Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Sunday, 24 February 2013

Chùa có tên là Linh Sơn Bửu Thiền, tọa lạc trên núi Thị Vãi thuộc xã Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Theo Quốc lộ 51 đi Vũng Tàu, qua khỏi chùa Đại Tòng Lâm 100m, rẽ trái đi vào 2km là tới chân núi Thị Vãi. ĐT: 064.876950. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.

Theo sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, bà Lê Thị Nữ là người đầu tiên tu trên đỉnh núi, nên núi có tên là Thị Vãi. Ni sư Diệu Thiện (Lê Thị Nữ) đã cứu Nguyễn vương thoát nạn, sau lên ngôi là vua Gia Long. Vua đã sắc phong cho Ni sư Diệu Thiện là Linh Sơn Thánh mẫu, sắc tứ Linh Sơn Bửu Thiền tự.

< Chùa Linh Sơn Bửu Thiền (chùa Thượng).

Trải qua một thời gian, chùa được truyền đến Hòa thượng Thích Từ Thuận. Ngài đắc đạo và nổi tiếng cứu dân độ thế trong vùng này. Sau đó, Hòa thượng Thích Trí Đức kế nghiệp trụ trì.
Chùa bị hư hại nặng năm 1945, đến năm 1966 thì chùa bị phá hủy hoàn toàn.

Năm 1993, Thượng tọa Thích Trí Thâm trùng tu chùa, nhưng mới mở đường lên núi và bắt đầu xây chùa thì viên tịch. Năm 1999, Hòa thượng Thích Trí Quảng đã tổ chức đại trùng tu ngôi chùa. Các công trình do Hòa thượng Viện chủ thực hiện gồm có: Cổng chùa, Chùa Liên Trì, chùa Hồng Phước và Quang Minh điện, chùa Tổ hay Linh Sơn Bửu Thiền tự gồm chánh điện, điện Tỳ Lô Giá Na, vườn Cực lạc, tượng Phật Niết bàn, điện Quan Âm v.v…

Cổng chùa ở chân núi được xây bằng đá, trên có hai mái lợp ngói. Mặt trước, một bên có biển ghi tên chùa: Linh Sơn Bửu Thiền Tự, Linh Sơn Hồng Phúc Tự, Linh Sơn Liên Trì Tự. Một bên khắc văn bia chùa Bửu Thiền của Sơn tăng Nhật Nghiêm (2001). Bài văn có đoạn:


< Chùa Liên Trì.

“… Nhờ Phật tử bốn phương, nên công việc đại trùng tu kết quả. Đường lên non khai phá, Quang Minh điện khởi công. Tăng tục quyết một lòng, xây Liên Trì Hải Hội. Những người hết tội, được vào lâu các Tỳ Lô Giá Na. Muốn độ chúng Ta bà, xin hướng về Linh Sơn Phật hiện. Xây dựng Đại hùng bửu điện, làm nơi đàn tín quy y. Lấy cát ở Liên Trì, tạo nên trai đường, Tăng xá. Muốn thành đạo cả, phải vượt Sanh Tử trường kiều. Phật pháp cao siêu, thường gặp trên Niết bàn sơn đảnh. Tổ sư ngộ tánh từ miệng cọp, hang rồng. Tứ đại giai không, được lên bờ giải thoát…”.
Chùa Liên Trì nằm ở chân núi Thị Vãi, là nơi nghỉ ngơi của khách hành hương trước khi vượt 1.340 bậc cấp đến chùa Linh Sơn Bửu Thiền.

Chùa Hồng Phúc hay chùa Giữa, chùa Trung được xây dựng để nhớ công đức của Hòa thượng Thích Trí Đức. Cạnh chùa là điện Quang Minh thờ Bồ tát Di Lặc ngồi trên tòa sen đặt trên lưng con rồng.

< Điện Quang Minh.

Qua chùa Trung, khách hành hương tiếp tục lên núi. Leo những bậc cấp cuối cùng với độ cao khoảng 750m (tính từ mặt nước biển), khách hành hương đến chùa Tổ (chùa Thượng hay chùa Linh Sơn Bửu Thiền). Ở đây có những pho tượng Kim Cương lộ thiên, tượng Bồ tát Quan Âm đứng uy nghi giữa trời, dưới chân có một con rồng đang uốn lượn.

Ngôi chánh điện chùa Linh Sơn Bửu Thiền quay mặt hướng Nam. Trước chánh điện là pho tượng đức Phật Thích Ca nhập niết bàn. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Chính giữa thờ đức Phật Thích Ca, phía trước đặt tòa Cửu Long và tượng Đản sanh, hai bên có tượng Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền. Trước tượng đản sanh là tượng Di Lặc. Bàn thờ hai bên thờ tượng Bồ tát Quan Âm và Bồ tát Địa Tạng. Bàn thờ hai bên phía trong cửa chính thờ tượng Tiêu Diện, tượng Hộ Pháp và tượng Quan Thánh. Phía sau điện Phật là bàn thờ Tổ sư Đạt Ma.
Điện Tỳ Lô Giá Na được xây dựng trên nền chùa Bửu Thiền cũ. Điện thờ Pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật và hai vị Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền.

< Hang Ông Hổ.

Trước điện Tỳ Lô Giá Na là hồ sen, bên dưới có một mỏ cát lớn. Nhờ cát ở hồ này mà nhà chùa thực hiện những công trình xây dựng trên núi nhanh chóng, thuận lợi.
Trước ao sen là Sanh Tử trường kiều. Khách hành hương đi trên cầu này, ngắm nhìn hoa sen bên dưới, hình dung đang đứng trên hoa sen vượt sanh tử đến bờ giác ngộ.
Phía sau điện Tỳ Lô Giá Na là vườn Cực Lạc. Chùa tôn trí tượng bán thân đức Phật A Di Đà, đầu tựa vào một phiến đá lớn. Sau ngôi chánh điện, có khu nhà Tăng, nhà trai, nhà bếp…

Bên cạnh nhà trai, có đường lên điện Quan Âm và đường lên Niết Bàn Sơn Đảnh. Ở nơi cao nhất núi Thị Vãi, các tảng đá được thiên nhiên sắp xếp trông giống như pho tượng Phật nhập niết bàn.

Ngoài ra, trên núi cũng còn những cảnh trí thiên nhiên nổi tiếng như hang động nơi Tổ đã an tọa tu hành, giếng nước ông Hổ, giếng Tiên, Phật môn, hang Gió và nhiều hang động nơi người xưa đã ẩn tu.

< Điện Tỳ Lô Giá Na.

Ngày 10 – 4 – 2003, Sư cô Thích Nữ Tâm Hạnh, ni chúng chùa Hương Sơn cùng các chú sa di chùa Niết Bàn, tất cả 37 vị đã đến chân núi Thị Vãi, trước sân chùa Liên Trì. Y hậu trang nghiêm, các cô đồng quỳ xuống nguyện hương và thực hành Tam bộ nhất bái từ chùa Liên Trì đến chùa Linh Sơn Bửu Thiền.
Ngày nay, chùa thường xuyên đón tiếp nhiều du khách, Phật tử, sinh viên – học sinh đến chiêm bái, tham quan, sinh hoạt.

Du lịch, GO! - Theo Mytour

Saturday, 23 February 2013

Sông Đắk Bla là một con sông đổ ra Sông Sê San. Sông có chiều dài 157 km với diện tích lưu vực là 3.436 km². Sông Đắk Bla như một dải lụa mềm chảy qua các tỉnh Kon Tum, Gia Lai.

< Sông Đắk Bla đoạn chảy qua thành phố Kon Tum.

Khác với một số dòng sông ở Tây Nguyên, thường bắt nguồn từ Trường Sơn chảy về biển Đông, sông Đắk Bla với chiều dài trên 100km lại chảy theo hướng Tây Trường Sơn, từ địa phận huyện Kon Plong ở phía Tây của tỉnh Kon Tum chảy về thành phố cùng tên, hợp với sông Pô Kô từ hướng Bắc đổ xuống thành con sông lớn Sê San hùng vĩ. Vì điểm đặc biệt này, sông Đắk Bla còn được gọi là dòng sông chảy ngược.

< Một số đoạn đã được xây bờ kè và trồng cỏ trông rất đẹp.

Đến đây, bạn sẽ có cơ hội thăm những ngôi làng của người dân tộc thiểu số còn giữ nguyên được nét hoang sơ, cùng thưởng thức rượu cần, điệu múa xoan truyền thống, nghe những âm thanh của tiếng cồng, tiếng chiêng rộn rã...

< Có những cồn cát nổi chia đoạn sông thành hai nhánh.

Trong hành trình khám phá vẻ đẹp sông nước Đắk Bla - Kon Tum du khách sẽ có những kỷ niệm đáng nhớ khi được xuôi ngược dòng sông này trên thuyền độc mộc của người Bana (thuyền thường được làm ra từ một cây gỗ lớn).

< Cầu Đắk Bla.

Ở đây bạn sẽ có cơ hội thăm những ngôi làng của người dân tộc thiểu số còn giữ nguyên được nét hoang sơ, cùng thưởng thức rượu cần, điệu múa xoan truyền thống, nghe những âm thanh của tiếng cồng, tiếng chiêng rộn rã, thăm cầu treo Kon Klor, cây cầu treo đẹp và dài nhất Tây Nguyên...

< Khách sạn Indochine bên sông Đắk Bla.

Một trong những điểm đến trên tuyến du lịch sông nước này là làng Kon Jơ Ri. Từ Kon Jơ Ri, bỏ đường cái lớn, băng ngang qua làng, qua các nương rẫy và khom người luồn trong một cánh rừng nhỏ trước khi đổ ra con đường mòn chạy dọc theo vách núi của bờ sông. Nếu không ngắm nhìn cảnh quan núi rừng, nương rẫy và sinh hoạt của cư dân hai bên bờ sông, bạn có thể một mình đón thuyền độc mộc trên bến đò làng Kon Tu để ngược dòng về Kon Bã - điểm mà du khách phải tới trước khi xuôi dòng.

< Thuyền độc mộc trên lòng hồ Ya Ly.

Mùa sông cạn, nước mát lạnh và trong vắt nhiều chỗ nhìn thấy đáy. Nhưng cũng có nhiều chỗ eo nước sâu hàng chục mét. Dòng nước lúc lững lờ, lúc cuồn cuộn gầm réo trên ghềnh đá. Cầm lái chiếc thuyền độc mộc dài khoảng 5m nhưng chiều rộng chưa tới 0,5m là A Thuyết, người Ba Na ở làng Kon Tu, khoảng 25-26 tuổi, da đen giòn, chân tay chắc nịch và rất dễ gần.

< Khách du lịch nước ngoài tham gia tour du lịch trên sông.

Mỗi lần đưa khách đi như vậy A Thuyết được Công ty Du lịch Kon Tum trả 40.000 đồng. Thuyết cho biết ngày xưa người làng anh có nhiều thuyền độc mộc lắm nhưng bây giờ đã bán đi nhiều rồi.

Thuyền độc mộc gắn bó với người Ba Na ở dòng sông này như bạn tri âm. Thuyền giúp người Ba Na vận chuyển lúa, ngô trên nương rẫy, măng, củi, gỗ... trong rừng ngược xuôi về làng. Ngày nhàn, thong dong thuyên quăng vài mẻ lưới thế nào cũng kiếm được vài ký cá tôm đem về cho vợ con và lai rai rượu cần với bạn bè. Hoặc lên đầu nguồn vào rừng bẫy con chim, con thú ra sông uống nước. Ngày nhàn, thong dong thuyền trên dòng sông, chàng trai chưa vợ trổ tài tiếng hú và điệu hò thế nào cũng được cô gái đến bắt làm chồng.

< Các thiếu nữ bên sông.

Thuyền càng tiến về thượng nguồn, hai bên dòng sông thường là những vách núi dựng đứng. Có đoạn, giữa dòng sông lại gặp một cồn cát nhô lên chia đôi dòng nước, thỉnh thoảng lại gặp một bẫy bằng tre nứa, chung quanh cắm lá và cỏ, trong bẫy là bã rượu cần. Mùi thơm của rượu sẽ lôi cuốn cá vào ăn. Có hôm Thuyết tóm được những con cá chép to đến 5-6kg.

Nằm trong khoang thuyền, tắm mình cùng non xanh nước biếc, chẳng mấy chốc thuyền đã đến ngã ba nơi hợp lưu với con sông Đục hướng từ xã Đăk Pne (Kon Rẫy) và Hà Tây (Chư Pả, Gia Lai) đổ về. Tiếp tục ngược sông Đăk Bla một đoạn nữa, thuyền đến bến Kon Bã.

Chúng tôi cùng nghỉ trưa dưới bóng mát những cây sung trên bờ. Đôi vợ chồng mới cưới Laurent (37 tuổi) và Anita (29 tuổi) đi hưởng tuần trăng mật, từ Paris đến Hà Nội và đã đi nhiều nơi ở Việt Nam trước khi đến đây. Laurent nói anh rất thích cảnh đẹp hoang sơ của sông nước núi rừng Đăk Bla. Laurent – Anita sau đó đã sung sướng ngụp lặn trong dòng nước mát.

< Hoàng hôn trên sông Đắk Bla.

Sau khi tắm mát, nghỉ ngơi và dùng bữa trưa bên bờ sông, chúng tôi cứ hai người một thuyền cùng với lái đò xuôi Đăk Bla. Chiều về dòng sông Đăk Bla trở nên nhộn nhịp hơn. Trên sông, những thanh niên người dân tộc Ba Na dùng ruột xe ôtô đưa những cây gỗ từ thượng nguồn xuôi về làm nhà.

Những vị khách Tây mặt mày rạng rỡ, thích thú nằm dài trong khoang thuyền ngắm nhìn nắng vàng trải thảm sườn núi, trên bầu trời xanh có con diều hâu dang cánh chao lượn tìm mồi. Và ấn tượng mạnh nhất trong chuyến đi xuôi dòng là khi thuyền chúi mũi xuống dòng nước cuồn cuộn chảy lúc qua những ghềnh đá, nhưng những tay lái cự phách người Ba Na luôn bảo đảm an toàn cho khách và chưa hề có trường hợp đáng tiếc nào xảy ra.

Hiện nay, du lịch khám phá dòng Đắk Bla đang được các công ty du lịch lữ hành trên địa bàn tỉnh khai thác, thu hút được số lượng lớn du khách, nhất là du khách quốc tế. Trong thời gian tới, du lịch trên sông Đắk Bla sẽ là một trong những hành trình quan trọng trong phát triển du lịch cộng đồng trên địa bàn thành phố Kon Tum.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ Infonet, TTXVN
(Tiếp theo)
Tôi nhìn vào đảo, bức tường khắc bài thơ “Nam quốc sơn hà” ở trên cao. Tôi hình dung như thấy vị Thái úy Lý Thường Kiệt đang đứng sừng sững, nhìn bao quát cả khu Đá Tây.

Cả vùng biển lớn. Ngài như đang cùng con cháu quyết bảo vệ bằng được vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

< Vững vàng trên biển rộng.

"Một người chúng tôi còn thì nhà giàn vẫn còn. Chúng tôi xác định mỗi một nhà giàn là một cột mốc nổi thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam trên Biển Đông..."

Đảo nổi An Bang

Không rõ ai đặt tên đảo là An Bang, có lẽ cầu mong giữ yên một vùng biển đảo của Tổ quốc. Đảo thì nhỏ mà sóng lớn gần như quanh năm. Sau mấy ngày đàn cá heo có lẽ rất quen với con tàu HQ 996 trong chuyến đi các đảo, nên chúng liên tục bám theo tàu. Lúc thì chúng vờn sát hai bên mạn, lúc thì vọt lên phía trước. Ngồi trong buồng lái tàu gần người lái chính, Hiền nói nhỏ: Biển sắp động. Cá heo báo mấy lần rồi. Anh về buồng nghỉ, dưới hầm tàu đỡ lắc.

Sáng sớm con tàu HQ 996 thả neo đỗ ở ngoài xa đảo An Bang, biển nổi sóng. Chiếc xuồng có ca nô dắt chở lãnh đạo đoàn và số đông phóng viên, chạy chậm cắt sóng chờ ca nô tự hành XQ được các chiến sĩ hải quân gọi là MẸC (mecxedec) của Trường Sa ra dắt vào đảo. Sóng to dội hắt nước lên mấy hàng ghế đầu. Ca nô của “thổ công” thuộc lòng đường xé nước mặc những ụ đá san hô mồ côi lờ mờ đáy nước.

Chiếc xuồng chở nặng người, phương tiện tác nghiệp, bị dắt mũi lượn về bắc đảo vào phía bãi cát. Sóng vẫn chồm lên quanh chiếc xuồng kiểu cũ to kềnh càng. Anh em lính mặc sắc phục hải quân choàng áo phao màu cam đứng thành hàng trên bờ. Lệnh phát ra: “Toàn đội chú ý thi hành nhiêm vụ”, lính đảo ào xuống nước. Lệnh lại phát ra tiếp:

- Lính đảo An Bang mang giúp các phương tiện nghe nhìn. Các bạn phóng viên nam, nhà văn nam tự lên đảo. Lính đảo An Bang bồng các phóng viên nữ, cán bộ nữ lên bờ.

Tiếng lính reo, át tiếng sóng. Những bước chân chạy đạp lên những con sóng lớn đổ xoài lên bãi cát vẫn cố giở trò hung hãn té ướt mọi người. Tôi đã đọc nhiều bài báo viết về cảnh sóng to tàu không cập đảo, lính ta phải lội ra đưa nữ văn công vào đảo, hôm nay tận mắt chứng kiến rồi tham gia vào cuộc gặp gỡ kỳ lạ ở đảo An Bang chả thấy một lời phật ý nào chỉ thấy tiếng cười rờ rỡ, tiếng xuýt xoa tiếc rẻ, tiếng chị ơi!, em ơi!, anh ơi, cứ ập òa bên tai tôi, hòa vào tiếng sóng đổ.

Tôi quay lại bên cạnh thấy Lan Phương, cô phóng viên nhỏ nhắn, Đoàn trưởng Liên chi hội nhà báo Bộ Thông tin & Truyền thông dẫn hơn chục phóng viên ra Trường Sa vẫn chưa lên bờ, tôi thốt lên:

- Sao em chậm thế?
- Em không chậm đâu, em chụp ảnh và ghi chép chuyến đi.
- Em có tham gia cuộc vận động sáng tác của đoàn mình không?
- Có chứ anh, em gửi chỗ anh Khoa rồi.
- Thế thì chắc chắn em "ăn" giải lớn.

Cô cười hớn hở: Em thấy hạnh phúc quá anh ạ. Một chàng lính đảo sắc phục trắng không mang phao đã đến liền bên giơ hai tay đón. Trong chớp mắt, Lan Phương đã nằm gọn trong đôi tay dư sức mạnh của chàng lính biển đang băng sóng ào vào bờ cát.

Tôi theo bác sĩ Bùi Mạnh Hà ra sau hội trường trạm xá. Bác sĩ Hà quê ở huyện Nghĩa Đàn, Nghệ An. Tôi gặp y sĩ Lê Nguyên Tú, quê huyện Nghi Lộc, Nghệ An, Nguyễn Đoàn Mây, quê huyện Anh Sơn, Nghệ An. Vũ Văn Minh, quê Hưng Lĩnh, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An. Họ vừa hoàn thành ca mổ u mỡ cho bệnh nhân - Trung úy Trần Hữu Hào.

Nói chuyện với Bác sĩ Nguyễn Mạnh Hà, tôi chợt nghĩ đến hậu phương trực tiếp của các đảo trong quần đảo Trường Sa. Như Khu 4, như Nghệ An với đảo An Bang sóng dữ.

Cột mốc nổi thiêng liêng

Trên đường từ Trường Sa trở về đất liền đoàn công tác trong đó có bảy nhà văn dừng lại thăm nhà giàn DK1/14, thả hoa viếng các liệt sĩ đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ tại khu nhà giàn DK1. Khu vực này có nhiều mỏ dầu của Việt Nam đã và đang khai thác. Trưa ngày 26/4/2012, rời đảo An Bang tàu chạy hướng Tây - Tây Bắc đi liên tục, suốt đêm. Sáu giờ sáng cập bãi ngầm Tư Chính.

Tôi lần giở từng trang trong sổ tay ghi chép trên đường từ đảo cuối An Bang trong quần đảo Trường Sa về khu các lô nhà giàn DK1.

Từ lúc vào đảo rồi rời An Bang tàu đã gặp sóng to, trên đường về bãi ngầm Tư Chính trong khu vực DK1 tàu cắt theo hướng Tây - Tây Bắc. Sóng đập vào mạn tàu kéo về phía sau trắng xóa, có những con sóng ngang đổ ụp vào mạn trước, nước bắn tóa lên boong phía đầu tàu trước mặt, lên kính buồng lái. Vào buồng lái tổ II đang tác nghiệp, lái chính Duyên ngồi thẳng, tay phải đặt trên vòng lái nhỏ, bàn tay trái thao tác các nút điện, hai mắt sáng nhìn dõi về phía trước, không hề lộ sự mệt mỏi vì thức đêm. Chính trị viên Đào Trọng Vĩnh đứng cạnh bàn hải đồ nói vui:
- Ngày cuối cùng chuyến đi, biển cũng phải nổi sóng để các anh các chị biết mùi sóng phải không anh?

Tôi cười:
- Đó là thử thách trước khi về đất liền

Tôi hỏi Vĩnh:
- Sóng này đến cấp năm chưa em?
- Chưa anh ạ, gió tới cấp năm có thể tới cấp sáu nhưng sóng thì chưa tới. Sóng lùi lại một cấp, gió cấp sáu thì sóng cấp năm.

Đúng 6 giờ, theo chỉ lệnh tàu tiến vào bãi Tư Chính. Sóng vẫn rất lớn, loa phát thanh trên tàu thông báo: “Theo lệnh của thủ trưởng đoàn vì sóng to gió lớn ca nô cặp chân giàn, rồi lên thang rất nguy hiểm. Chị em phụ nữ kể cả phóng viên ở lại tàu HQ 996”. Đài vừa ngừng, nữ sĩ Thúy Quỳnh khóc. Những chị em đứng ở thành tàu nhìn sang nhà giàn DK1/14 cũng khóc, chỉ có Diệp Anh, trưởng nhóm làm chương trình VTV1 được lên nhà giàn. Bùi Tuyết Mai đứng bên thành tàu, đọc tên những người xin dấu cộp vào giấy đi đường làm kỷ niệm rồi gửi cặp tập giấy gói trong bao ni-lông gập sang nhờ đóng dấu thật nhiều trang mang về Hà Nội.

Tôi một mình lặng bước theo khung cầu sắt dài đến hơn trăm mét sang ngôi nhà giàn DK1/14 bị sóng cơn bão năm 2003 xô nghiêng. Anh em nhà giàn kể lại ngọn sóng cao tới mười lăm mét, cao như sóng thần, xô lần đầu tung dàn tầng dưới. Đợt hai con sóng từ xa như trái núi lừ lừ ập đến như nó không di chuyển, chỉ đến lúc nó vặn nghéo cột, hất nghiêng khối nhà mới thấy sức mạnh khủng khiếp của nó.

Tôi mở cửa các căn phòng không người, mở cửa ra vườn rau nhìn thấy một con chim cánh màu xanh, đơn lẻ. Nó dạn người lượn ra lượn vào như có một sợi dây tình cảm nào đó giữ nó lại, chưa muốn bay đi. Chợt nó kêu lên một tiếng thảng thốt. Tôi gai người sững sờ nhìn những con sóng lớn màu xám lừ lừ tiến về nhà giàn cũ. Anh em nhóm lái tàu HQ 996 nói vui, sóng kiểu này đối với cánh nhà giàn mới chỉ “gãi ngứa” thôi, ăn thua gì.

Tôi nghĩ tới lúc các anh Nguyễn Hữu Quảng, người con của Hà Nội, Trung úy, Trạm phó chính trị nhà giàn DK1/3 cùng với Trạm trưởng Bùi Xuân Hồng chỉ huy anh em chống lại những đợt sóng cao 14, 15m của cơn bão số 10 năm 1990. Đợt đầu sóng đánh nhà giàn nghiêng 17 độ. Đến 2 giờ ngày 5/12/1990 toàn bộ khối nhà bị nuốt vào lòng biển. Dù ai cũng có phao cứu sinh và các tàu trực được lệnh trên đến cấp cứu, cuối cùng thì tìm thấy 5 người. Trung úy Nguyễn Hữu Quảng và Trung úy QNCN Trần Văn Là, quân y sĩ, hạ sĩ Hồ Văn Hiền, cơ điện đã hy sinh vì Tổ quốc, mãi mãi nằm lại với biển cả.

Một đợt sóng thúc vào chân cột nhà giàn bị nghiêng, tôi ôm cột nghĩ tới Đại úy Vũ Quang Trương, Trạm trưởng cùng với 8 cán bộ và QNCN nhà giàn DK1/6 với tinh thần còn người còn nhà giàn, đã kiên cường bám trụ, dự kiến những tình huống xấu nhất xảy ra, liên tục báo cáo với cấp trên. Sóng lớn phủ lên tràn kín cả sân công tác nhà giàn. Cùng với sức gió cấp 12 quật mạnh làm khối nhà rung chuyển dữ dội. Cả tập thể vẫn không hề run sợ, sát vào nhau chống lại sức tàn phá ghê gớm của bão và sóng. Đến 3 giờ ngày 14/12/1998, nhà giàn DK1/6 Phúc Nguyên đổ ụp xuống mặt biển đen ngòm. Cả 9 con người dũng cảm đã đi vào lòng biển...

Con chim xanh ở đâu lại bay đến lướt qua cây cột chống sóng, tôi như tỉnh lại, vùng ra, đi như chạy về phòng giữa tầng trên dùng làm hội trường. Sau mấy lần nhà giàn bị xô nghiêng, giằng đổ, bị cuốn trôi, Thủ tướng Chính phủ trực tiếp giao cho Bộ Giao thông vận tải, Công binh Hải quân và Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam phối hợp xây dựng nhà giàn kiên cố, bảo đảm an toàn tới trên cấp sóng 12. Bố trí trong nhà giàn khoa học, khá đầy đủ tiện nghi phục vụ sinh hoạt của bộ đội.

Bản báo cáo của chỉ huy nhà giàn ngắn gọn, thẳng thắn, đầy trách nhiệm nhưng khiến tất cả những người có mặt phải lưu tâm, giọng chính trị viên căng ra:

- Bản thân tôi ở nhà giàn đã 18 năm, đã đổi đi năm nhà giàn… Các đồng chí khác trong ban chỉ huy nhà giàn DK1/14 cũng đã ở nhà giàn hơn 10 năm nhưng tất cả chúng tôi đều chung một ý nghĩ: Một người chúng tôi còn thì nhà giàn vẫn còn. Chúng tôi xác định mỗi một nhà giàn là một cột mốc nổi thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam trên Biển Đông...

Hết
Hải trình thương nhớ (Kỳ 1)
Hải trình thương nhớ (Kỳ 2)
Hải trình thương nhớ (Kỳ cuối))

Du lịch, GO! - Theo Đào Danh Thắng (QĐND), internet
Tôi nhìn vào đảo, bức tường khắc bài thơ “Nam quốc sơn hà” ở trên cao. Tôi hình dung như thấy vị Thái úy Lý Thường Kiệt đang đứng sừng sững, nhìn bao quát cả khu Đá Tây. Cả vùng biển lớn. Ngài như đang cùng con cháu quyết bảo vệ bằng được vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Sức sống mãnh liệt nơi đảo chìm

Hai mươi hai giờ đêm, đến giờ đi đảo Đá Tây, cuộc giao lưu, tiễn đưa tại hội trường đảo Trường Sa Lớn vẫn chưa kết thúc được. Đoàn Hội Nhà văn Việt Nam vẫn thiếu một người, đó là nhà thơ nữ Nguyễn Thúy Quỳnh. Là một nhà thơ nữ nên chị rất nhạy cảm, chị khóc khi gặp và khi chia tay cán bộ, chiến sĩ canh giữ đảo.

Khi đã có mệnh lệnh về tàu mà nữ thi sĩ Bùi Tuyết Mai vẫn cứ nán lại với các chiến sĩ như chẳng muốn rời. Tiếng còi tàu HQ 996 cất lên trầm vang như thúc giục, bấy giờ Tuyết Mai mới cuống cuồng chạy ra cầu cảng. Đứng trên thành tàu, đặt tay phải lên thái dương theo điều lệnh, chúng tôi tạm biệt cán bộ, chiến sĩ đảo Trường Sa Lớn...

Tàu đi xuyên trong đêm. Không ngủ được. Cảm xúc trong chúng tôi dâng tràn như đang say. Con tàu đi mải miết, lũ cá chuồn bay lách chách hai bên mạn tàu. Tới gần đảo Đá Tây, con tàu HQ 996 thả neo chờ sáng.

Mới tinh mơ, anh nuôi trên tàu đã lịch kịch kê bàn, đặt mâm cho bữa ăn sáng. Riêng Bùi Tuyết Mai đã thức gần hết đêm với bộ phận anh nuôi trên tàu. Chị nói nhỏ: “Các anh mới tuyển từ đơn vị lên, hơn chục người phục vụ đoàn ta gần hai trăm. Khu nhà bếp nóng đến 43 đến 45 độ. Các anh chỉ ngả lưng vài tiếng đồng hồ. Từ tối qua em tự nhận là nhân viên của bếp: Nhặt rau, rửa xoong nồi, đứng bếp, tàu gặp sóng, giữ nồi cho cơm chín”. Mồ hôi ướt đẫm áo. Đoàn trưởng Hải Đường khen: "Nữ nhà văn ngoan quá, chịu khó quá!". Rồi Thúy Quỳnh cũng xuống bếp. Chị em phóng viên nữ cũng kéo nhau cả vào bếp để đỡ việc anh nuôi...

Tôi ăn vội bát cơm sáng, khoác áo phao, vớ sổ, sách cẩm nang về Trường Sa, chiếc máy ảnh cũ Hữu Nhân cho mượn, nhảy tót xuống ca-nô. Vừa cập bờ đảo Đá Tây, Nguyễn Đắc Nhu giữ tôi lại để chụp ảnh bên cạnh bia chủ quyền. Mũ cứng, dép rọ quốc phòng, bộ quân phục màu xanh mượn của nhà thơ Nguyễn Anh Nông, Điện ảnh Quân đội. Đắc Như cầm máy ảnh trông oách quá. Vẫn còn đọng lại cái dáng của lính trận. Tôi theo cầu thang lên tầng hai thấy một nhóm phóng viên đang chĩa máy ảnh chuyên dụng và camera vào cây phong ba, cây bàng quả vuông trồng trong một cái chậu đầy đất phù sa. Anh Hải Đường nói với giọng xúc động: “Đây thực sự là những hình ảnh đáng quý. Sức sống mãnh liệt của cây lá Trường Sa, và của người Trường Sa. Người và cây biểu đạt sự trường tồn của Tổ quốc chúng ta”.

Tôi đang mải mê với ý nghĩ về Trường Sa và Tổ quốc thì có người gọi xuống xuồng sang điểm C. Điểm C có thể coi như đảo nổi nhỏ. Qua vườn rau muống, mùng tơi trồng trong nhiều chậu gỗ nhỏ, lên cầu thang, ra sân thượng rất đông phóng viên, cán bộ trong đoàn đang thắp hương. Trên bức tường lớn hiện ra bài “Thơ thần” của Thái úy Lý Thường Kiệt, bằng chữ Hán và chữ Việt quốc ngữ. Bài “Thơ thần” hướng ra phía hồ vành khăn san hô dài hơn mười lăm cây số, dòng thơ đọc lên lúc này thật linh thiêng:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Chúng tôi xuống ca-nô đi dọc cả chục cây số trong hồ vành khăn. Anh Trần Diễn, công nhân khu dịch vụ nghề cá đảo Đá Tây chỉ cho chúng tôi biết: "Khi bà con vào làm dịch vụ, trung tâm cấp nước ngọt miễn phí. Nước đá thì phải mua với giá được trên quy định. Xăng, dầu bán cho bà con với giá như trong đất liền". Anh Diễn có một con trai sinh năm 2010 tên là Trần Lê Đức Cường, vợ anh làm việc trong một trường tiểu học tận Nha Trang...

Ca-nô lượn quanh khu nuôi cá lồng. Lồng là một khung lưới rất lớn do Na Uy sản xuất. Theo ngôn ngữ dân chài quê tôi thì đấy là những lưới chài lớn có thể di chuyển, mở to ra hoặc thu nhỏ lại để bắt cá. Cả khu vực này nuôi cá Chẽm (cá Vược), một giống cá ngon. Anh em biết tin đã bắt sẵn tặng đoàn một bao tải cá, loại cá đã đến kỳ thu hoạch, một con nặng hơn 1kg. Tôi nhìn vào đảo, bức tường khắc bài thơ “Nam quốc sơn hà” ở trên cao. Tôi hình dung như thấy vị Thái úy Lý Thường Kiệt đang đứng sừng sững, nhìn bao quát cả khu Đá Tây. Cả vùng biển lớn. Ngài như đang cùng con cháu quyết bảo vệ bằng được vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Bảy giờ mười lăm phút, tàu của chúng tôi cập bờ đảo Tốc Tan C. Theo hải trình, thời gian tàu lưu lại đảo không dài, nên công việc các bộ phận triển khai nhanh. Đội văn công xung kích giao lưu, biểu diễn trên tầng hai. Tiếng đàn ghi-ta Đinh Thậm phập phùng. Vị Giám đốc Nhà hát Trưng Vương Đà Nẵng Đinh Thậm rất gần với lính, sẵn sàng phục vụ sẵn sàng ngay tại chỗ. Anh đệm ghi-ta cho cả nhóm hát bài Hành khúc ngày và đêm và Hát mãi khúc quân hành...

Tôi vòng ra phía sau ngôi nhà thì gặp anh Hải Đường đang nói chuyện với anh em cán bộ, chiến sĩ trên đảo. Hai mắt anh Hải Đường rớm lệ:

- Chúng tôi vừa được biết cháu trai duy nhất của anh Phương, đảo trưởng mất vì bệnh máu trắng mới được bảy ngày. Đây là mất mát lớn lao không biết lấy gì bù đắp được. Cả đoàn công tác xin được gửi chút quà nhỏ, nhờ anh Phương chuyển tới chị và gia đình tấm lòng của chúng tôi.

Đảo trưởng Phương ngồi thẳng người không động tay, không nói. Có lẽ anh sợ cất tiếng nói giọng sẽ nghẹn ngào và bật ra tiếng khóc.

Tôi gọi điện thoại cho Bùi Tuyết Mai, nói chị kiểm tra lại số tiền các đảng viên cơ quan theo chỉ đạo của Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương, trích ra một ngày lương ủng hộ cán bộ, chiến sĩ Trường Sa. Đảng ủy khối cho phép đoàn giữ lại làm quà tặng khi đến các đảo. Mai nói nhỏ trong máy, quỹ đoàn mình cạn rồi anh ạ. Mình tặng Trường Sa Lớn, tặng Đá Tây, Trường Sa Đông, Phan Vinh. Nhưng em còn tiền mẹ gửi tặng các chiến sĩ. Em tính tặng gia đình anh Phương. Tuyết Mai cầm chiếc phong bì to có dòng chữ Hội Nhà văn Việt Nam đặt lên bàn. Rồi nhà thơ xứ Mường khéo léo gom tất cả các phần quà lại, đến bên cạnh đặt khẽ lên tay anh Phương.

Phương vẫn nhìn thẳng, vai hơi động đậy một chút, một chị phụ nữ lớn tuổi trong đoàn đi đến phía sau. Nét mặt chị lộ vẻ xúc động, cặp môi run run, hai bàn tay run run đặt nhẹ lên bờ vai anh, chị khóc.

Ba ngôi mộ ở Trường Sa Đông

Trường Sa Đông là hòn đảo nổi nằm ở phía Đông Bắc Trường Sa Lớn ở trong vòng cung phía ngoài. Trên đảo Trường Sa Đông có ba ngôi mộ liệt sĩ. Nằm phía trước, ngay đầu bến lên đảo. Ba ngôi mộ quét vôi trắng nằm cách đều trên cát. Các anh chị em đến trước đã đặt lên mộ vàng, hương, mấy quả táo, bưởi da xanh, xoài, bưởi Biên Hòa mang theo từ đất liền. Người lính hải quân trẻ măng đứng trong ụ súng phòng không đặt gần ba ngôi mộ giới thiệu: “Trong ba ngôi mộ có một liệt sĩ hy sinh ở đảo khác mới đưa về, còn hai liệt sĩ hy sinh tại đảo Trường Sa Đông”. Tôi quỳ xuống bên mộ nhìn cho rõ để ghi đầy đủ tên, tuổi, ngày tháng các anh hy sinh vào quyển sổ tay.

Tôi đứng lặng một mình bên cạnh ba ngôi mộ liệt sĩ. Liệt sĩ Nguyễn Văn Thi sinh năm 1979. Nghĩa là anh hy sinh khi đang ở độ tuổi sung mãn nhất của đời người. Ý nghĩ ấy khiến lòng tôi rưng rưng. Tôi cúi xuống sờ tay lên vụn đá san hô đã xây đắp thành mộ chí các anh. Bỗng có ai gọi tên, tôi giật mình quay lại thì thấy nhà thơ Tuyết Mai đã đến bên. Chúng tôi cùng lưu lại tấm hình bên mộ chí các anh như một sự ghi nhớ công ơn của những người đã không tiếc thân mình giữ biển...

Còn tiếp
Hải trình thương nhớ (Kỳ 1)
Hải trình thương nhớ (Kỳ 2)
Hải trình thương nhớ (Kỳ cuối)

Du lịch, GO! - Theo Đào Danh Thắng (QĐND), internet
Đây là lần đầu tiên tôi đến với Trường Sa. Trong tôi đầy tràn cảm xúc và nóng bỏng ý định phải viết một cái gì đó về biển đảo, phần máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc...

Hành trình đêm

Nhớ lúc trên hội trường tầng bốn nhà khách phía Nam của Quân chủng Hải quân, nghe phổ biến nhiệm vụ của chuyến đi, tình cờ tôi ngồi cạnh một cán bộ Cục Tác chiến đang giở tấm bản đồ địa hình 1/500.000. Bản đồ can nhiều mảnh vùng biển đảo Trường Sa được gói cẩn thận trong túi ni-lông trong suốt.

Tôi xin lỗi, đặt tay lên bản đồ rồi kéo dần về phía mình. Hải trình vẽ sẵn, nét chì đậm mà gọn. Tưởng tượng ra con tàu mải miết lượn lách tiến theo sông Sài Gòn ra Vũng Tàu, rồi từ đấy kẻ một đường thẳng vút tới đảo Trường Sa Lớn.

Biển lặng. Sóng vỗ nhẹ, con tàu rẽ nước theo đúng hải trình hướng Đông Nam 110 độ. Tôi rời giường nằm ở khoang dưới mặt boong, lên tầng trên để xin vào buồng lái. Kíp trực ghi tên từng người trên bảng phía trái con tàu. Lái chính ngồi giữa, tay đặt chắc vào vô lăng nhỏ xoay nhẹ. Phía bên phải, trên chiếc bàn lớn đặt máy thu tín hiệu định vị từ vệ tinh GPS. Chính trị viên Đào Trọng Vĩnh đứng cạnh người sĩ quan ngồi canh tín hiệu máy định vị. Tôi hỏi Vĩnh:

- Đi đêm thế này có lo ngại vấn đề an toàn không đồng chí?

Vĩnh cười:
- Tàu có ra-đa, có sự hỗ trợ đắc lực của hệ thống định vị toàn cầu GPS. Hơn nữa chúng em đi nhiều, quen rồi anh ạ!

Con tàu HQ 996 có dáng hình rất đẹp. Đào Trọng Vĩnh, cười khoe: “Con tàu có kiểu dáng công nghiệp theo mẫu của Ba Lan”, được hình thành và hạ thủy tại Nhà máy đóng tàu Bạch Đằng. Tôi nhớ khi còn làm việc tại Điện ảnh Quân đội, được nghe đạo diễn Nguyễn Chí Phúc (đã qua đời) ngợi ca các kỹ sư và công nhân Nhà máy đóng tàu Bạch Đằng. Dạo ấy nhà máy chưa thành tổng công ty. Đội ngũ trí thức và công nhân lành nghề, những bàn tay vàng của ngành đóng tàu cả nước làm việc quên mình với trách nhiệm rất cao nên mới có được con tàu HQ 996 chắc khỏe và bền vững đến thế. Tàu HQ 996 từng có được vinh dự chở nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các cán bộ quân đội cao cấp ra thăm quân dân huyện đảo Trường Sa.

Con tàu HQ 996 đã được đại tu cùng với những con tàu thế hệ mới và một đội ngũ cán bộ, thủy thủ trẻ được đào tạo bài bản, lành nghề, trong những ngày căng thẳng, nắng lửa và cả những đêm dài thức trắng đưa đoàn ra tới phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.

“Thủ đô” của quần đảo Trường Sa

Tám giờ sáng. Biển rực nắng. Con tàu HQ 996 cập cầu cảng. Ngay sát bờ cán bộ, chiến sĩ được phân công đón đoàn công tác dàn hàng ngang thẳng thớm trên cầu cảng. Ai nấy đều quân phục tề chỉnh, đúng điều lệnh. Đảo đẹp quá, bãi cọc mang khí phách Bạch Đằng chĩa nghiêng ra phía biển...

Tôi theo vội anh chị em phóng viên. Họ nhanh thoăn thoắt, loáng cái đã tới bờ cây. Những cây bàng quả vuông đã thành cổ thụ. Chúng tôi vào thẳng bia chủ quyền, rồi vào nhà tưởng niệm Bác Hồ dâng hương, sau đó ra đài liệt sĩ thắp hương tưởng niệm các liệt sĩ đã hy sinh ở quần đảo Trường Sa. Đoàn công tác do đồng chí Hải Đường, Phó bí thư thường trực Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương dẫn đầu vào thắp hương chùa Trường Sa Lớn.

Nhìn mái chùa cong cong, mái ngói đỏ sậm tôi thấy hiện rõ dáng dấp của nền văn minh sông Hồng. Bộ ba chứng chỉ văn hóa làng: Đình, đền, chùa hòa vào sóng, gió, cây xanh đảo Trường Sa Lớn. Gần ngôi chùa là một ngôi đền linh thiêng thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhà khách Thủ đô Hà Nội, mang hình bóng ngôi đình làng, và chùa Trường Sa Lớn. Tôi sà vào đơn vị đang xây dựng các công trình dân sinh trên đảo. Trưa nắng khát, anh em công nhân mời một chén trà Bắc, đúng chè Thái Nguyên ngon tuyệt. Ở nơi trung tâm quần đảo, “thủ đô” của quần đảo Trường Sa uống chè Thái Nguyên của “thủ đô” gió ngàn, ý vị sâu sắc quá...

Trên đảo Trường Sa Lớn có một khu vực riêng xây những căn nhà dạng liền kề. Đó là nơi ở của các hộ dân cư. Các trạm xá trên đảo đều do các bác sĩ quân y từ các bệnh viện tuyến một của quân đội cử luân phiên ra đảo. Hòn đảo lớn tươi đẹp được coi là thủ đô của quần đảo Trường Sa.

Lúc đoàn đến, Trường Sa bắt đầu mùa mưa. Mưa lác đác, hạt to, ném xuống từ bầu trời. Những cái lá cây tra to tròn như các tai quạt đan khéo rung lên ngoài cửa hội trường. Quân, dân trên đảo đến hội trường rất đông. Đoàn công tác được “chủ nhà” ưu tiên ngồi tại các hàng ghế phía trên. Đã xong phần văn nghệ tưng bừng do các diễn viên Đoàn Nghệ thuật TP Đà Nẵng biểu diễn, giờ đến phần giao lưu. Khách mời lên sân khấu có anh Hải Đường, Trưởng đoàn công tác; nhà thơ Trần Đăng Khoa, Phó bí thư thường trực Đài Tiếng nói Việt Nam, một số vị nữa tôi chưa kịp nhớ hết tên.

Một bất ngờ làm hội trường xôn xao, đó là MC (người dẫn chương trình) lại chính là Chuẩn đô đốc Đinh Gia Thật (hiện là Chính ủy Quân chủng Hải quân). Anh Thật dáng người to cao quê gốc Kinh Bắc, đầu đã thưa tóc, giọng trầm, âm âm như tiếng còi tàu biển. Dưới sự dẫn dắt chương trình của anh Thật, chốc chốc hội trường lại rộ lên tiếng cười giòn tan…

Còn tiếp
Hải trình thương nhớ (Kỳ 1)
Hải trình thương nhớ (Kỳ 2)
Hải trình thương nhớ (Kỳ cuối)

Du lịch, GO! - Theo Đào Danh Thắng (QĐND), internet
“Cái mỏm này gọi là Mã Pí Lèng nhưng dân Mông chúng tôi từ xưa tới nay vẫn gọi là Máo Pì Lèng”, cụ Vương lý giải tên gọi một địa danh nổi tiếng ở đất Hà Giang.

Xong việc ở Trạm Biên phòng, chúng tôi về nghỉ ở dinh thự của vua Mèo xã Sà Phìn (huyện Đồng Văn, Hà Giang) và ăn Tết với con cháu cụ Vương. Sớm 27 tháng Chạp thiếu, tôi lên đường về Hà Nội. Trời ướt sũng sương. Con đường đá không tên gồ gề toàn ổ trâu, ổ voi chen đá hộc trơn nhẫy từ Sà Phìn đi Đồng Văn. Già nửa buổi sáng chúng tôi mới tới Mã Pí Lèng trên đất Mèo Vạc. Bất chợt trời hứng chí hửng lên le lói nắng. Đây là một cơ hội hiếm có vào mùa này.

Cụ Vương bảo tài Dự dừng xe ''cho tụi nó xem sông Nho Quế''. Tôi và Lê Vui - chuyên viên Vụ Tuyên truyền Ủy ban Dân tộc nhảy khỏi xe, lom khom ra mép vực nhòm xuống sông. Một vệt ngoằn nghèo phản chiếu từ mặt nước hơi ánh lên như dải lụa xanh lơ ai đó vô tình đánh rơi giữa hai vách núi thăm thẳm vẫn còn đang mờ sương.

Khi đã yên vị trên xe, cụ Vương bảo: ''Cái mỏm này gọi là Mã Pí Lèng nhưng dân Mông chúng tôi từ xưa tới nay vẫn gọi là Máo Pì Lèng''. Tôi và Lê Vui lại ngớ ra. Vậy ra hàng trăm bài báo, bài viết về địa danh nổi tiếng này lẽ nào sai? Tôi rón rén hỏi cụ: ''Vậy Mã Pí Lèng có nghĩa gì thưa cụ?''. Cụ thủng thẳng mà rằng: Theo tiếng Mông nó là sống mũi con ngựa. Nhưng không phải Pí mà là Pì. Song như vậy vẫn sai. Tên của nó chính xác là Máo Pì Lèng-tức sống mũi con mèo.

Máo Pì Lèng nằm ở gần trung độ của con đường có tên là Hạnh Phúc từ Đồng Văn đi Mèo Vạc dài 26 km. Từ đây xuống Mèo Vạc còn hơn 12km một chút. Con đường khởi công vào ngày 10/9/1959, mất gần 6 năm mới hoàn thành (15/6/1965). Gần 2 triệu lượt thanh niên trai tráng của 16 dân tộc anh em từ Cao Bắc Lạng, Hà Tuyên Thái, Hải Hưng, Nam Định... với gần 3 triệu ngày công đục khoét, phá gần 3 triệu mét khối đá hoàn toàn bằng sức người và đôi tay rớm máu.

Điểm Máo Pì Lèng cao như ngửi thấy trời dựng đứng, thòi ra một dọc đá như sống mũi con mèo đang nhòm xuống sông Nho Quế ngửi rình cá. Để chinh phục đỉnh cao này, những người dũng cảm nhất đã được lựa chọn vào đội dũng cơ. Dây buộc ngang lưng treo mình trên vách đá dựng đứng trong cái nóng như đổ lửa từ hẻm núi phun ra. Cả một khối núi sừng sững, đặc cứng mất bao công sức mới khoét được một lỗ mìn. Vậy mà cho mìn nổ cũng chỉ văng ra được một mảnh đá chưa bằng chiếc chảo gang của người Mông. Riêng điểm đột phá khẩu Máo Pì Lèng đã mất 11 tháng và hàng chục người đã thiệt mạng. Để rồi có một ngày hai cánh quân ở hai đầu con đường ôm nhau trong nước mắt...

Đợt đi chơi chợ tình Khau Vai (27/3/2012), mấy anh chị em dừng chân nghỉ ở quán nước đỉnh Máo Pì Lèng. Tôi tranh thủ chuyện với già Mông gần 70 tuổi ra chơi với con là chủ quán nước này. Tôi rụt rè hỏi: ''Cháu có nghe người thì gọi nơi này là Mã Pí Lèng, người thì bảo là Máo Pì Lèng. Ai là người gọi đúng thưa cụ?''.

''Tao chẳng biết ai đúng, ai sai. Chỉ biết từ thời các cụ của họ tao đến nay dân ở đây vẫn gọi là Máo Pì Lèng'', cụ đáp. Vậy là có thêm một nhân chứng cho tôi thêm sự tin cậy vào câu chuyện của cụ Vương.

Tôi có 15 năm công tác, làm việc với cụ Vương, học được nhiều ở cụ nhiều điều, mở rộng được nhiều kiến thức hiểu biết ngoài sách, vở.
Có lần cụ bảo: ''Ở cái cơ quan này nói chuyện với mày tao thấy được. Mày chịu nghe, chịu nhớ, chịu ghi chép. Tao gần hết vốn với mày rồi đấy. Đến mức mày biết cả mẹo vào nhà người Mông khi họ treo cành lá cấm trước cửa. Ai vào sẽ chém chết. Mày thành chuyên gia Mông rồi đấy!''

Thú thực, trong những năm công tác cùng cụ, tôi có viết kha khá các bài báo về người Mông, về văn hoá, phong tục tập quán, về thiết chế xã hội dòng họ (gọi là Xênh) khép kín, về đời sống, về xoá đói giảm nghèo, và tôi còn làm cả sách, làm phim về vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Mỗi lần có nhuận bút, tôi lại mua tút thuốc lá và hộp bánh ngon biếu cụ. Mới đấy mà cụ đã thành người thiên cổ được gần 4 năm. Viết loạt bài này thâm tâm tôi như một sự trả ơn cụ. Mong cụ thanh thản dưới suối vàng và yên tâm rằng những điều cụ ''lăn tăn'' sẽ có ngày được mọi người biết tới...

Du lịch, GO! - Theo Đinh Đức Cần (Dantri), internet
Mùa xuân là khới đầu một năm mới, mùa của vạn vật sinh sôi. Mùa xuân cũng được xem là mùa phù hợp với việc xây dựng hạnh phúc gia đình. Đối với bà con dân tộc Tày, chuyện trăm năm của đôi lứa thường được các gia đình tổ chức trong dịp đầu xuân.

Theo phong tục truyền thống, hôn nhân của người Tày thường do cha mẹ sắp đặt. Ngày nay nam nữ có thể tự do tìm hiểu trước khi đi đến hôn nhân. Gia đình người Tày theo chế độ gia đình hạt nhân, một vợ một chồng. Gia đình người Tày vợ chồng yêu thương nhau, ít ly hôn.

Đám cưới truyền thống của người Tày được tiến hành qua các nghi thức: Lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ sêu tết, lễ báo ngày cưới, lễ cưới, lễ đón dâu, đưa dâu. Người Tày gọi lễ cưới là Kin Lẩu và tổ chức trong hai ngày, nhà gái tổ chức hôm trước, nhà trai tổ chức hôm sau.

Theo phong tục, mọi chi phí tổ chức đám cưới của nhà gái đều do nhà trai lo liệu hết từ tiền mặt, lợn, gà, gạo, rượu... cho đến các sản vật dùng làm cỗ để mời họ hàng, làng xóm. Đó là cách để nhà trai tỏ lòng biết ơn, mong đền đáp phần nào công lao của bố mẹ cô gái. Cỗ cưới thường được tổ chức vào buổi chiều (tầm 4-5 giờ chiều).

Thông thường, buổi chiều cỗ cưới dành cho người lớn tuổi, bậc cha chú, anh em họ hàng. Buổi tối, bắt đầu vào khoảng 7- 8 giờ đêm gia đình sẽ tổ chức ăn uống dành cho nam nữ thanh niên, bạn bè gần xa của cô dâu chú rể. Cuộc vui kéo dài thâu đêm, mờ sáng mới tan.

Lễ vật nhà trai đem sang nhà gái để đón dâu gồm: 100 cái bánh chưng; 400 cái bánh dày nhỏ, 02 cái bánh dày to, một con lợn quay, một đôi gà, rượu, trầu cau, một đụi cỏ nhỏ, một ống tiết, một đoạn lũng lợn, một túi hạt giống (đỗ, vừng), muối ớt, đường phèn, một miếng vải đỏ gọi ''rằm khấu'' báo hiếu công nuôi dưỡng của cha, mẹ.

Khi nhà trai đến nhà gái là phút gặp gỡ, tiếp đón diễn ra tình cảm, ý nhị. Bố mẹ nhà gái cất lời chào đón đoàn nhà trai. Quan lang thay mặt nhà trai đáp lời. Để thử thách tài đối đáp của quan lang nhà trai, bố mẹ nhà gái có thể căng dây, đặt chổi, buộc con mèo trước cửa nhà... Quan lang nhà trai phải dùng những lời thơ đối đáp... đề nghị một cách tế nhị, có lý có tình để nhà gái mở cửa cho nhà trai vào đón dâu.

Đoàn nhà trai vào nhà. Nhà gái trân trọng đón lễ. Quan lang, bố mẹ hướng dẫn chú rể dâng lễ lên bàn thờ tổ tiên. Cô dâu chú rể cùng vái lạy tổ tiên. Sau phần nghi lễ chú rể dâng rượu mời ông ba,â cha mẹ, anh em họ hàng nhà gái. Mọi người nhận rượu đều có những lời chúc mừng tốt đẹp. Sau đó đoàn nhà trai dự bữa cơm thân mật với nhà gái.

Cỗ cưới người Tày có rất nhiều món đặc biệt như: canh củ đao, nộm hoa chuối rừng, canh hoa chuối, măng cuốn, măng nhồi, lợn quay,... đủ các món biểu trưng cho âm dương, ngũ hành.

Người con gái Tày đi lấy chồng mang theo nhiều của hồi môn đựng trong chiếc hòm có chân bằng gỗ (rương gỗ). Phần lớn của hồi môn là vải vóc, chăn màn do cô dâu tự dệt và tự may lấy, trang sức bằng bạc (vòng cổ, vòng tay, xà tích...). Ngoài ra cô dâu còn biếu bố mẹ chồng và anh em nhà chồng chăn, màn, khăn rửa mặt, giày... và một gánh lễ mang theo để dâng lên bàn thờ nhà chồng.

Sau khi hoàn tất các thủ tục báo cáo tổ tiên, mời rượu anh em họ hàng, quan lang nhà trai xin phép đón cô dâu về nhà chồng. Lúc này hai tấm vải một màu trắng, một nàu đen sẽ được rải xuống trước bàn thờ ra đến cửa, cô dâu sẽ bước trên hai tấm vải đó ra cửa, tuyệt đối không được ngoái đầu nhìn lại. Tới nhà trai, cô dâu, chú rể làm lễ báo cáo trước bàn thờ tổ tiên họ nội. Chú rể và cô dâu chắp tay vái tổ tiên, uống chén rượu thề chung thuỷ trăm năm.

Du lịch, GO! - Theo Việt Hoàn (Dantri), internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống