Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Sunday, 17 February 2013

Băng rừng, leo núi, nhảy dù, vượt thác, lặn biển, ngao du khắp nơi bằng xe đạp, thuyền kayak, xe cào cào hay đi bộ... là những trải nghiệm thú vị của anh Nguyễn Chí Bình. Có lẽ với người đàn ông này, dịch chuyển đã trở thành hơi thở, nhịp tim.

Luôn dịch chuyển

“Ngày xưa lúc còn là hướng dẫn viên du lịch, nhiều khi đi theo đoàn thấy có cảnh đẹp không thể nào thưởng thức được vì không có thời gian, hoặc không thể bắt cả đoàn phải dừng xe lại để cho mình ngắm cảnh”, anh Nguyễn Chí Bình thổ lộ về lý do mà anh thường tự lên tour “độc” để ngao du khắp nơi.

Ngoài ra, “đi nhiều còn giúp mình hoàn thiện kỹ năng sống”. Việc muốn khám phá để trải nghiệm và sử dụng hết những kỹ năng mà mình từng học tập cũng là một trong những lý do khiến Nguyễn Chí Bình luôn dịch chuyển. Hầu như mọi câu hỏi liên quan đến kinh nghiệm khi đi phượt đều được anh chia sẻ rất chân thành và chu đáo.

Nhưng trước câu hỏi tưởng chừng như rất dễ: “Chuyến đi thú vị nhất mà anh từng trải qua?”, lại khiến anh phải suy tư rất nhiều. Bởi chuyến đi nào cũng thú vị và đều mang đến những kỷ niệm không thể nào quên. Cùng ở một nơi nhưng nếu đi thuyền kayak vượt thác sẽ khác với đi trecking trong rừng, đi chơi bằng xe mô tô địa hình giúp người ta khám phá vùng đất đó hoàn toàn khác biệt khi chiêm ngưỡng nó từng trên cao bằng cách nhảy dù.

Khi chia sẻ về những điều trên, anh Bình đã cho tôi xem một đoạn clip anh quay Đà Lạt từ trên không lúc khám phá nơi đây bằng việc nhảy dù. Đúng như anh đã thổ lộ, Đà Lạt từ trên không rất khác và rất đẹp. Dưới góc nhìn này, Đà Lạt đã trở thành nơi một vùng đất hoàn toàn mới. Có lần anh còn chu du từ thác Madagui đến rừng Nam Cát Tiên hai ngày đêm liền bằng thuyền kayak.

“Chuyến đi đó tôi đi chỉ có một mình. Ngày thì chèo thuyền, đêm thì dựng lều ngủ. Trên đường đi có rất nhiều cảnh đẹp và nhiều nơi có thể chơi được trò vượt thác”, anh Bình kể về một trong những chuyến đi mang đến cho anh nhiều cảm xúc. Từng tham gia chuyến chinh phục đỉnh Bidoup và trecking xuyên qua 2 Vườn Quốc gia Bidoup - Phước Bình nhưng anh vẫn muốn trở về khám phá nơi đây thêm một lần nữa. “Tôi muốn trở lại đó vì muốn khám phá hai khu rừng quốc gia này dưới một con mắt khác với một lộ trình đường đi mới”.

Đi để hoàn thiện bản thân

Anh Bình cho biết, chuyến đi giúp anh học hỏi được nhiều kỹ năng nhất là tham gia lớp huấn luyện canoeing slalom do Liên đoàn Canoeing thế giới  (ICF) tổ chức tại Chiang Mai, Thái Lan năm 2010. “Ở Thái Lan tôi có được những trải nghiệm khó quên. Có lần tôi cùng một nhóm bạn học từ khắp nơi ở châu Á vào rừng để cắm trại. Chúng tôi không được mang theo bất cứ vật dụng nào ngoài dao, hộp quẹt và thực phẩm.

Thử thách đặt ra là phải sống sót qua hai ngày trong rừng. Chúng tôi đã chặt tre để nấu cơm, nấu nước, dùng lá cây làm đồ đựng thức ăn, đan tre làm bè vượt thác. Trong suốt chuyến đi, chúng tôi phải tuân theo những quy định như không được phá hoại cảnh quan rừng như xả rác hay chặt phá cây rừng. Đó là lần đầu tiên tôi có thể hiểu và biết được cách làm du lịch hoàn toàn dựa vào thiên nhiên”.

Theo anh Bình, đi phượt giúp anh hiểu thêm về văn hóa địa phương, phong tục tập quán, hoặc về ẩm thực... những điều mà ở những tour du lịch thông thường ít có thời gian để làm được một cách trọn vẹn.

Anh từng nhiều lần chinh phục đỉnh Phan Xi Păng bằng nhiều con đường khác nhau; khám phá đỉnh Ngọc Linh; đi các khu rừng quốc gia như Bidoup, Phước Bình, Nam Cát Tiên, núi Chúa, Chư Yang Sinn; đạp xe đạp khám phá miền Tây... và trong đầu luôn đầy ắp những kế hoạch cho các chuyến đi.

Anh Nguyễn Chí Bình cùng với bạn thân Hoàng Long vào vòng 12 trong cuộc thi The Amazing Race Vietnam: Cuộc đua kỳ thú năm 2012. Anh có bằng lặn biển của SSI; tham gia lớp huấn luyện canoeing slalom do Liên đoàn Canoeing thế giới (ICF) tổ chức tại Chiang Mai - Thái Lan; chứng chỉ sơ cấp cứu; chứng nhận tham gia lớp trọng tài dù lượn.

Phượt tết “không giống ai”

Đang cùng cả đoàn khám phá hành trình “Về Sa Đéc ngắm hoa tết”, anh Trần Viết Hồng Lân, phụ trách Câu lạc bộ Du khảo TP.HCM, hào hứng chia sẻ: “Sau chuyến đi này, tụi mình sẽ đi tiếp cung đường mới, tuyến mới tổ chức lần đầu từ mùng 3 đến mùng 8 tết”.

Cũng bằng phương tiện đặc thù của nhóm là xe gắn máy, các thành viên xác định năm nay sẽ hưởng một cái tết “không giống ai”, đó là: tự hái rau rừng, câu cá, nấu cơm giữa thiên nhiên bên ánh lửa trại bập bùng trong Vườn quốc gia Bù Gia Mập.

Sau đó nhóm vượt cao nguyên M’Nông đất đỏ và xuyên đường 14C lịch sử tìm di tích Nơ Trang Lơng, thăm cửa khẩu Bu Prăng và khám phá thác Bảy tầng. Sau khi lên rừng, đoàn sẽ xuống biển khám phá hải đăng Mũi Dinh và những đồi cát, bãi biển tuyệt đẹp dọc dải đất miền Trung…

Theo anh Lân, kỳ nghỉ tết năm nay khá dài nên đoàn sẽ ưu tiên cho những chuyến đi xa hơn, cung đường mới hơn. “Nhiều thành viên đã đi du lịch hầu như khắp nơi. Vì vậy, thử thách lớn của chúng tôi là tìm những điểm lạ, tránh lặp lại nhàm chán, đổi tuyến sáng tạo ở những nơi đã đi”, anh Lân bày tỏ.

Hứng thú với những điểm đến mới lạ, không ít bạn trẻ vốn là “cậu ấm, cô chiêu” trong gia đình nhưng luôn sẵn sàng “ăn bờ ngủ bụi”, chấp nhận sự thiếu thốn các dịch vụ tiện ích quen thuộc. “Bù lại, chúng tôi có những trải nghiệm mới, hiểu biết sâu và kỹ hơn về những vùng đất mình khám phá. Đây là cách “đi bụi” có hiểu biết chứ không phải là đi liều!”, một thành viên trong đoàn du khảo khẳng định.

Du lịch, GO! - Tổng hợp theo iHay

Saturday, 16 February 2013

Đến hẹn lại lên, tình trạng "chặt, chém", chèo kéo, phe vé, đeo bám,... du khách tại khu du tích Hương Sơn lại tái diễn.

Chính quyền và dân Hương Sơn lập "hội đồng chém”

Tranh thủ những ngày nghỉ Tết cuối cùng, anh Nguyễn Văn Tú (Cầu Giấy, Hà Nội) đã cùng gia đình đi thăm quan và trẩy hội chùa Hương. Và để tránh những "khó khăn" có thể gặp phải trên đường về đất Phật, gia đình anh đã quyết định lên đường từ lúc tờ mờ sớm.

Tuy nhiên, theo anh Tú kể lại: “Ngay từ mờ mờ sáng, khi chiếc xe ô tô của anh rẽ vào đường 21B chưa đầy một cây số đã xuất hiện ba chiếc xe máy bám theo. Nhìn qua gương chiếu hậu của xe, tôi biết có người bám sau nhưng không hiểu có chuyện gì xảy ra. Sợ gặp phải cướp nên vợ tôi bảo chốt cửa lại và đi tiếp chờ đến đoạn nào đông người mới dừng lại. Chiếc xe của tôi đi được khoảng 500 mét thì đến phố Xốm. Đây là đoạn đường đông dân cư nên tôi quyết định dừng xe lại nói chuyện”.

< Cò đò, gửi xe đeo bám và chặn xe khách du lịch Chùa Hương.

Khi chiếc xe của anh vừa giảm tốc độ, chưa dừng lại hẳn, những người đi xe máy bám theo đã ập đến đập vào cửa kính, thanh xe nói vào như quát với giọng cộc lốc: “Đi chùa Hương phải không, đi đò nhà em nhá!”.

Và dù đã từ chối thẳng thừng, thậm chí bày tỏ thái độ khó chịu ra mặt, nhưng những người kia vẫn bám sát xe anh Tú, tiếp tục đập vào cửa kính, bám lẵng nhẵng theo xe suốt đoạn đường gần chục km.

Anh Tú kể tiếp: Đoạn đường dài chưa đầy 30 km từ ngã ba Ba La về đến Hương Sơn nhưng dọc đường đi anh luôn bị cò vé bám theo xe làm phiền đến tận cổng chùa Hương. Khi xe của anh vừa đến đầu thôn Yến, một người đàn ông mặc quần áo công an xã Hương Sơn chạy ra chặn xe và đề nghị mua vé giữ xe.

Chưa kịp hỏi vé gì, bao nhiêu tiền thì vị công an viên kia đưa cho anh Tú một tấm giấy to bằng bao diêm và hất hàm nói cộc lốc: “40.000 đồng, nhanh!”. Theo quan sát tấm vé, chiếc vé trên là vé trông giữ ô tô do UBND xã Hương Sơn ban hành.

< Dịch vụ đổi tiền lẻ dù như "máy chém" vẫn hút khách.

Sau giây phút hoàn hồn với những tên cò vé, chèo kéo khách, nghĩ bỏ 40.000 đồng cho chính quyền để được trông xe thì quá yên tâm. Nhưng khi tiến sâu vào trong khu di tích Hương Sơn, anh lại gặp phen hú vía với hàng chục thanh niên lực lưỡng chạy ra chặn đầu xe, đập tay lên nóc xe mời chào… gửi xe.

Tưởng là đóng tiền vé gửi xe ngoài cổng rồi thì gửi đâu cũng được, những điểm trông giữ xe này chỉ ăn phần trăm hoa hồng của chiếc vé nên anh liền đánh xe vào bãi gửi xe của một gia đình có treo biển nhà nghỉ Trọng Khôi ngay đầu bến Đục. Khi chiếc xe yên vị ở một khoảng trống, một thanh niên chạy đến đưa cho anh Tú tấm giấy có đóng dấu của nhà nghỉ và bảo là vé gửi xe. Nhưng quan sát thì không thấy ghi là vé xe và cũng không ghi giá tiền.

Chưa kịp hiểu thực hư như thế nào, thanh niên trông xe của nhà nghỉ Trọng Khôi bảo: “Anh cho em xin tiền gửi xe”. Thấy bị hỏi phí gửi xe lần thứ hai, anh Tú liền nói chuyện về việc UBND xã đã bán vé xe thu 40.000 đồng, đồng thời lấy vé ra cho xem thì nhân viên trông xe này nói: “Đấy là “phí” của xã còn em trông xe ở đây thì thu ở đây. Chuyện xã chẳng liên quan gì đến nhà em cả”.

< Những cửa hàng thò thụt, che bạt lôm nhôm mất mỹ quan của đường lên chùa Thiên Trù.

Sau giây phút ngỡ ngàng và bị người nhà gục đi, anh chấp nhận nộp phí gửi xe và hỏi giá thì té ngừa với cách “chém đẹp” ở đây. Theo đó, nhà nghỉ Trọng Khôi đã thu phí trông xe ô tô của anh với giá 100.000 đồng. Nhìn cả dãy xe đậu san xát, không còn chỗ trống, anh Tú đành bấm bụng móc hầu bao và nhận lại một nụ cười nhăn nhở kèm theo câu “Tết mà anh!”.

Theo tìm hiểu, anh Tú không phải là trường hợp duy nhất bị “chặt chém” tại ngày đầu tiên khai hội chùa Hương mà hầu hết du khách về trẩy hội chùa Hương đều khóc ròng trước cửa phật với đủ loại dịch vụ.

Theo đó, hàng trăm điểm trông giữ xe trên địa bàn Hương Sơn đều thu phí với giá cao cắt cổ. Cụ thể: Xe máy là 20.000 đồng/lượt; ô tô 5 chỗ là 70.000 đồng/lượt; xe từ 7 chỗ đến 9 chỗ là 100.000 đồng/lượt; xe từ 15 chỗ đến 30 chỗ là 150.000 đồng/lượt; xe trên 30 chỗ là 200.000 đồng/lượt.

Đáng lên án là dù ngay tại đầu thôn Yến, UBND xã Hương Sơn, công an xã đã bán vé trông xe nhưng vẫn để mặc cho tư nhân lộng hành, coi đó như là một lệ làng được “ngầm” công nhận. Không ít trường hợp xảy ra cự cãi giữa du khách và các nhà trông xe khi du khách không chịu kiểu một cổ hai tròng trong ngày đầu xuân năm mới lập tức một số "đầu gấu thôn", "chí phèo làng" xuất hiện... khiến hình ảnh, sự thanh bình nơi đất phật bị vấy bẩn một cách không thương tiếc.

Dịch vụ du lịch với giá trên trời

< Những món ăn có giá trên trời tại Hương Sơn.

Không dừng lại ở chiếc vé xe, các dịch vụ khác cũng thi đua “chặt, chém” du khách hồi hương về với đất phật. Tại mùa lễ hội chùa Hương năm 2013 du khách đi từ ngỡ ngàng này đến ngỡ ngàng khác. Dịch vụ ăn uống tại đây cũng được dịp hét giá “trên trời”. Một bát canh rau sắng có giá 120.000 đồng hay thịt các loại thú rừng như: Nhím, Sóc, Hươu, Nai, Thỏ…giá bèo nhất cũng phải 400.000 đồng/đĩa, có loại thịt thú rừng lên đến hàng triệu đồng/đĩa.

Theo lời mời chào của một chủ quán, thịt hươu sao, thịt chồn đá, hoẵng hay sóc đều được mua từ đội thợ săn, đảm bảo “hàng xịn”. Giá một cân thịt hươu sao “xịn” từ 500 – 700 nghìn đồng/kg; chồn đá có giá từ 300-400 nghìn đồng/cân; hoẵng từ 500 – 600 nghìn đồng/cân… Mức giá này cũng có thể dao động tùy quán và tùy người mua.

Điều đáng nói, thịt các loại thú rừng được các nhà hàng bày bán và giết thịt hết sức ngang nhiên. Trước cửa các nhà hàng, các con vật bị móc hàm, treo lủng lẳng bằng các móc sắt, rồi các "đồ tể" thì tha hồ thể hiện "tài nghệ" pha thịt trước hàng ngàn phật tử. Máu hươu, nhím đỏ lòm, tanh hôi nhỏ giọt xuống các tấm bìa các tông khiến ai lỡ nhìn cũng lạnh cả người.

Chúng tôi không thể hiểu nổi những con người đang ngày đêm hưởng lộc nơi cửa phật sao lại có thể tàn nhẫn đến mức độ công khai như vậy. Phải chăng đây chính là nơi thể hiện sự tàn ác nhất của con người bên cạnh cái linh thiêng nơi chốn thiền?

Bên cạnh những đặc sản chỉ bán trong ba tháng đầu năm nhưng thú rừng thì những dịch vụ bình dân khác cũng được dịp leo thang.

Anh Nguyễn Quang Hưng (ở xã Diễn Bình, huyện Diễn Châu, Nghệ An) tâm sự: “Vì nhà ở xa lại muốn tham dự lễ khai hội chùa Hương nên tôi và gia đình về chùa Hương từ chiều ngày mùng 5 tết, ngủ lại nhà nghỉ qua đêm chờ ngày khai hội”. Theo đó, anh Hưng bị hét giá tới 600.000 đồng một phòng đơn/đêm, còn phòng đôi thì lên đến 1.500.000 đồng/đêm.

Bên cạnh đó, rất nhiều loại dịch vụ khác cũng leo thang chóng mặt, trong khi ngày thường chỉ 20 -30 ngàn một bát mì bò hay phở bò thì vào lễ hội nó đã đội giá tăng lên 70.000 -100.000 đồng/bát phở bò với những miếng thịt mỏng như giất pơ luya; bánh mỳ thịt giá rẻ nhất cũng đã 30.000 đồng, bao thuốc vinataba, lon bò húc cũng tăng gấp 2 bình thường lên tới 50.000 đồng…

Tại đền Trình, dịch vụ lễ lạt cũng đua nhau “chém” du khách với giá 50.000 đồng/lần viết sớ, 20.000 đồng/lá trầu và quả cau; mâm xôi và gà cúng có giá 500.000-800.000 đồng/mâm.

Cũng trên đường về đất phật, lợi dụng tâm lý những du khách có bệnh trong người, đầu năm đi lễ nhằm gặp thầy, gặp thuốc, ngay đường vào đến Trình sừng sững một cửa hàng bán thuốc nam gia truyền với diện tích rộng hàng trăm mét vuông được gia chủ bày bán, quảng cáo hàng trăm loại thuốc khác nhau. Cái biển của hiệu thuốc này do “dị nhân” Bùi Nam Hải làm chủ. Những hình ảnh quảng cáo của ông chủ tiệm trẻ măng như một phật tử mộ đạo với các loại thuốc gia truyền, chuyên đặc trị nhiều loại bệnh mà cả y học cũng bó tay như khối u, tiểu đường đến viêm tai giữa, viêm họng lở loét, xoang mũi, lỏng chân răng…

< Các loại thú rừng “xịn” được bày bán công khai ngay trước cổng chùa.

Các loại thuốc được bày bán công khai, chẳng có một tờ giấy chứng nhận, hay chỉ rõ nguồn gốc. Quanh hiệu thuốc có vài cò mồi luôn sẵn sàng chào mời, giới thiệu các loại thuốc với mức giá từ 300.000 - 500.000 đồng/kg.

Tuy nhiên theo lời khẳng định của ông Nguyễn Chí Thanh – Trưởng Ban quả lý khu di tịch Hương Sơn, Phó ban tổ chức lễ hội chùa Hương 2013 thì không có thịt thú rừng mà chỉ có thú nuôi làm giả thịt rừng. Nhiều người khi mua thịt cũng khẳng định mua thịt nai nhưng lại nhìn thấy chân là móng bê. Thực tế những người bán hàng chỉ cần làm đơn giản như kéo dài mõm chó nhà rồi thui vàng và chặt chân cho khó nhận biết để giả thành hoẵng, cắt tai thỏ, thui vàng biến thành chồn đá, bê thui vàng biến thành nai… Thực tế là vậy nhưng không ít du khách “non dạ” có sở thích tìm “hàng độc” từ núi rừng đã bị “chém đẹp” mà không biết.

Có thể nói, những nét cổ kính của một quần thể di tích thuộc diện lớn của đồng bằng sông Hồng đang bị mai một, thương mại hóa và quản lý lỏng lẻo đáng lo ngại. Trong những năm tới, nếu không khéo khai thác và bảo tồn nguồn lợi du lịch này sẽ khó mà còn chỗ đứng trong lòng du khách thập phương và các phật tử gần xa.

Du lịch, GO! - Theo Petrotimes, internet
Nhắc đến những nhà thờ có kiến trúc tuyệt đẹp của Sài Gòn, người ta nghĩ ngay đến nhà thờ Đức Bà, dòng Chúa Cứu thế Giê-su, nhà thờ Tân Định… Nhà thờ Cửa Bắc, Hàm Long... là những cái tên được nhắc nhiều ở Hà Nội.

Nhà thờ Đức Bà

Tọa lạc ngay trung tâm sầm uất nhất của Sài Gòn và được bao bọc bởi hàng loạt công trình kiến trúc lớn nhỏ, hiện đại và cổ kính, nhà thờ Đức Bà là nhà thờ đầu tiên trong hành trình tìm hiểu “Hòn ngọc Viễn Đông”. Ngoài kiến trúc Pháp tuyệt đẹp, nhà thờ Đức Bà nổi bật với mảng màu ấm áp gạch, các ô cửa cuốn tròn kiểu Roman, cung vòm gãy kiểu Gothique, tiếng gióng giả của bộ chuông nặng nhất nước, màu xanh của khu công viên gần đó hay thú vui cà phê bệt, một trong những hình thức thư giãn đặc trưng giới trẻ của Sài Thành.

Nhà thờ Tân Định - 289 Hai Bà Trưng, Q.3

Nhà thờ Tân Định (tên chính thức là nhà thờ Thánh Tâm Chúa Giê-su) được khởi công vào năm 1870 và khánh thành vào năm 1876. Đây là một trong những nhà thờ đầu tiên và quy mô lớn nhất Sài Gòn.

Tổng thể công trình mang phong cách kiến trúc Gothique. Toàn bộ công trình hiện được sơn màu hồng, phía mặt tiền gồm một tháp chính và hai tháp phụ. Nội thất nhà thờ khá bề thế với hai hàng cột Gothic dẫn tới bàn thờ chính làm bằng đá cẩm thạch của Ý, tôn lên vẻ đẹp rất nhiều cho cả công trình kiến trúc.

Nhà thờ Huyện Sĩ - số 1 Tôn Thất Tùng, Q.1

Nhà thờ Huyện Sỹ hay nhà thờ Thánh Philipphê Tông do ông bà Lê Phát Đạt, tức Huyện Sỹ, hiến đất và xuất 1/7 gia tài để xây dựng. Nhà thờ khởi công năm 1902 và khánh thành vào năm 1905. Ban đầu nhà thờ có tên là Nhà thờ Chợ Đũi, tuy vậy dân gian gọi là nhà thờ Huyện Sỹ. Sau đó nó trở thành tên chính thức.

Hiện nhà thờ Huyện Sỹ được đánh giá là có khuôn viên rộng rãi khoáng đãng nhất ở Sài Gòn.

Nhà thờ Cha Tam - 25 Học Lạc, Q.5

Nhà thờ Cha Tam (hay còn gọi là nhà thờ Phanxicô Xaviê) khánh thành vào đầu thế kỷ 20 do linh mục Pierre d’ Assou đứng ra xây dựng và cũng là cha xứ đầu tiên. Đây cũng là xuất xứ tên gọi hiện nay.

Nhà thờ có lối kiến trúc Gothique, nhưng yếu tố văn hóa Hoa vẫn được coi trọng với cổng nhà thờ xây kiểu tam quan, tên nhà thờ ghi bằng chữ Hán, mái lợp ngói âm dương, các đầu đao cong…

Nhà thờ Hạnh Thông Tây - 53/7 Quang Trung, Q.Gò Vấp

Nhà thờ Hạnh Thông Tây do ông Lê Phát Đạt bỏ tiền ra xây dựng sau khi xây xong nhà thờ Huyện Sỹ. Nhà thờ được xây dựng theo phong cách kiến trúc Byzantine, mô phỏng Vương cung Thánh đường Saint Vitale ở thành phố Ravenna, Ý.


Nhà thờ có chiều dài 40 mét, rộng 14 mét, cao 16 mét, vòm 20 mét, tháp chuông 30 mét (năm 1952 giảm xuống còn 19,5 mét vì lý do an ninh hàng không). Phía trên cửa trước nhà thờ Hạnh Thông Tây có tượng Thánh Denis là thánh quan thầy của ông Denis Lê Phát An. Trên nóc vòm nhà thờ được trang trí tranh mosaic theo phong cách Byzantine mô tả cảnh Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá.


Nhà thờ Chúa Cứu Thế - 38 Kỳ Đồng, Q.3

Tọa lạc trên đường Kỳ Đồng, Dòng Chúa Cứu Thế và Tu viện Sài Gòn có khuôn viên rộng rãi, là điểm đến của nhiều bạn trẻ và các giáo dân trong những ngày cuối tuần hay dịp lễ.

Bên cạnh đó, địa danh này cũng thu hút du khách và giáo dân đến dự thánh lễ hay tham quan, chiêm bái hàng loạt các công trình kiến trúc hiện đại và cổ điển tại đây.

Nhà thờ lớn Hà Nội - số 40 phố Nhà Chung, quận Hoàn Kiếm

Nhà thờ lớn Hà Nội còn gọi là nhà thờ Saint Joseph được xây dựng trên khu đất vốn là nền của tòa tháp Báo Thiên nổi tiếng của kinh thành Thăng Long thời Lý (thế kỷ 11 - 12), mô phỏng kiến trúc nhà thờ Đức Bà Paris của Pháp.

Đây là một nhà thờ tiêu biểu cho lối kiến trúc Gothique với những mái vòm uốn cong, rộng, hướng lên bầu trời. Song cũng như nhiều nhà thờ khác, nhà thờ bị bản địa hóa bằng các chi tiết chạm trổ, sơn son thếp vàng. Vật liệu xây dựng chính của nhà thờ là gạch đất nung, tường trát bằng giấy bồi.

Nhà thờ Hàm Long - 21 phố Hàm Long, quận Hoàn Kiếm

Nhà thờ Hàm Long do kiến trúc sư người Việt thiết kế và hoàn thành vào tháng 12/1934, cao 17m. Nhà thờ được xây dựng với các vật liệu dân gian như rơm hồ vôi, nứa, giấy bản... để tạo các vòm cuốn, gây hiệu quả phản âm khi hành lễ. Trên các cột và bàn thờ được trang trí bằng các họa tiết dây thừng như kiểu dây áo dòng Phanxicô.

Nhà thờ Hàm Long với hai mặt tiền trông ra các phố Hàm Long, Ngô Thì Nhậm, được xem là một trong những nhà thờ đẹp nhất Hà Nội.

Nhà thờ Cửa Bắc - 56 Phan Đình Phùng

Nhà thờ Cửa Bắc được xây dựng ở Cửa Bắc thành Thăng Long vào năm 1931-1932 (có nhiều tài liệu viết nhà nhờ được xây dựng năm 1927 dưới thời Pháp thuộc), do linh mục - kiến trúc sư người Pháp tên là Đô-pô-lit (tên Việt là Cố Hương) thiết kế theo kiểu hình chữ nhật. Nhà thờ không tuân theo quy tắc đối xứng, mà lệch với tháp chuông cao ở bên phải và cân bằng với mái vòm ở trung tâm.

Nhà thờ Thịnh Liệt - ngõ Giáp Bát

Nhà thờ Thịnh Liệt còn gọi là nhà thờ Làng Tám tọa lạc ở trong ngõ Giáp Bát, quận Hai Bà Trưng. Công trình được xây dựng vào năm 1911 trên một khu đất rộng rãi, thoáng đãng thuộc địa phận làng Thịnh Liệt theo thết kế của một người Việt là Đốc (Docteur) Thân.

Nhà thờ xây dựng theo phong cách kiến trúc khá pha trộn, với bố cục cân xứng gồm hai tòa tháp theo kiểu nhà thờ Gothique, hệ thống cửa vòm tròn cộng dãy mái lợp gạch đỏ chạy dài và kết thúc ở các múi cong theo kiểu kiến trúc Phục Hưng và cả những họa tiết mang tính dân tộc.

Nhà thờ được vua Lê Hiển Tông phong một bức hoành phi có bốn chữ "Sơn Nam Vọng Tộc" để chỉ một dòng họ nhiều danh vọng của trấn Sơn Nam. Trấn Sơn Nam lúc đó bao gồm các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Hà Nam và Hà Đông.

Nhà thờ Phùng Khoang - Thanh xuân

Nhà thờ ở làng Phùng Khoang, xã Trung Văn, Từ Liêm, Hà Nội, gần đường Hà Nội - Hà Đông, cách bờ hồ Hoàn Kiếm khoảng 10 km. Nhà thờ xây dựng năm 1910, cùng theo thiết kế của kiến trúc tân cổ điển Pháp.

Nhà thờ An Thái - ngõ 460 Thụy Khuê, Tây Hồ

Nhà thờ An Thái (có tên khác là là nhà thờ Kẻ Bưởi) được xây dựng vào những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 trên đất làng An Thái, thuộc vùng Kẻ Bưởi ở phía Nam của hồ Tây. Nhà thờ được xây dựng theo phong cách kiến trúc Phục hưng với những họa tiết trang trí tinh tế. Ngày nay, nhà thờ An Thái là một trong những nhà thờ cổ còn giữ được kiến trúc nguyên bản ở Hà Nội.

Du lịch, GO! - Theo Infonet và nhiều nguồn khác.
Lặng lẽ bên bờ hồ Hoàn Kiếm, bấy lâu nay ngọn tháp Hòa Phong đã nhuốm màu rêu phong, không còn mấy ai biết rằng đó là dấu tích của ngôi chùa lớn nhất thế kỷ 19.

Ngọn tháp cổ cuối cùng

Với những người dân Hà Thành, hình ảnh một ngôi tháp rêu phong, cổ kính nằm trên đường Đinh Tiên Hoàng dường như đã trở nên quá quen thuôc. Ngôi tháp như một điểm nhấn cổ kính giữa lòng Hà Nội hoa lệ. Hầu hết không chỉ người Hà Nội mà những người khách tới hồ Hoàn Kiếm du lịch đều nghĩ rằng ngôi tháp thuộc quần thể Tháp Rùa – Hồ Gươm. Nhưng ít ai biết đó là một trong những công trình kiến trúc nghệ thuật còn sót lại của quần thể chùa Báo Ân được xây dựng cách đây hàng trăm năm.

Chùa có tên là Báo Ân được xây dựng vào khoảng năm 1842. Vì hồ trong chùa rất nhiều sen nên dân còn gọi là chùa Liên Trì và cũng còn có tên khác là Quan Thượng (tên của viên quan lập chùa). Chùa có 180 gian, kiến trúc phức tạp và cầu kỳ. Chùa nằm ở bờ đông hồ Gươm, mặt trước quay ra sông Hồng, mặt sau dựa vào hồ. Chùa Báo Ân nằm trên khu đất gần 100 mẫu, gồm 180 gian với 36 nóc.
Tháng 11/1885, viên Toàn quyền người Pháp là De Lanessan ra lệnh đốt các nhà lá quanh hồ Hoàn Kiếm. Đêm 22/1/1886, 300 nóc nhà ở Cầu Gỗ, Hàng Bè, Hàng Mắm, Hàng Thùng, Hàng Vôi đã cháy trụi. Và tới đêm ngày 28/1/1886, một vụ cháy lớn xảy ra đã tiêu hủy cả thôn Cự Lâu. Khu vực chùa Báo Ân chỉ còn là mảnh đất hoang tàn.

Tới năm 1888, Pháp đã phá hủy chùa để xây nhà bưu điện. Chỉ còn tháp Hòa Phong phía sau chùa được giữ lại và là dấu tích duy nhất của chùa Báo Ân. Tháp Hòa Phong có hình vuông gồm có 3 tầng. Ở tầng 1 có cửa mở về bốn hướng theo lối vòm cuốn. Phía trên các cửa có những chữ như: Báo Ân môn - Báo Nghĩa môn - Báo Đức môn - Báo Phúc môn.

Tầng hai, bốn góc xây trụ vuông đặt tượng bốn con nghê đều hướng về phía đông. Tầng ba ghi “Hòa Phong Tháp”, trên đỉnh nhô cao có trang trí bầu hồ lô. Đây là một kiểu tháp rất ít thấy trong kiến trúc Phật giáo. Tầng 1 to và cao hơn hẳn hai tầng trên cùng. Nếu như bảo tháp Lục độ Đài sen ở chùa Trấn Quốc bên hồ Tây vươn tới 11 tầng, cao 15 mét, thì tháp Hòa Phong chỉ có 3 tầng và xây bằng gạch trần. Có lẽ do nó nằm ở ngoài phía cổng chùa, chứ không như những ngôi tháp mộ sư trong vườn chùa.

Dấu tích của "động tiên"

Theo các tư liệu còn lại, người đứng ra chủ trì việc dựng chùa là tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội - Bắc Ninh) Nguyễn Đăng Giai. Nguyễn Đăng Giai vốn là người làng Phù Chánh, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ông xuất thân trong một danh gia vọng tộc, ông nội là tiến sĩ Nguyễn Đăng Hoành, cha ông là Hiệp biện đại học sĩ Nguyễn Đăng Tuân (là thày dạy học của Vua Thiệu Trị).

Thuở nhỏ, Nguyễn Đăng Giai theo học với cha, năm Minh Mạng thứ nhất (1820), ông đỗ hương tiến (cử nhân) rồi lần lượt được bổ nhiệm các chức quan quan trọng trong triều Nguyễn. Ông là vị danh thần có nhiều công lao to lớn trong việc dẹp nạn cướp, chấn chỉnh binh thuyền, tiễu trừ nhiều nạn nhũng nhiễu hại dân, dẹp nhiều cuộc nổi loạn, mở nhà dưỡng tế cho nhân dân mất mùa, đói kém... Năm Bính Ngọ 1846, dưới triều Thiệu Trị, Nguyễn Đăng Giai khi ấy giữ cương vị Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội và Ninh Bình) đã đứng ra chủ trì, quyên tiền cho việc xây dựng chùa Báo Ân với quy mô to lớn.

Chùa Báo Ân sau khi khánh thành có quy mô bề thế vào loại nhất thành Hà Nội thời đó. Từ con đường ven hồ phía đông dẫn vào có tháp Hòa Phong, sau đó đến cổng chùa, vượt qua chiếc cầu đúc lát gạch thì đến lầu hộ pháp, hai bên có bốn ngọn tháp đối xứng cao ba tầng.
Tiếp đến “Đại hùng bửu điện” tôn trí nhiều pho tượng Phật, Bồ Tát tuyệt đẹp. Có hành lang tô đắp, chạm trổ cảnh “Thập điện Diêm Vương”, mô tả sự khổ báo trong mười địa ngục rất sinh động. Phía sau có điện thờ thánh mẫu, tăng xá, trai đường, tổng thể chùa có 36 mái, 150 gian. Chung quanh vườn chùa xây dựng tường bát giác bao bọc, bên ngoài đào hào trồng sen.

< Bia đá ở chùa Báo Ân.

Đây là một trong những công trình mang dấu ấn của nhà Nguyễn trên đất Thăng Long. Đồng thời cũng tiêu biểu cho dòng tư tưởng “Cư Nho Mộ Thích” thịnh hành trong thời Nguyễn. Tư tưởng này có nghĩa là học hành theo đạo Nho nhưng vẫn chuộng mộ đạo Phật. Quan tổng đốc Nguyễn Đăng Giai là con nhà Nho giáo (cha là thiếu sư Nguyễn Đăng Tuân, thầy học của vua Thiệu Trị) nhưng lại đứng ra chủ trì việc dựng chùa.

Với vị trí đắc địa ngay cạnh hồ Gươm linh thiêng, chùa Báo Ân xưa được ví như "động tiên" giữa chốn kinh kỳ với những câu ca truyền tụng như: "Gần xa nô nức tưng bừng/Vào chùa Quan Thượng xem bằng động tiên". Quang cảnh thanh tịnh, đẹp đẽ của chùa Báo Ân khi ấy đã đi vào trong dân gian bằng những câu ngợi ca hết lời: "Phong quang cảnh trí trăm đường/Trong xây chín giếng, ngoài tường lục lăng/Rõ mười cửa động tưng bừng/Đền vàng tỏa ngọc chất từng như nêm".

< Cổng chùa Báo Ân.

Là ngôi chùa lớn bậc nhất kinh kỳ thuở bấy giờ, nhưng Báo Ân có lẽ cũng là ngôi chùa "đoản thọ" nhất. Các tài liệu còn tồn tại đến ngày nay có sự vênh nhau về năm xây dựng và năm ngôi chùa bị phá hủy, có tài liệu nói chùa Báo Ân xây năm 1842, bị phá năm 1883; có tài liệu lại viết xây dựng năm 1846, bị phá hủy năm 1888... nhưng dù theo mốc nào thì Báo Ân vẫn là ngôi chùa có thời gian tồn tại ngắn nhất trong lịch sử các ngôi chùa lớn ở Việt Nam.

Du lịch, GO! - Theo Kinh Vân (Infonet), internet
Bánh nhãn được xem là đặc sản của vùng quê lúa Nam Định. Vùng Hải Hậu nổi tiếng làm loại bánh này ngon nhất.

Dịp Tết, hầu như nhà nào cũng nấu được mẻ kẹo lạc nhưng bánh nhãn thì không bởi làm bánh nhãn rất kỳ công và tốn kém. Tết đến, mỗi lần làm bánh nhãn, mẹ chồng tôi thường kể câu chuyện ấn tượng với chảo bánh nhãn hồi còn bé.

Hồi đó, mẹ là chị cả với một đàn em trứng gà, trứng vịt, lúc nào cũng tha lôi nhau đi chơi. Tết năm ấy, liêu xiêu trong gió lạnh thấy ấm sực mùi mỡ lợn rán, bám theo hương thơm ấy, ba đứa trẻ đứng trước chảo bánh nhãn của nhà bà Mùi, hộ khá giả nhất ở đầu xóm, lúc nào không hay.

Những viên bánh nhãn vàng ruộm, to bằng đầu ngón chân cái cứ xoay đều theo nhịp đảo của hai cái đũa cả to đùng. Bà Mùi nhìn ánh mắt thèm thuồng của ba đứa trẻ, hứa sẽ cho mỗi đứa hai viên. Đúng lúc bà rút lửa vớt bánh ra rổ thì nghe tiếng bà ngoại gọi vóng vót. Mẹ sợ quá, bế dì chạy về, bị bà mắng cho cái tội đi chơi lâu. Cậu tôi ráng chờ bằng được mấy viên bánh nhãn vừa “ra chảo”, cứ hai tay đảo nhau, miệng thổi phù phù, gương mặt hớn hở chạy về nhà...

Tết thứ hai về làm dâu, tôi được bố mẹ chồng bày cho làm bánh nhãn. Mẹ tôi về tận nhà cô ruột chuyên buôn gạo ngon nổi tiếng để mua gạo nếp. Trứng gà thả vườn đã chờ sẵn. Và vài cân mỡ phần trắng ngần được bố thái mỏng sôi lục bục trên bếp.

Làm bánh nhãn kỳ công ngay từ khâu đầu. Gạo làm bánh phải là nếp mùa, loại ngon. Khi xóc gạo để làm bánh nhãn không được thò tay vào mà bóp, mà xoa. Muốn nhặt sạn, nhặt thóc phải làm từ lúc gạo khô. Khi đã cho vào rá thì chỉ làm sạch bằng nước và xóc gạo trong rá. Nhấc gạo từ dưới nước lên thì cứ để nguyên không được di chuyển  thì rá gạo lớn đến mấy cũng khô khảo để đem đi xay mịn. Chẳng may cho tay vào khuấy thì coi như hỏng vì gạo sẽ không khô được.

Công thức làm bánh nhãn là 12 quả trứng gà/1kg bột. Bột sau khi xay mịn phải dùng rây để lọc lại, sờ vào mát tay, không một chút gợn mới đạt yêu cầu. Đổ bột vào chậu to, đập trứng gà vào và đánh nhuyễn với bột. Khâu nhồi bột cần mạnh tay, đều tay và dai sức, đến khi nào bột quyện với trứng vàng xốp, nhẵn lạnh như thạch thì được. Khi nặn bánh phải chắc tay, tròn nhưng không rạn, không ướt nước và xếp tăm tắp trên mặt mâm như bánh trôi.

Làm bánh nhãn tay chân, dụng cụ đều phải khô ráo vì chỉ cần dính tí nước lã thôi thì bánh sẽ bị nổ ngay. Mỡ sôi lăn tăn thì cho bánh vào rán. Khi đảo phải nhẹ và đều tay để bánh tròn như lòng đỏ trứng, không dính, nở đều.

Thắng đường cũng đòi hỏi kỹ thuật cao. Nếu quá lửa thì đường cứng, bám dày mà không đều khắp mặt bánh. Thiếu lửa thì màu đường đục, ít bám dính vào bánh. Phải làm sao để đường tan chảy vừa độ (mẹ tôi đo bằng cách khi đường vừa chuyển màu trong thì nhỏ một giọt vào bát nước lạnh, nếu viên đường vê tròn lại trong bát nước là được), cho bánh vào đảo sẽ bám đều, mỏng dính một lượt quanh viên bánh, không che phủ mất màu vàng ruộm của những viên bánh vừa rán, tạo một màng trắng trong hấp dẫn như cùi nhãn.

Giờ thì bánh nhãn Hải Hậu được làm công nghiệp với nhiều loại máy móc hỗ trợ từ xay bột, đập bột, rán bánh đến hồ đường. Bánh có quanh năm và thương hiệu “bánh nhãn Hải Hậu” đã vượt khỏi làng, khỏi tỉnh. Mỗi ngày sản xuất hàng tấn bánh, cao điểm dịp Tết các nhà phải làm ngày làm đêm mới đủ hàng để giao. Ngay Hà Nội cũng có nhiều siêu thị, đại lý bán bánh nhãn Hải Hậu, nhưng nhiều gia đình gốc gác Hải Hậu vẫn giữ nếp cũ dành thời gian tự tay làm bánh nhãn dịp Tết để cúng ông bà, tổ tiên và tặng bạn bè.

Ăn viên bánh nhãn mình làm rất thơm ngon, biếu nhau gói bánh nhãn thì rất quý vì ai cũng biết làm bánh nhãn kỳ công lắm, biết mình làm được gói bánh nhãn vất vả thế nào, nó thể hiện tình cảm trân quý dành cho người thân, bạn bè.

Du lịch, GO! - Theo Anh Vũ (TTXuân)
Mùa xuân, lên cao nguyên đá Hà Giang mới cảm nhận được sự chuyển mình của thiên nhiên nơi đây. Hoa như biết mỉm cười và đá cũng biết gật đầu.

< Đường lên cao nguyên đá Hà Giang.

Mảnh đất Hà Giang nơi địa đầu cực bắc của Tổ quốc với hai phần ba là đá, vì vậy đi đến đâu như cũng chạm vào đá, chạm vào những nụ cười của đồng bào dân tộc nơi đây. Cảnh quan môi trường đậm nét nguyên sơ với bạt ngàn núi đá tai mèo trải rộng khắp bốn huyện vùng cao núi đá phía bắc. Ở phía tây, những ruộng bậc thang gối nhau trùng điệp.

< Thấp thoáng những áng hoa đào.

Những núi đá cao ngất. Những thung lũng đá vốn xám xịt ngày thường thì cứ mỗi độ xuân về, những địa danh Cổng Trời, Quản Bạ, Lũng Cú hay Đồng Văn đều ngập tràn những cây đào phai đua nhau khoe sắc tạo thành bức tranh mùa xuân lộng lẫy, huyền ảo.

< Trẻ em vùng cao như những đóa hoa sống.

Đồng bào dân tộc Mông nơi đây có tục lệ ăn tết kéo dài đến hết tháng giêng, bạn sẽ được thưởng thức những món ăn đặc sản như thắng cố, cháo ấu tẩu, nộm tái dê…

Đến với Hà Giang, ngoài các món ăn đặc sản vùng cao, bạn cũng không thể từ chối, bỏ qua chén rượu ngô thơm mát được chế biến từ ngô, hạt đồ chín ủ với men lá (men lá được chế từ hơn 30 loại thảo dược  trong rừng) và được chưng cất từ nguồn nước tinh khiết trên núi.

Hiện có nhiều loại rượu ngô ngon nổi tiếng như rượu ngô Thanh Vân (Quản Bạ), rượu Nà Mạ (Yên Minh), rượu Thiên Hương (Đồng Văn)...  được khách trong ngoài tỉnh ưa chuộng.

Nhưng không chỉ say vì rượu ngô, miền núi cao này còn dễ làm người ta “say” vì sương mờ quấn quýt trên đỉnh núi; vì những cung đường uốn lượn; vì những ngôi nhà có vách đất trình tường vàng màu đất; vì những mảnh khăn, chiếc váy xòe xanh đỏ của những người trỉa bắp thấp thoáng trên triền núi...

Và tất nhiên vì cả loài hoa đã làm nên nét quyết rũ của cao nguyên địa đầu Tổ quốc mỗi khi xuân về...

Du lịch, GO! - Theo Khắc Thành (DulichTuoitre)
Tồn tại giữa mênh mông rừng già xã Vĩnh Sơn (H.Vĩnh Thạnh, Bình Định) hàng trăm năm qua nhưng thành đá Tà Kơn vẫn còn nhiều bí ẩn.

Ở Bình Định, sông Côn được mệnh danh là “dòng sông vương triều”, bởi nó gắn liền với các cuộc khởi nghĩa vang dội của những người áo vải khi đã từng xuôi dòng sông Côn về hạ lưu để làm nên một chiến thắng Ngọc Hồi, Đống Đa, Rạch Gầm Xoài Mút, thống nhất đất nước, làm nên một tên tuổi hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ. Thượng nguồn sông Côn miền Tây Sơn thượng đạo chính là nơi còn lưu giữ nhiều huyền thoại về anh em nhà Tây Sơn, và một trong những điều hấp dẫn nhất đó là câu chuyện về thành cổ Tà Cơn thuộc làng Kon Blo, nằm sâu trong cánh rừng ở Vĩnh Sơn, Vĩnh Thạnh, Bình Định.

Truyền thuyết

< Người Ba Na trong làng Kon Blo.

Theo già làng Đinh Chương (ở làng Kon Blò, xã Vĩnh Sơn), Tà Kơn trong ngôn ngữ Ba Na có nghĩa là “chồng lên nhau”, ý muốn nói đến những hòn đá được xếp chồng lên nhau một cách rất lạ không ai hiểu được.

Quá trình xây thành, giữ thành Tà Kơn được kể lại bằng hơ mon (hát kể sử thi Ba Na) đắm màu huyền thoại. Một truyền thuyết cho rằng Tà Kơn xưa kia vốn là nhà của 3 anh em, gồm 2 vị vua Trum, Trăm và nàng công chúa xinh đẹp, thông minh tên Bia Tơni.

< Đường rừng vào thành cổ Tà Cơn.

Một truyền thuyết khác về nguồn gốc của thành Tà Kơn gắn liền với nàng Hơ Bia xinh đẹp. Thần núi muốn cưới Hơ Bia làm vợ. Nhưng thần có khuôn mặt bằng đá, dưới cằm có yếm như yếm bò cái trông rất xấu xí nên Hơ Bia không hài lòng, yêu cầu nếu thần vượt qua được ba cuộc thử tài của nàng thì sẽ chấp nhận lời cầu hôn. Thần núi đều vượt qua tất cả những lần thử tài nên hai người thành vợ chồng và cùng nhau xây dựng thành Tà Kơn.

Trong truyện cổ Ba Na Kriêm có đoạn: “Không rõ hai anh em Đrum và Đrăm từ đâu đến, thấy có hòn đá đẹp họ dừng lại, đặt tên ná một bên rồi mài lại rựa. Lưỡi dao chỉ liếc qua một tí đã sắc lẻm, chặt cây lớn mấy cũng ngã, đụng đến đá cứng mấy cũng đứt liền. Thấy Đrum, Đrăm khoẻ đẹp và có hòn đá trời cho nên dân làng Kon Blo, từ em bé mới biết đi đến người già chống gậy đều dắt díu nhau đi theo họ lập làng mới.


< Anh Đinh Khuất, người dẫn đường đến thành Tà Kơn.

Ngày trước, làng Kon Blo thường bị giặc phá, năm nào dân chúng cũng phải rời làng. Giờ có Đrum, Đrăm, có hòn đá đẹp, dân làng hăng hái mài dao, mài rựa để chặt đá, xây thành giữ làng. Đồng bào Kon Blo chặt đá vuông vức, kê lên nhau xây thành hình móng ngựa trên một sườn núi. Bên trong, dân làm chuồng trâu, đào hầm giấu lúa gạo, làm nhà rông, nhà bếp, đào hào, đào đường xuyên núi”.

Bên cạnh truyền thuyết của người Ba Na, có ý kiến cho rằng thành Tà Kơn do anh em nhà Tây Sơn xây dựng nên. Khi 3 anh em nhà Tây Sơn chiêu binh mãi mã, người Ba Na hưởng ứng rất mạnh mẽ và họ đã cùng nhau dựng nên thành Tà Kơn làm cứ điểm bí mật. Gần Tà Kơn còn có nhiều di tích liên quan đến cuộc khởi nghĩa của nhà Tây Sơn như Hòn Còng (huyện K’bang, Gia Lai), núi ông Bình, núi ông Nhạc (theo tên của Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc), núi Phát Lương, Vườn cam Nguyễn Huệ…

Thâm u huyền bí

Hành trình đi dọc sông Côn từ hạ lưu lên thượng nguồn, chúng tôi như trở về miền ký ức, những câu chuyện ngàn năm cứ trải dài qua từng vùng đất, di tích, con người. Và trong suốt hành trình ấy, chúng tôi luôn bị ám ảnh bởi hình ảnh thành cổ Tà Cơn với những huyền thoại gắn liền từ sử thi đến những câu chuyện cổ.

Tại khu di tích vườn cam Nguyễn Huệ thuộc xã Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh Thạnh, Bình Định, theo chân những người bản địa, chúng tôi làm cuộc hành trình băng rừng tìm đến thành Tà Cơn ở làng Kon Blo. Trong ngôn ngữ của người Ba Na, Kon Blo có nghĩa là “đá xếp”.

Từ trụ sở xã Vĩnh Sơn, chúng tôi sử dụng phương tiện xe máy để đến bìa rừng. Nhóm sáu người dẫn đường đều là cư dân địa phương, dù sinh ra và lớn lên ở rừng núi Vĩnh Sơn, nhưng chỉ Đinh Klăm ở thôn K8 là người từng đến thành cổ Tà Cơn, và hành trình đi rừng của chúng tôi dồn hết hy vọng vào người dẫn đường này.

Gần đến bìa rừng, đường đi mỗi lúc một khó khăn hơn, chúng tôi rời phương tiện xe máy, đi bộ tiến sâu vào rừng. Trên đường đi, chúng tôi gặp những bà con dân tộc Ba Na đi phát rẫy về, hỏi về thành cổ Tà Cơn nhưng chẳng ai biết đến.


< Một đoạn thành bị đổ, đá nằm ngổn ngang.

Đường đến thành Tà Kơn là một lối mòn nhỏ, luồn lách trong những cánh rừng nguyên sinh thâm u, huyền bí. Có những đoạn bị cây rừng che kín phía trên khiến người ta có cảm giác như đang đi trong hang động nằm dưới đất sâu. Theo anh Đinh Khuất (con trai già làng Đinh Chương), đường đến Tà Kơn bây giờ cũng chính là con đường mà ngày xưa tổ tiên của người Ba Na vận chuyển đá, vật liệu… để xây thành. Vừa đi, anh Khuất vừa giới thiệu về những dấu tích mà tổ tiên mình đã để lại.

Khi người Ba Na xây thành Tà Kơn, họ không được phép đi bộ đến nơi làm việc mà phải đu mình theo một cái dây dài và cao đến hàng trăm mét, từ núi Kon Hray băng qua suối Trú để đến Văn Len. Đây chính là nơi nghỉ chân, chuẩn bị dụng cụ để bắt đầu ngày làm việc mới. Từ Văn Len nhìn xuống suối Trú sẽ thấy thác Dá Bda, nơi công chúa Bia Tơni thường tắm. “Mỗi khi Bia Tơni tắm, mặt trời trên đỉnh núi tỏa sáng, mặt nước dưới suối rực rỡ những sắc cầu vồng. Ngay thác nước có cây cau nhưng chỉ sinh đúng 1 buồng cau có hình dạng hệt như Bia Tơni xinh đẹp” - anh Khuất hào hứng kể lại.


< Vẻ đẹp của thành Tà Cơn trong rừng sâu.

Đi bộ trong rừng gần 2 giờ đồng hồ chúng tôi mới đến được thành Tà Kơn. Ấn tượng đầu tiên là bức tường thành cao gần 20 m, dài hàng trăm mét gồm những phiến đá to bằng mặt bàn, có hình lục lăng, hình trụ chữ nhật… xếp chồng lên nhau theo một hàng thẳng đứng. Gần tường thành có những tảng đá to riêng lẻ xếp chồng lên nhau như những cây cột khổng lồ. Có một đoạn thành bị sập, đá đổ xuống ngổn ngang trên mặt đất. Ngay đầu tường thành có một hang đá sâu thẳm, tối om. Theo lời anh Khuất thì đó là con đường bí mật dẫn đến thung lũng dưới chân thành nơi có nhà ở của 2 vua Trum, Trăm.

Theo khảo sát, tường thành là những khối đá sa thạch lớn, hình trụ được xếp ngay ngắn chồng lên nhau. Khoảng nối giữa hai phiến đá khít chặt, rất giống với lối xây dựng quen thuộc trong các kiến trúc đền đài ở đất nước Campuchia thời kỳ Angkor. Rải rác đây đó là những gốc cổ thụ khổng lồ nhả rễ ôm kín lấy tường thành, cũng giống như những cây nuốt đền trong các di tích Angkor.

Anh Đinh Khuất kể: “Khi đi xây thành Tà Kơn, người làng Kon Blò mang theo đao, rựa nhưng phải mài bằng đá do anh em Trum, Trăm đưa ra thì mới sắc bén lạ thường, chặt đá như chặt củi. Một hôm, có người trong làng nghĩ đao, rựa của mình có khả năng chặt đá mới đem chặt thử hòn đá trước nhà nhưng cây rựa bị gãy làm đôi. Người đời sau đến thành Tà Kơn tìm đá mài của 2 vua Trum, Trăm nhưng chẳng ai tìm được”.


< Vết nối giữa hai tầng đá.

Đứng trước bức tường đá sừng sững, bao quanh núi, anh cho chúng tôi biết những người đi rừng giỏi nhất vùng Vĩnh Thạnh cũng chưa ai đi hết tường thành Tà Cơn. Vì đường đi đầy nguy hiểm, bên là vực sâu, bên là vách tường thành dựng đứng, cộng với những câu chuyện huyền bí về thành cổ, khiến Tà Cơn trở thành một địa điểm bí ẩn nằm sâu trong rừng thiêng, hoà với không khí âm u của núi rừng càng làm cho thành cổ thêm hoang tàn, ít người lui tới, qua lại.

TS Đinh Bá Hòa, Giám đốc Bảo tàng Bình Định, cho rằng Tà Kơn là sản phẩm của tự nhiên vì con người không thể xây dựng một thành đá hùng vĩ như thế. “Bảo tàng Bình Định và các cơ quan chức năng đang phối hợp lập hồ sơ đề nghị công nhận Tà Kơn là di tích cấp huyện. Chúng ta phải đánh thức Tà Kơn cho mọi người biết đến chứ không thể để một di tích đẹp như thế ngủ mãi trong rừng sâu” - TS Đinh Bá Hòa nói.

Chia tay những phiến đá vô tri của thành Tà Cơn nhưng ẩn chứa cả một huyền thoại gắn liền với các tích truyện lịch sử về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, chúng tôi biết rằng, những bức tường đá rêu phong kia sẽ vẫn mãi còn đó, lặng lẽ chốn rừng sâu, nhưng ôm trọn trong lòng niềm tự hào của đất trời miền Tây Sơn thượng đạo.

Đường đến thành cổ Tà Cơn:

Từ thành phố Hồ Chí Minh đi theo quốc lộ 1A về phía bắc khoảng 649km đến thành phố Qui Nhơn. Từ đây đi theo quốc lộ 19 khoảng 80km đến Đồng Vắt sau đó rẽ phải đi theo tỉnh lộ 637 khoảng 70km đến làng Kon Blo - Vĩnh Sơn – Vĩnh Thạnh. Đến đây du khách sẽ được người dân địa phương chỉ đường đến thành cổ Tà Cơn.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ Thanhnien, SGTT, internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống