suối tự nhiên Tây Bắc không những là bài thuốc chữa bệnh mà còn đem đến vẻ đẹp cuốn hút cho những cô gái Thái sự vô tư hoang sơ đến kỳ lạ làm choáng ngợp bao lữ  khách đến nơi đây.  Dòng suối được gọi tên là Púng Hon, theo tiếng Thái cổ Púng là dòng, Hon là nước nóng.


Ở Tây nguyên ngàn xưa cũng vậy: người Ba Na, Gia Rai, Ê đê, Cơ Ho, Mạ, Xơ Đăng, Mơ Nông... ăn mặc đơn giản, nam thường đóng khố, nữ thường cuốn váy ở trần.

Giản đơn trong cách ăn mặt nên cũng thuận tiện khi xong buổi làm việc trên rẫy, trên rừng: các thiếu nữ bản làng cứ thoăng thoắt bước xuống suối nô đùa với dòng nước mát mà không cần cởi bỏ thứ gì ngoại trừ nếu muốn không ướt váy.

Nếu muốn giặt váy áo thì sơn nữ sẽ cởi bỏ nó giặt giũ ra khi thân mình đầy đặn đắm trong dòng nước tinh khiết và mát lạnh giữa núi rừng Tây nguyên.

Ngày nay: phong cách cuốn váy cởi trần đa phần thuộc về dĩ vãng, các cô vẫn tắm bên suối hay các vòi công cộng tại bản làng. Thường để nguyên váy áo nhưng cũng nhiều lúc khỏa trần vô tư kỳ cọ bên dòng nước mát lạnh mà không có vấn đề gì.

Không biết có phải từ khi các cô gái khỏa mình trong dòng biếc, những dòng suối già nua trầm mặc chợt nhận ra mình có một trái tim nồng cháy và tâm hồn trẻ trung, để rồi cứ mộng mơ, khao khát một cuộc sống bình dị, yên vui, ước mơ cháy bỏng của bao đời?

Để rồi những ai được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của những dòng suối nguồn trong một chiều các cô sơn nữ tắm tiên, chợt thấy mình trong sáng hơn, thanh cao hơn, như được hòa mình cùng đất và người của Tây Bắc, Tây Nguyên huyền thoại…

Mỗi người một cách nhìn nhận về hình ảnh tắm tiên... nhưng đối với hầu hết những nhà văn, nhà báo, phong tục này là một giá trị đặc sắc đáng để lưu giữ về sau. Thật buồn nếu một ngày nào đó dòng suối vùng cao trở nên bơ vơ vì không còn bóng dáng tiên nữ…

Tục tắm tiên xưa và nay
Tục tắm tiên của người vùng cao
Huyền thoại tắm tiên.
Sơn nữ tắm tiên giữa đại ngàn: quá khứ đã xa?
...

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ Người đưa tin và nhiều nguồn khác, ảnh sưu tầm
Chùa Phật Đà thường được gọi là chùa Lò Gạch, tọa lạc ở số 32, đường Mạc Cửu, phường Bình San, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.

Chùa nằm dưới chân núi Bình San, cạnh lăng Mạc Cửu. Xưa kia, nơi đây có cái lò gạnh bị bỏ hoang. Đến năm 1945, trên bước vân du hành đạo miệt Hà Tiên, Hòa thượng Thích Chí Hoà, (thế danh Nguyễn Văn Tịnh) đã dừng chân tại chỗ này và lập nên một ngôi chùa nhỏ bằng cây lá mang tên là Tịnh Xá Chí Hòa. Và vì cái lò gạch được sử dụng làm chánh điện, để tụng kinh bái sám, nên dân địa phương gọi là Chùa Lò Gạch.

Trong thời gian trụ xứ và giáo hoá tại bổn tự, Hòa thượng đã mở mang khu vực xung quanh và xây cất thêm nhiều am tranh tịnh thất để tiếp Tăng độ chúng.

Năm 1949, Hòa thượng cùng với vài đệ tử sang Campuchia để hoằng pháp. Một năm sau đó, Ngài trở về lại quê hương và tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1954, Hòa thượng viên tịch tại Bà Rịa-Vũng Tàu. Người kế vị trụ trì là Hòa thượng Thích Quảng Tấn.

Ngài Quảng Tấn thế danh là gì, sanh năm nào, ở đâu, hành trạng ra sao, không ai rõ. Chỉ biết rằng sau khi Ngài Quảng Tấn tịch thì bà Dương Thị Thoàn, pháp danh Diệu Trí, người bí mật hoạt động cách mạng với bí danh là Trần Thị Thanh đã đến ở và coi sóc chùa.

Năm 1993, theo nguyện vọng của bà Diệu Trí và Phật tử ở đây, Ban trị sự Tỉnh hội Phật giáo Kiên Giang đã bổ nhiệm Đại đức Thích Huệ Tâm, trú xứ chùa Phước Hưng (Sa Đéc) về trụ trì và đổi tên ngôi Tịnh xá thành Chùa Phật Đà. Do vì trải qua một thời gian dài không người tu bổ nên ngôi Tam bảo vốn hư cũ ngày càng thêm xuống cấp nặng. Thế nên vào tháng 9/1993, thầy trụ trì đã cho khởi công trùng tu, xây dựng mới lại ngôi đạo tràng này.

Năm 1998  với tâm thiết tha quy ngưỡng đường lối tu Thiền của Thiền sư Thích Thanh Từ, thầy xin nhập chúng tu học với Thiền sư tại Thiền viện Trúc Lâm Phụng Hoàng – Đà Lạt. Đến năm 2000, vì bệnh duyên nên thầy phải trở về trụ xứ. Cũng trong thời gian này, thầy được Tỉnh hội bổ nhiệm làm Chánh đại diện Phật giáo thị xã Hà Tiên cho đến nay.

Năm 2009, chùa được trùng tu lại rất khang trang với đầy đủ các phòng nhà cần thiết cho sự sinh hoạt của một Tòng lâm. Mặc dù cơ sở không qui mô nhưng với lối kiến trúc hài hòa, chùa Phật Đà đã góp vào cụm thắng tích “Bình San Điệp Thúy” một danh lam Phật tự thật trang nghiêm, thanh nhã.

Chùa Phật Đà là một công trình nghệ thuật kiến trúc Phật giáo rất độc đáo, giàu tính thẩm mỹ, vừa cổ kính, lại vừa hiện đại làm tăng thêm vẻ đẹp nên thơ của thắng cảnh Bình San điệp thúy ở vùng đất Hà Tiên thập cảnh.

Chùa có kiến trúc theo hình chữ “nhất” mang đậm bản sắc Á Đông, được phối hợp giữa nét kiến trúc cổ và kỹ thuật hiện đại. Quần thể kiến trúc chùa bao gồm chánh điện, nhà thờ tổ, đông lang và tây lang, nhà phương trượng và tăng phòng. Chánh điện chùa có kiểu lò nung gạch, bên trong có tượng một vị bồ tát cầm phương trượng, nét mặt từ bi, tự tại mang hình tượng ngài Mục Kiền Liên đi tìm mẹ ở chốn âm cung.

Khác với kiến trúc thông thường ở các ngôi chùa Việt, chùa Phật Đà không có cổng tam quan, thay vào đó là hai cánh cổng được thiết kế hai bên theo mô típ kiến trúc cổng chùa của xứ Hàn. Điểm nhấn nổi bật của chùa là cây bồ đề nằm chính diện trước sân có niên đại hơn 60 năm.

Dưới gốc bồ đề tôn trí pho tượng Phật Thích Ca với tư thế tọa thiền, điều kỳ lạ là cội rễ của cây bồ đề bao trùm lên bệ tượng và đưa pho tượng lên cao hơn so với vị trí ban đầu. Thân cây có đường kính khoảng 1,5m, nhánh và tán lá xum xuê nhưng toàn bộ cội rễ đều mọc ra phía trước và hai bên mà không hề mọc vào trong sân chùa. Nhiều nhà thực vật học phải thán phục và không hề giải mã được điều kỳ lạ này.

Quả là:

“Đây chùa Lò Gạch núi Bình San
Một thuở hoang vu gội gió ngàn
Núi nhỏ um tùm cây cỏ dại
Chùa quê quạnh quẽ bóng trăng tàn
Nhân duyên pháp Phật hoa thiền nở
Cảnh trí Không môn rợp nắng vàng
Sớm vọng chuông ngân tan niệm tục
Chiều vang mõ nhịp cõi lòng an.”
Du khách đến tham quan Hà tiên thập cảnh, hành hương chiêm bái danh lam thắng cảnh nơi đây thường ghé vào chùa viếng thăm lễ Phật.

Chùa Phật Đà không chỉ đẹp về lối kiến trúc độc đáo mà còn là một không gian thiền định, một chốn thiêng liêng của cõi Phật đường. Nơi đây, nền văn hóa Việt Nam nói chung và giá trị văn hóa, tín ngưỡng tâm linh Phật giáo nói riêng được tôn vinh và gìn giữ.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ báo Giác Ngộ, NTO
Chắc Băng là một con kênh ở vùng U Minh Hạ, thuộc hai huyện: Thới Bình của tỉnh Cà Mau và Vĩnh Thuận của tỉnh Kiên Giang. Kênh Chắc Băng dài hơn 40km nối liền từ ngã ba sông Trẹm đến đầu Vàm Chắc Băng ra sông Cái Lớn. Đây là con kênh thông thương giữa vùng U Minh Hạ và U Minh Thượng.

< Lão nông Sáu Quân, nhà ở kênh Chắc Băng đoạn xã Trí Phải, huyện Thới Bình đã bỏ ra 2 tỉ đồng xây cầu bắc ngang kênh để bà con vào viếng Phủ thờ Bác Hồ dễ dàng.

Huyền thoại về Chắc Băng xưa
Theo Huỳnh Minh trong cuốn “Bạc Liêu xưa”, Chắc Băng là một con kênh nhỏ, chưa có tên. Trong lúc chạy trốn nghĩa quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh đến ẩn náu ở vùng đất này...

Trong lúc lâm bệnh, nghĩ mình không qua khỏi nên ông trăn trối với quan quân rằng: “Cơn bệnh ngặt nghèo này không chữa hết. Chắc trẫm phải băng rồi!”. Về sau, người ta nhớ câu nói “Trẫm chắc băng” nên đặt tên cho con kênh này là Chắc Băng.

Còn theo nhà văn Sơn Nam, địa danh Chắc Băng là do đọc trại từ tiếng Cao Miên “Chap tung”, nghĩa là chim Chằng bè. Cách lý giải này cũng có cơ sở bởi khu vực thuộc xã Vĩnh Phong, Vĩnh Thuận, Vĩnh Bình Nam... huyện Vĩnh Thuận nằm dọc theo kênh Chắc Băng có khá đông bà con Khmer sinh sống. Các vị cao niên kể lại, Chắc Băng ngày xưa có một sân chim rất lớn, tập trung đủ loại chim cò của vùng U Minh, trong đó chim Chằng bè chiếm số lượng nhiều. Chắc Băng xưa là vùng rừng tràm khá âm u, sản vật vô cùng phong phú. Nơi đây có nhiều sân chim nổi tiếng thời bấy giờ, như: Thứ Nhứt, Kinh Dài, Thầy Quơn. Sân chim Chắc Băng có sản lượng khá lớn với các loài đặc trưng như: Chằng bè, Già đẩy, Già sói... Chim bầy, chim đàn quần tụ về Chắc Băng hòa âm bằng những tiếng kêu rộn ràng như những bản nhạc rừng.

< Đầu kênh xáng Chắc Băng tại ngã ba Sông Trẹm – Thới Bình.

Trong quyển biên khảo “Tìm hiểu đất Hậu Giang” của nhà văn Sơn Nam, tại sân chim Chắc Băng vào khoảng năm 1873, có ba lần giết chim gồm: Cuối tháng Giêng, cuối tháng Hai và cuối tháng Ba âm lịch, tổng cộng chừng 16 ngàn con. Thu hoạch nhiều là vậy nhưng cứ “đến hẹn lại lên”, chim về nhiều vô số kể. Thiên nhiên đã ưu ái cho vùng đất này rất nhiều.

Dẫu không vang danh bằng nhan sắc con gái Nha Mân (tỉnh Đồng Tháp) qua câu: “Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh. Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân”, nhưng con gái miệt Chắc Băng - Thới Bình cũng có sắc đẹp mặn mòi, nức tiếng. Tương truyền, trong lúc Nguyễn Ánh lâm bạo bệnh, vì muốn tạo phúc đức để trời cho khỏi bệnh, ông đã cho phép một số cung nữ xuất cung lấy chồng và định cư ở vùng đất này. Đây là một cách “giải hạn” của nhà vua. Vì là cung tần, mỹ nữ của bậc đế vương nên nhan sắc rất diễm lệ, quyến rũ. Con cháu họ sau này ở vùng Chắc Băng - Thới Bình vì thế mà có sắc đẹp nền nã.

Đến bây giờ, có dịp xuôi dòng Chắc Băng, nhiều người vẫn ấn tượng với hình ảnh những phụ nữ mái tóc dài ngang vai, đội nón lá trong chiếc áo bà ba mềm mại chèo xuồng bán trái bầu, trái bí hay bó mía với giọng rao lảnh lót, làm xao xuyến lòng người.
Năm 1919, nhận thấy vị thế chiến lược của vùng đất U Minh cũng như con kênh này nên thực dân Pháp đã cho đào mở rộng để tiện việc giao thông, giao thương.

Và Chắc Băng ngày nay

Trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, kênh Chắc Băng cũng ghi dấu những chiến công cũng như tấm lòng của người dân dọc hai bờ kênh với Đảng, cách mạng và Bác Hồ.

Sau khi ký Hiệp định Genève, kênh Chắc Băng được chọn là trung tâm khu tập kết 200 ngày để cán bộ miền Nam ra Bắc. Tại Ranh Hạt (vùng giáp ranh giữa xã Trí Phải, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau với xã Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang) nằm bên bờ Chắc Băng, má Lê Thị Sảnh đã tìm đến điểm tập trung, tay nâng niu cây vú sữa, nói với các đồng chí cán bộ tập kết ước nguyện của mình:


< Tại Ranh Hạt (vùng giáp ranh giữa xã Trí Phải, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau với xã Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang), má Lê Thị Sảnh tay nâng niu cây vú sữa, nói với các đồng chí cán bộ tập kết ước nguyện của mình: “Má muốn gởi các con cây vú sữa nhỏ này ra kính tặng cụ Hồ”. (Trong ảnh là người cháu dâu của má Sảnh).

“Má muốn gởi các con cây vú sữa nhỏ này ra kính tặng cụ Hồ và đồng bào miền Bắc, các con chuyển được không?”. Má Tư Sảnh trao tay cây vú sữa cùng với lời căn dặn thiết tha: “Ra ngoài đó, các con thưa với cụ Hồ, thưa với cô bác miền Bắc rằng, bà con trong này luôn hướng về cụ Hồ, hướng về miền Bắc”. Xúc động làm sao tấm lòng của một bà má miền Nam, bà má Chắc Băng với quê hương đất nước.

Kênh Chắc Băng còn là nơi che chở cho các đồng chí Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Võ Văn Kiệt... hoạt động cách mạng trong những năm tháng kháng chiến ác liệt. Dọc bờ kênh Chắc Băng hiện nay có ngôi trường tiểu học và trung học cơ sở mang tên Võ Văn Kiệt - như là một sự ghi ân của người dân nơi này đối với cố Thủ tướng.

Mỗi lần về Chắc Băng thật khó mà quên được. Chợ Vàm Chắc Băng ngày nay sung túc, người dân mua bán tấp nập. Hay ghé kênh Trời ăn thịt trâu mới làm buổi sớm mai để nghe như có hương vị của từng cọng cỏ, sợi rơm vùng đất này trong từng thớ thịt. Và đừng quên ghé chợ nổi Vĩnh Thuận, ghe xuồng tấp nập trên dòng kênh Chắc Băng treo lủng lẳng trái mận, trái xoài mới hái từ vườn...

< Chợ nỗi Vinh Thuận nằm trên con kênh xáng Chắc Băng.

Trên dòng kênh Chắc Băng giờ không chỉ có ghe xuồng mà còn có những chiếc cao tốc vượt sóng phục vụ nhu cầu đi lại của bà con và những chiếc xà lan, tàu chở hàng với khối lượng lớn. Dọc hai bờ kênh là những ngôi nhà tường khang trang, lên hai, ba “tấm” đầy đủ tiện nghi, đường giao thông thông suốt... Tất cả như điểm sắc hồng cho Chắc Băng hôm nay.

Về Chắc Băng hôm nay đáng khâm phục về chuyện lão nông Sáu Quân nhà ở kênh Chắc Băng đoạn thuộc xã Trí Phải, huyện Thới Bình đã bỏ ra 2 tỉ đồng xây cầu bắc ngang kênh để bà con vào viếng Phủ thờ Bác Hồ được dễ dàng. Dường như tính cách hào sảng, phóng khoáng và “chơi cho đáng đồng tiền” của người Nam Bộ vẫn “rặt ri” trong lòng mỗi người dân Chắc Băng.

Du lịch, GO! - Theo  Duy Khôi, Duy Thư (Báo ảnh Đất Mũi), internet

Wednesday, 13 February 2013

Giữa những ngày đông rét mướt, chúng tôi lại xách ba lô đến vùng địa đầu Tổ quốc. 

Không khỏi bâng khuâng vì “năm hết tết đến”, nhưng nhiệm vụ và nỗi háo hức được đến với đỉnh cao cực Bắc của đất nước đã hối thúc chúng tôi lên đường.

Vẫn còn gian khó

Sau nhiều giờ đồng hồ, mặc gió lạnh tăng cường ù réo liên hồi, vượt qua hàng trăm vòng cua tay áo, luồn qua các sườn đồi núi cheo leo khúc khuỷu, cuối cùng chúng tôi cũng “cán đích” huyện Đồng Văn (Hà Giang).

Đồng Văn xưa kia thuộc tổng Đông Quan, châu Nguyên Bình, phủ Tường Yên, tỉnh Tuyên Quang. Sau đó, Đồng Văn thuộc châu Bảo Lạc cho đến khi thực dân Pháp xâm lược với địa giới hành chính rộng lớn, bao gồm cả các huyện Yên Minh, Mèo Vạc ngày nay. Ngày 15-12-1962, theo quyết định của Hội đồng Chính phủ, Đồng Văn tách thành 3 huyện là Yên Minh, Mèo Vạc và Đồng Văn. Hiện nay, huyện Đồng Văn có diện tích tự nhiên trên 46.000 ha, với 17 dân tộc anh em sinh sống, trong đó người Mông chiếm tới 88,4% dân số toàn huyện.

Còn nhớ, trước năm 1965, đường lên Đồng Văn chỉ là lối mòn dành cho ngựa thồ và người đi bộ. Với mong muốn “miền núi tiến kịp miền xuôi”, ròng rã suốt 6 năm trời (1959 -1965), thanh niên xung phong và người dân 16 dân tộc anh em đã làm việc quên mình với hơn 2 triệu ngày công, tay búa tay choòng phá đá để mở gần 200km đường ôtô lên cao nguyên Đồng Văn - Mèo Vạc, tạo nên kỳ tích trong lịch sử làm đường ở Việt Nam.

“Bây giờ Đồng Văn vẫn là huyện khó khăn nhất ở khu vực này”. Câu nói của Chánh Văn phòng UBND huyện Hoàng Ngọc Linh cắt ngang dòng suy tưởng của chúng tôi. Như để lý giải về điều này, anh bảo: “Thì các anh xem, cả huyện chỉ có 30% diện tích đất tự nhiên là có… đất. Ngay như muốn xây dựng một ngôi nhà ở thị trấn này cũng khó khăn, do đến cả cát chúng tôi cũng phải mua rồi vận chuyển cả trăm cây số từ dưới xuôi lên”. Rồi anh bảo, gần 20 năm nay, sau khi triệt phá cây anh túc cùng các hệ lụy của nó, huyện đã có nhiều chủ trương giải quyết việc làm, chuyển đổi cây trồng vật nuôi cho người dân.

Tuy đạt được nhiều thành tựu, nhưng để thực sự tìm hướng phát triển kinh tế cho Đồng Văn không dễ dàng chút nào. Phó phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đồng thời là Phó trưởng Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới Đồng Văn, Lương Đình Đoàn - người có mặt trong buổi làm việc tiếp lời: “vừa qua, huyện chúng tôi chọn thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới ở Sủng Là, nhưng đến nay vẫn chưa mang lại nhiều kết quả. Bởi, bên cạnh việc đòi hỏi phải đạt các tiêu chí, việc huy động theo hình thức xã hội hóa, hay muốn sự tham gia của người dân cũng rất khó. Thậm chí, huyện đã cấp xi măng, đầu tư mua một máy xay bột đá để thay cát cho bà con mượn làm đường thôn bản, nhưng nhiều khi chiếc máy này cũng phải “đắp chiếu”.

Tiềm năng đang chờ đánh thức

Đồng Văn là một trong bốn huyện nằm trong “Công viên địa chất cao nguyên đá”, được xác định là “vùng lõi” của Công viên địa chất toàn cầu và là địa bàn có nhiều điểm hóa thạch có niên đại cách đây khoảng 500 triệu năm. Cùng với 3 di tích được xếp hạng cấp quốc gia là di tích Nhà Vương, cột cờ Lũng Cú, Phố cổ Đồng Văn, huyện cực bắc này còn có nhiều danh thắng khác như Hang Mây, Sảng Tủng. Bên cạnh đó, đây còn là địa phương có nhiều nghề cổ truyền cùng các điều kiện thuận lợi để phát triển thủy điện, du lịch - dịch vụ, khai thác khoáng sản. Nghe nói vậy, nhưng có lẽ chỉ khi được đến những địa danh nổi tiếng, được hòa mình vào dòng văn hóa đặc trưng đa sắc màu và lang thang đến các phiên chợ vùng cao ở đây mới có thể thấy phần nào những giá trị tiềm ẩn ở vùng biên cương này.

Nằm ngay trong thị trấn huyện Đồng Văn là Phố cổ Đồng Văn. Được hình thành từ cuối thế kỷ XIX đến những năm đầu thế kỷ XX, những ngôi nhà cổ hiện còn được lưu giữ ở nơi đây tuy không lớn như Phố cổ Hà Nội, Hội An, nhưng lại mang dấu ấn bản sắc của cư dân vùng cao nguyên đá nơi biên cương Tổ quốc với những ngôi nhà tường trình, lợp ngói máng độc đáo. Phong cách kiến trúc của phố cổ Đồng Văn cho thấy có sự giao thoa giữa kiến trúc truyền thống của cư dân bản địa với kiến trúc vùng Hoa Nam (Trung Quốc).

Liền kề đó là chợ cổ Đồng Văn với kết cấu hình chữ U tráng lệ, thâm trầm, mang đậm nét đặc trưng với tường nhà rất dày bằng đá, hàng cột lớn, nhà xây một hoặc hai tầng mái lợp ngói trên những kết cấu vì kèo bằng gỗ chắc chắn. Trước đây, mỗi khi chợ vào phiên, nơi này lại đông vui tấp nập, là địa điểm vui chơi, mua sắm, gặp gỡ, trao đổi hàng hóa của những người dân thuộc các dân tộc khác nhau trong khu vực. Từ năm 2010, khu chợ mới được quy hoạch rộng rãi cách chợ cũ khoảng 200m, tuy nhiên mới đây huyện Đồng Văn đã có kế hoạch để chợ phiên Đồng Văn được trở về vị trí vốn có của nó.

Cách huyện lỵ Đồng Văn 24km là cột cờ Lũng Cú, nơi điểm cực Bắc của Việt Nam, có độ cao khoảng 1.700m so với mực nước biển. Cột cờ Lũng Cú được xây dựng từ lâu và qua nhiều lần sửa chữa, nhưng lần nâng cấp gần đây nhất là vào năm 2010. Với kiến trúc độc đáo, mang ý nghĩa phổ quát cao, cột cờ có tổng chiều cao 33,15m, lá cờ Tổ quốc trên đỉnh có diện tích 54m2, tượng trưng cho 54 dân tộc anh em cùng chung sống trên đất nước Việt Nam. Cột cờ Lũng Cú không chỉ đặc biệt bởi vị trí xây dựng, mang đậm dấu ấn lịch sử, mà còn là điểm đến tham quan, du lịch lý tưởng của du khách trong nước và quốc tế.

Một trong những công trình để lại nhiều ấn tượng, mang không ít màu sắc huyền bí và là điểm tham quan hấp dẫn không thể bỏ qua là công trình kiến trúc Nhà Vương, nơi ở của “Vua Mèo” Vương Chí Sình. Nhà Vương có diện tích 1.120m2, được xây dựng theo lối kiến trúc đời Thanh (Trung Quốc), tọa lạc trên “lưng rùa, nhìn vào hai núi lúa, bạc” - theo quan niệm phong thủy.

Kiệt tác kiến trúc của đồng bào Mông này được tạo dựng bằng nguyên liệu đá xanh, gỗ thông và ngói đất nung. Tổng thể khu nhà gồm 4 nhà ngang và 6 nhà dọc đều làm 2 tầng với 64 buồng chia làm Tiền dinh, Trung dinh, Hậu dinh. Tường xây bằng đá, trong ốp ván, cột kèo gỗ, sàn lát gỗ, mái ngói máng, có hàng hiên lợp ngói ống. Bố cục ngôi nhà trong 3 lớp cao dần từ ngoài vào trong, hai góc trong cùng xây 2 lô cốt đá xanh, 3 tầng, trong đó tầng một thông với tầng ngầm khu nhà trong cùng. Công trình này cùng với những câu chuyện xen lẫn huyền bí và hiện thực có sức hút lớn đối với bất cứ ai đến với Đồng Văn.

Qua mấy ngày “thực tế”, chúng tôi gặp lại Linh. Anh bảo: “Tiềm năng của Đồng Văn rất lớn. Huyện cũng có nhiều chủ trương, đề án và có cả chính sách khuyến khích thu hút đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp khi đến với Đồng Văn.

Nhưng có thể, một phần do công tác tuyên truyền, quảng bá chưa “trúng” hoặc do người ta chỉ biết đến Đồng Văn là một “cao nguyên đá” khắc nghiệt nên đến nay chưa có nhiều doanh nghiệp, nhà đầu tư tìm đến”.  Hay theo cách nói ví von của nhà văn Trần Bé (Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Hà Giang) thì đến nay các tiềm năng của Đồng Văn nói riêng và Hà Giang nói chung vẫn như nàng công chúa ngủ quên đang chờ hoàng tử đến đánh thức.
Dọc tuyến đường trở lại thành phố Hà Giang, chúng tôi đều có chung cảm nhận, những thửa ruộng bậc thang phơi màu chờ gieo vụ ngày một sáng hơn và sắc xuân đang ngập tràn trên cao nguyên đá.

Du lịch, GO! - Theo Liêu Chí Trung (ANTĐ), internet
Từ thị trấn Mường Khương ngược lên phía Pha Long, qua con dốc Tung Chung Phố, con đường vòng cung hiện ra trước mắt, phía dưới là Lũng Pâu.

Lũng Núi rộng lớn như một chiếc chảo khổng lồ lớp lớp ruộng bậc thang sắc màu thay theo mùa vụ.

Qua một đoạn vách đá giăng thành, con đường ngoặt lên gấp những vòng cua tay áo, ngày xưa gọi là dốc Chín Quai. Đếm đủ 9 lần con dốc quặt đi quặt lại để lên một triền đất mới mang tên Tả Ngải Chồ. Con đường uốn lượn quanh những vòm đá nhấp nhô, một bên là vách đá dựng đứng, một bên hun hút vực sâu. Đá, đá và đá, ghi tạc bao công sức choòng đục để con đường hiện hình hài.

Tả Ngải Chồ, nghĩa là chân những núi đá lớn. Những vòm, những chỏm núi đá đứng bên nhau.
Kỳ lạ thay, mỗi núi đá là một vòm cao ngất mà tươi thắm cây xanh. Cây bám vào đá, lách rễ vào các khe kẽ đá mà hút chút nước, chút mỡ màu hiếm hoi để vươn mình. Những thân dây chằng chịt khăng khít nối vòng tay dan díu. Những thân gỗ trụ bám vươn cành xanh lá.

Các loài cây níu vào đá mà xanh tươi, níu giữ những làn sương đọng giọt để mát nhuần giữa mùa khô khát, đón hứng những cơn mưa và lưu giữ dòng nước thấm vào lòng đá tạo mạch nguồn. Đá nâng cây dồn sức vươn lên, cây chở che xanh mát đá, để những vòm đá là những vòm xanh.

Các cụ già người Mông kể câu chuyện về những vòm núi đá xanh sắc cây rừng, mới biết sắc xanh kia chẳng giản đơn như thế. Trong cuộc vật lộn với đất để kiếm hạt ngô, hạt thóc sinh tồn, nhát dao quắm bén sắc và que diêm tí xíu nếu không được kìm giữ thì Tả Ngải Chồ đã là những vòm đá xám trơ trọi từ lâu. Nhưng bà con sống bên những vòm đá ngất ngư này đã biết bảo ban nhau.

Mỗi vòm đá đều có thần núi, thần rừng cai quản, nhưng thần núi ngự trong lòng mỗi người, trong tinh thần mỗi làng bản mới thật thiêng liêng. Muốn xin rừng cho một vài cây nhỏ phải được phép của người được làng giao cho cai quản theo lệ đã thống nhất với nhau trong bữa rượu đầu năm.


Những vòm đá Tả Ngải Chồ xanh cây là bởi mạch nguồn từ những tấm lòng người dân nơi đây biết trọng màu xanh cây lá.

Trường học mái đỏ tường vôi, xanh hàng rào cúc tần khéo tỉa, dưới chân những chỏm núi đá xanh cây. Tiếng trẻ em ca hát, nô đùa, làm cho những vòm núi đá Tả Ngải Chồ thêm tươi xanh trong sương nắng vùng cao.
Mải mê đến tận chiều sương buông vẫn bị Tả Ngải Chồ níu kéo dùng dằng.

Du lịch, GO! - Theo Tin tức Du lịch
Đến Suối Tiên vào dịp Tết Nguyên đán Qúy Tỵ 2013, du khách có dịp hòa mình vào không khí nô nức trẩy hội mùa xuân.
Với chủ đề “Du xuân Suối Tiên – Thần Tiên hội tụ”, từ ngày 10-2 đến ngày 19-2 (tức từ mùng 1 – mùng 10 tháng Giêng năm Qúy Tỵ), Du khách sẽ có dịp chiêm ngưỡng và ước nguyện với các vị thần tiên nhiều điều may mắn, an lành trong dịp năm mới.

Với mong muốn mang đến nhiều an lành may mắn cho du khách trong dịp năm mới, Suối Tiên tổ chức nhiều hoạt cảnh tái hiện lại hình ảnh những vị thần tiên gần gũi với văn hóa tín ngưỡng người Việt như: Phật Di Lặc, Thần Tài – Ông Địa, Tam đa Phúc Lộc Thọ, Bát Tiên, tứ linh: Long Lân Quy Phụng, ông Tơ Bà Nguyệt.

Ngày đầu năm mới các vị thần tiên này cùng hội tụ tại Suối Tiên để mang đến đầy đủ nhất những điềm lành, những điều tốt đẹp cho tất cả du khách gần xa.

Phật Di Lặc biểu trưng cho sự an lành, vui vẻ. Gặp đức phật Di Lặc vào dịp đầu năm du khách sẽ có dịp xả bỏ những ưu phiền trong năm cũ, trọn hưởng một năm mới nhiều an vui, hạnh phúc. Thần Tài – Ông Địa là 2 vị thần bảo vệ đất đai, nhà cửa giúp mọi người phát đạt. Một năm mới sẽ sung túc thuận lợi hơn khi du khách nhận được những lời chúc tài lộc của Thần Tài và ông Địa. Tam Đa Phúc - Lộc - Thọ cũng hội tụ tại Suối Tiên trong dịp năm mới để mang đến cho du khách tiền tài, sức khỏe, phúc lộc đầy đủ..

Bát Tiên mỗi vị có một quyền phép riêng được Ngọc Hoàng Thượng Đế giao nhiệm vụ trừ yêu diệt quái mang lại bình an cho con người. Tứ Linh với bốn linh vật Long – Lân – Quy – Phụng sẽ mang lại nhiều an lành may mắn. Ông Tơ – Bà Nguyệt với sổ tình yêu và những sơi chỉ hồng sẽ se duyên hạnh phúc cho nhiều lức đôi trong dịp năm mới. Tây Du Ký với các nhân vật Đường Tăng – Tôn Ngộ Không – Trư Bát Giới – Sa Tăng biểu trưng cho chính nghĩa sẽ chiến thắng mọi yêu ma, quỷ quái; sự hiền lành, lương thiện luôn được thần tiên phù hộ.

Hình ảnh các vị thần tiên được tái hiện qua 7 cụm hoạt cảnh lần đầu tiên xuất hiện trên khắp các cung đường lễ hội Suối Tiên và ban tặng cho du khách những lời chúc tài, lộc, may mắn, hạnh phúc.

Đặc biệt, nằm trong chuỗi hoạt động lễ hội mang chủ đề thần tiên, vào ngày mùng 9 tết, du khách đến Suối Tiên sẽ có dịp cùng tham gia lễ rước Ngũ Hành Thánh Mẫu Nương Nương Vi Hành Miền Đất Tứ Linh – các vị thánh mẫu là mẹ sinh dưỡng của muôn loài. Du khách sẽ được cùng cầu nguyện cho quốc thái dân an và nhiều điều may mắn cho gia đình.

Bên cạnh việc chiêm ngưỡng và ước nguyện những điều may mắn với các vị thần tiên, du khách còn được hòa vào không khí vô cùng náo nhiệt của các chương trình biểu diễn văn hóa nghệ thuật chào năm mới như: du khách còn được hòa vào không khí vô cùng náo nhiệt của các chương trình biểu diễn văn hóa nghệ thuật chào năm mới như: show diễu hành Ngọc Ngà Châu Báu Thần Tiên Hội, show diễn sân khấu hóa truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh, chương trình văn nghệ tổng hợp mừng xuân diễn ra liên tục nhiều xuất trong ngày.

Các công trình giải trí nổi bật như: Biển Tiên Đồng Ngọc Nữ, biểu diễn Cá Heo và Sư Tử Biển, Lâu Đài Tuyết, Tàu Lượn Siêu Tốc, Xe Vượt Địa Hình, Long Mạch Thủy Dược Tiên, Bắn Súng Sơn, Phụng Hoàng Cung, phim 4D…. cùng hơn 150 công trình giải trí ấn tượng khác đang sẵn sàng phục vụ du khách
Một chuyến du xuân thật nhiều thú vị đang chờ bạn tại Du Lịch Văn Hóa Suối Tiên.

Du lịch, GO! - Theo Tin Du Lịch
Sáng ngày 13-2 (mùng 4 Tết Quý Tỵ), tại huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi đã tổ chức khai hội đua thuyền truyền thống đầu xuân, nhằm tri ân các vị thần linh, cầu quốc thái dân an, mùa màng tươi tốt.

< Bốn thuyền đua Long, Li, Qui, Phụng của xã An Hải tham gia khai hội đua thuyền đầu xuân Quý Tỵ.

Sự kiện này cũng nhằm tưởng nhớ các vị tiền hiền đất đảo vâng lệnh vua ban đã có công ra đo dạc, cắm mốc chủ quyền trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là lễ hội đua thuyền lớn nhất trong năm của nhân dân huyện đảo, thể hiện nét sinh hoạt độc đáo của cư dân vùng sông nước.

< Hàng ngàn người dân trên đảo nô nức xem hội đua thuyền đầu xuân mới Quý Tỵ

Lễ hội đua thuyền đầu xuân được duy trì hàng trăm năm nay trên đảo Lý Sơn và được đông đảo người dân hưởng ứng tham gia. Lễ hội kéo dài từ mùng 4 đến mùng 8 Tết Nguyên đán.

Bà Phạm Thị Hương, Phó chủ tịch huyện đảo Lý Sơn, cho biết khai hội đua thuyền xuân Quý Tỵ năm nay được tổ chức tại Đình làng 2 xã, An Vĩnh và An Hải. Sau khi kết thúc cuộc đua, các ngư dân sẽ mang thuyền lên cúng bái tổ tiên. Ngoài ra, tại các đình làng trong huyện còn tổ chức lễ dồi bòng thể cầu may năm mới.

Trên một ngàn khách đất liền ra đảo du xuân

< Hàng ngàn hành khách chờ mua vé ra đảo Lý sơn du xuân.

Sáng 13-2 (mùng 4 tết Quý Tỵ), tại Cảng Sa Kỳ - Bình Châu - Bình Sơn - Quảng Ngãi, 1.200 khách du lịch từ đất liền chen chân mua vé ra đảo Lý Sơn để du xuân.

Trước tình hình lượng khách du lịch ra đảo tăng đột biến, Sở giao thông vận tải Quảng Ngãi và Huyện Lý Sơn đã bố trí 4 tàu cao tốc liên tục chở khách.

Du lịch, GO! - Theo Văn Mịnh (TTO)

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống