Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Wednesday, 27 February 2013

Huyện Nà Hang (Tuyên Quang) có 10 di tích lịch sử vừa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia.

Tại buổi lễ khai mạc Tuần Văn hóa - Du lịch với chủ đề “Hồ trên núi” của huyện Nà Hang nằm trong Tuần Văn hóa - Du lịch "Về với xứ Tuyên" năm 2009 của tỉnh diễn ra đêm 04/10/2009, Đảng bộ và nhân dân huyện Nà Hang đã tổ chức long trọng lễ đón nhận Bằng xếp hạng Di tích Quốc gia cho các di tích, gồm: Hang Phia Vài, động Song Long, thác Nặm Me (Khuôn Hà); hang Phia Muồn (Sơn Phú); đền Pác Tạ (thị trấn Nà Hang); chùa Phúc Lâm, Xưởng Quân khí H52, thắng cảnh Thượng Lâm (Thượng Lâm); Cơ quan Ấn loát đặc biệt Trung ương, Địa điểm sản xuất diêm tiêu (Năng Khả).

Động Song Long:

Thắng cảnh động Song Long (Khuôn Hà) là một hang động đẹp và và có quy mô khá lớn trong vùng, cách mặt nước hồ thủy điện trên 200m, lòng hang có chiều cao khoảng 40m, rộng khoảng 50m, sâu trên 200m, nhiều cột thạch nhũ với các hình thù kỳ thú, màu sắc lấp lánh như hoa cương, lòng hang được chia thành nhiều ngách ngăn nối tiếp nhau, hấp dẫn khách đến tham quan du lịch.

Hang Phia Vài:

Di tích hang Phia Vài (Khuôn Hà) là di chỉ khảo cổ điển hình, tìm thấy hàng nghìn công cụ lao động có niên đại cùng thời văn hóa Hòa Bình và bộ di cốt người nguyên thủy bán hóa thạch. Những di cốt động vật chủ yếu thuộc tập hợp bán hóa thạch của lớp địa tầng kết vón tầng văn hóa sớm, trong tập hợp di cốt bán hóa thạch có răng người khôn ngoan (Homo sapiens) và đại diện của quần động vật hậu kỳ Cánh tân như đười ươi (Pongo sp). Những di cốt này nằm trong lớp trầm tích có độ kết vón rắn chắc cùng với các di tích động thực vật khác như ốc núi, cua đá, hạt trám là những di vật đặc trưng cho giai đoạn văn hóa có niên đại từ 20.000 đến 11.000 năm cách ngày nay.

Những di cốt động vật bán hóa thạch tìm được ở Phia Vài bổ sung thêm những tư liệu quý để nghiên cứu về cổ môi trường và con người trong giai đoạn chuyển từ Cánh tân sang Toàn tân ở nước ta. Bếp lửa và mộ táng của di chỉ hang Phia Vài đã góp thêm tư liệu quý để tìm hiểu về táng tục, đời sống tinh thần cũng như cấu trúc xã hội của cư dân tiền sử. Bộ di cốt người nguyên thủy chôn nằm co, bó gối với cách khâm liệm độc đáo, táng thức bỏ ốc biển vào hốc mắt người quá cố đã cung cấp cho các nhà nghiên cứu cổ nhân học tìm được những chứng tích quan trọng về quá trình tiến hóa chủng tộc người, cũng là bộ di cốt điển hình, độc đáo ở Đông Nam Á. Di tích bếp lửa tìm được ở Phia Vài thuộc lớp văn hóa muộn có niên đại khoảng 8.000 năm cách ngày nay, diện tích bếp không lớn, có thể phục vụ việc sưởi ấm hoặc nướng thức ăn cho một nhóm cộng đồng người theo kiểu huyết thống.

Hang Phia Muồn:

Di tích hang Phia Muồn (Sơn Phú) nằm trong khu vực phổ biến là những núi đá phiến sét vôi xen kẽ những núi đất, những dải thung lũng hẹp và những thảm rừng nguyên sinh còn khá nguyên vẹn. Phia Muồn là một di chỉ cư trú và là khu mộ táng của cư dân thuộc nhiều giai đoạn tiền sử khác nhau. Địa tầng và di vật khảo cổ học kèm theo cho thấy có 2 mức văn hóa thuộc 2 giai đoạn phát triển hậu kỳ đá mới: Mức sớm chứa những công cụ tiêu biểu kỹ nghệ truyền thống Hòa Bình như rìu ngắn, công cụ hình đĩa, công cụ bầu dục vv...

Sự có mặt của nhiều mảnh tước chứng tỏ người nguyên thủy Phia Muồn đã chế tác công cụ ngay tại di chỉ. Lớp văn hóa sớm thuộc giai đoạn sớm của hậu kỳ đá mới, có niên đại khoảng từ 4.300 - 4.000 năm cách ngày nay. Lớp văn hóa muộn thuộc giai đoạn hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim khí có niên đại từ 4.000 - 3.500 năm cách ngày nay. Hai lớp văn hóa sớm và muộn nằm chồng trực tiếp lên nhau, phát triển liên tục, không có lớp giãn cách.

Táng tục và đồ tùy táng cho thấy, toàn bộ 12 ngôi mộ thuộc hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim khí là tục chôn người thân ngay trong di chỉ, với một số loại táng thức mới: bên cạnh táng thức truyền thống trước đó, kiểu chôn người chết nằm co, bó gối là táng thức nằm ngửa, duỗi tay chân và kè đá xung quanh.

Những tài liệu ở Phia Muồn đã cung cấp thêm về một loại táng thức cổ mới phát hiện ở Tuyên Quang, đó là tục chôn kè đá vây xung quanh huyệt mộ và rải đá lên thân thể người chết đã hình thành một loại hình văn hóa Hòa Bình thuộc lưu vực sông Gâm, với những sắc thái riêng, tạo nên diện mạo, bản sắc vùng, phản ánh tính đa dạng trong thống nhất của nền văn hóa Hòa Bình nổi tiếng.

Đền Pác Tạ:

Di tích đền Pác Tạ (thị trấn Nà Hang) là một trong những dấu tích còn lại minh chứng cho cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai năm 1285: vị tướng tài giỏi Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật lúc đó đương trấn thủ vùng đất Tuyên Quang đã khôn khéo chỉ huy quân chống giặc từ Vân Nam xuống. Theo những tư liệu lịch sử cho thấy, ngôi đền Pác Tạ được dựng lên bên Gâm giang dưới ngọn Tạ sơn để phụng thờ và ngưỡng vọng vị hôn phu (người vợ sắp cưới) của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật.

Hình ảnh về vị hôn phu của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đã được người dân nơi đây khoác lên tấm áo truyền thuyết ly kỳ lưu truyền từ đời này qua đời khác. Truyền thuyết kể lại rằng: Trong thời gian trấn thủ vùng đất Tuyên Quang xưa, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đã đem lòng ái mộ con gái một viên tù trưởng địa phương. Cô thiếu nữ miền sơn cước tài mạo, xinh đẹp, tính tình hiền thục lại xuất thân trong một gia đình hiếu học. Sau khi đánh đuổi quân xâm lược Nguyên - Mông, triều đình đứng ra tổ chức hôn lễ cho tướng quân Trần Nhật Duật với ái nữ xứ Tuyên.

Trên đường đón vị hôn phu của Tướng quân họ Trần về kinh đô, qua đây gặp cơn lốc xoáy dữ khiến thuyền bị lật. Người vợ trẻ của Trần Nhật Duật và cả đoàn tùy tùng bị chìm d­ưới dòng sông. Đã mấy ngày trôi qua, mà thân xác bà vẫn chưa được tìm thấy. Cảm thư­ơng trước tình cảnh của bà, triều đình đã ra lệnh cho toàn dân đôi bờ sông Gâm tổ chức tìm vớt thi thể bà và trọng thưởng cho ai tìm thấy. Khi đó có ng­ười trong dòng họ Ma đã vớt được thi thể bà. Để t­ưởng nhớ người vợ trẻ của Chiêu Văn v­ương Trần Nhật Duật, những ngư­ời dân địa phư­ơng đã lập đền thờ ngay tại nơi bà quy thác. Và dòng họ Ma đư­ợc quyền chăm lo hương khói cửa đền từ đó.

Chùa Phúc Lâm:

Di tích chùa Phúc Lâm (Thượng Lâm) được khởi dựng trong lịch sử đương đại thời nhà Trần lựa chọn Phật giáo làm hệ tư tưởng chính thống (hay còn gọi là Quốc giáo), đây là ý thức hệ làm cơ sở để triều đình phong kiến xây dựng đường lối trị nước của mình. Chính vì vậy, vào thời kỳ này, rất nhiều chùa tháp đã được dựng lên. Khác với các ngôi chùa thời Lý trước đây thường do triều đình xây dựng với quy mô lớn (đại danh lam), do các hoàng hậu, phi tần xây dựng (trung danh lam) và do các nhà sư cùng nhân dân xây dựng (tiểu danh lam).

Sang thời Trần, chùa chủ yếu do nhân dân quyên góp công sức, tiền của xây dựng (hay còn gọi là chùa làng) để phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân địa phương. Qua nghiên cứu các di vật lịch sử hiện còn lưu giữ tại chùa, như tảng kê chân cột bằng đá xanh, mảng trang trí vật liệu kiến trúc bằng đất nung, bình đồ kiến trúc của ngôi chùa xưa, các mảnh tháp đất nung cùng hệ thống tượng thờ độc dáo... cho phép khẳng định, ngôi chùa Phúc Lâm mang phong cách kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc từ thời Trần (thế kỷ XIII – XIV) và trải qua nhiều thời kỳ tồn tại cho tới các giai đoạn sau này.

Cơ quan ấn loát đặc biệt Trung Ương:

Di tích Cơ quan Ấn loát đặc biệt Trung ương (Năng Khả): Ngày 7-10-1947, giặc Pháp ồ ạt tấn công lên Việt Bắc hòng triệt phá cơ quan đầu não kháng chiến và các cơ sở kháng chiến của ta. Chúng nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn, tiến công thành hai gọng kìm chiếm đánh thị xã Tuyên Quang, đánh lên Bản Thi (Chiêm Hóa) và dò tìm, triệt phá cơ sở in bạc Việt Nam và đầu não kháng chiến của ta. Nắm bắt trước ý đồ của thực dân Pháp xâm lược, công nhân Cơ quan Ấn loát đã được lệnh đánh sập nhà xưởng, ngụy trang máy móc và di chuyển số tiền đã được sản xuất trị giá 20 triệu đồng lên cất giấu tại hang Nà Thẳm và hang Nà Bó, thôn Nà Chác, xã Năng Khả (Nà Hang). Nơi đây cũng là địa điểm tổ chức in tiền đầu tiên của nhà nước cách mạng Việt Nam.

Thắng cảnh Thượng Lâm:

Di tích Xưởng Quân khí H52 (Thượng Lâm) và địa điểm sản xuất diêm tiêu (Năng Khả) là 2 cơ sở trọng yếu khai thác và sản xuất diêm tiêu phục vụ kháng chiến chống thực dân Pháp giai đoạn từ năm 1950 đến 1954, nơi có vị trí bảo đảm bí mật, an toàn, là nơi có nguồn nguyên liệu dồi dào để sản xuất diêm tiêu thô và than củi (hai nguyên liệu chính để sản xuất thuốc súng).

Xưởng Quân khí H52 do đồng chí Ngô Gia Khảm làm giám đốc, chuyên sản xuất diêm tiêu làm thuốc súng (còn gọi là thuốc đen) đã đáp ứng một phần chế tạo vũ khí như lựu đạn, mìn, thuốc phóng, dây cháy chậm, pháo hiệu phục vụ chiến trường.

Thác Nặm Me:

Thắng cảnh thác Nặm Me (Khuôn Hà) là một con thác lớn tiêu biểu trong vùng, có chiều dài khoảng 4.000m, cao trên 200m so với mặt nước biển với 15 tầng thác lớn, xen giữa các tầng thác lớn là những tầng thác nhỏ với lưu lượng nước khá đều quanh năm.

Thác có bề mặt rộng và thoáng, nước chảy bốn mùa len lỏi qua những cánh rừng nguyên sinh và dãy núi đá vôi trùng điệp, cây rừng cổ thụ mang đặc trưng các loại gỗ quý hiếm vùng nhiệt đới, liền kề với mặt hồ thủy điện Tuyên Quang tạo nên phong cảnh đẹp và hấp dẫn.

Du lịch, GO! - Theo CTTĐT Tuyên Quang, internet
Ảnh Dulichgo.
Những ghềnh đá như Lộ Diêu, đảo Hòn La, Bàn Than, Bình Châu dễ dàng mê hoặc du khách với sự kỳ vĩ, nhưng lại hiếm khi được nhắc tới trong những cung đường du lịch.

Ghềnh đá Bình Châu

Tọa lạc trên trục đường cạnh biển tuyệt đẹp từ Bà Tô về suối nước nóng Bình Châu (Bà Rịa - Vũng Tàu), nơi hàng chục resort, casino đang được xây dựng, ghềnh đá Bình Châu (người địa phương gọi là biển Vạn Trâu) hoang sơ và hùng vĩ với những khối đá khổng lồ nổi bật trên màu xanh thẳm của nước, của những bãi cát vàng ươm, mềm mịn.

Ảnh Dulichgo.
Sau khi thả bộ chinh phục những đụn cát cao thấp phủ đầy hoa muống biển, bạn sẽ ngạc nhiên với những tảng đá ẩn hiện trong nước như những chú cá khổng lồ dập dềnh trên biển.

Tới đây, bạn sẽ dễ dàng có được một bộ ảnh background ấn tượng, cuộc dạo chơi trên các khối đá, những câu chuyện tỉ tê với bạn bè hay cách tắm “không đụng hàng”, bằng cách đứng trên những tảng đá mấp mé mép nước, chờ từng đợt sóng mạnh ào vào người.

Ảnh Dulichgo.
Trên cung đường biển từ Bà Tô về, suối nước nóng Bình Châu khoảng 7km và nằm bên tay phải. Mực nước ở đây khá sâu, sóng mạnh và nhiều đá nên bị cấm tắm (ĐGD: Thật ra, bạn vẫn có thể tắm như bao người dân địa phương tại đây, chỉ cần tránh không lặn hụp quá gần những tảng đá).

Nếu vẫn chưa "đã" với trải nghiệm biển của địa danh này, bạn có thể chạy thêm khoảng 9km hướng về xã Thắng Hải (thuộc hàm Tân - Bình Thuận, 2 địa danh này giáp ranh nhau) để vùng vẫy ở nơi sông gặp biển – biển Suối Ồ.

Ảnh Sgttonline
Ghềnh đá Lộ Diêu

Mất khoảng 20 phút đi xe máy từ cầu Bồng Sơn, theo đường giao thông ĐT 639, con đường bê tông liên xã mới được xây dựng về phía biển, tiếp đó vượt qua con đèo bám theo sườn đá ngoạn mục là bạn có thể đến chân ghềnh đá Lộ Diêu, thuộc địa phận thôn Lộ Diêu, xã Hoài Mỹ, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.

Ảnh Sgttonline
Từ trên cao nhìn xuống, bãi biển Lộ Diêu giống như một cánh cung khổng lồ, lưng dựa vào núi, mặt nhìn ra biển, chính giữa là cánh đồng. Còn nhìn từ xa, những khối đá nhiều hình dạng của ghềnh đá kết đôi với cát vàng bãi Bang Bang tạo nên bức tranh đá, nước kỳ vĩ, nguyên sơ và thơ mộng. Điểm nhấn của ghềnh là Hòn Trông, với hình dáng người phụ nữ cùng con trông ngóng chồng trong mỗi mùa đi biển.

Sau khi tham quan, thả lỏng trong không gian còn đậm mùi nguyên sơ của một nơi ít người đặt chân, bạn đừng quên thả bộ đến Lăng Ông, chiêm bái 5 bộ xương cá Ông được ngư dân chôn cất, cải táng rồi đưa về đây. Hai món ăn bạn không thể bỏ qua tại ghềnh Lộ Diêu là món mối rang mỡ hành (rộ vào tháng 7) và còng rang me hay nấu bún riêu.

Ảnh Caucaquangbinh
Ghềnh đá đảo Hòn La

Chưa hẳn là địa điểm du lịch song đảo Hòn La nói chung và ghềnh đá của đảo là điểm hẹn lý tưởng của các cần thủ đam mê môn câu cá trên biển tại các ghềnh đá.

"Chuyên ngành" như thế nên rất khó để có thể khắc họa trọn vẹn vẻ đẹp của ghềnh Hòn La ngoài những từ chuyên môn như “các ghềnh đá phong hóa tự nhiên bám đầy rong riêu, hàu điệp…” hay “ở bãi đá nguyên thuỷ ven bờ, mực nước làn làn chỉ phù hợp cho các quý bà, quý cô đi nhặt vỏ ốc”….

Ảnh Caucaquangbinh
Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, ghènh đá Hòn La mang vẻ đẹp lạ của những khối đá vôi được sóng biển tác động tạo thành những hình dáng khác nhau. Có tảng là là trên mặt nước, có tảng ẩn hiện, có tảng lại như những thủy quái khổng lồ đang há rộng khoe hàm răng đáng sợ.

Lưu ý mực nước ở ghềnh đá này có độ sâu khoảng từ 5 đến vài chục mét, phía trước là lạch nước sâu hàng trăm mét chia cách hai hòn đảo, nước ở giữa lạch này chảy rất mạnh nên không tắm tại ghềnh.

Ảnh Vnphoto
Ấn tượng Bàn Than

Để đến được Bàn Than, từ Đà Nẵng, bạn thẳng tiến quốc lộ 1A đến huyện Núi Thành, Quảng Nam, tại cột mốc cây số 1020 rẽ về phía biển chừng 10 km, một bến phà với cảnh đẹp hiếm có sẽ đưa bạn sang xã đảo Tam Hải. Vòng vèo xe máy một lúc trên con dừa của xã đảo, bạn sẽ được chiêm ngưỡng ghềnh đá Bàn Than cao 42m dựng sát mép biển.

Ảnh Vnphoto
Dưới sự tác động của sóng, các tảng đá của Bàn Than có sự khác nhau giữa hai bãi. Bãi Nồm là những tảng đá đen hình những con thú khổng lồ, gai góc như cá voi, cá mặt quỷ, thủy quái….

Riêng bãi Bắc là những chú hải cẩu, rùa biển, tròn trùng trục, nhẵn nhụi. Quanh ghềnh đá Bàn Than là một rạn san hô lớn kéo dài hơn 10 km, để bạn lắn ngắm, bắt tôm hùm và các loại ốc.

Ngoài ra, một số bãi đá hoang sơ tuyệt đẹp và cũng ít người biết đến... cũng là chốn bạn cần tham khảo qua các bài sau:

- Bãi đá và đỉnh Hòn Rơm
- Một lần đến với Ghềnh đá Hòa Thắng
- Liên Nghĩa - Nam Ban đến bãi hoang Mũi Né
Khám phá vẻ đẹp Hòn Yến - Phú Yên
...

Du lịch, GO! - Theo Infonet, Dulichgo.
Sáng 27.2, trên quốc lộ 1A đoạn qua điểm tiếp giáp giữa xã Bình An (H.Thăng Bình) và xã Tam An (H.Phú Ninh) thuộc tỉnh Quảng Nam xuất hiện đầy đinh.

< Lực lượng Công an xã Bình An dùng chổi để thu gom đinh trên đường.

Suốt đoạn đường dài khoảng 30 mét, đinh nằm rải rác khắp mặt đường khiến hàng chục chiếc xe máy bị thủng lốp, gây nguy hiểm cho người điều khiền.

Nhiều người dân cho biết, vào khoảng 8 giờ cùng ngày, nhiều xe máy chạy ngang đoạn đường này phải dừng lại vì bị những cây đinh nhọn dài khoảng 3 - 4 cm đâm thủng lốp.

< Số đinh thu gom được ước chừng 2 kg.

Nhận được tin báo của người dân, Công an xã Bình An đã cử cán bộ đến hiện trường kiểm tra.

< Những chiếc đinh nhọn là nguyên nhân gây thủng lốp khoảng 20 xe máy.

Ông Đỗ Mộng Vĩnh, Phó trưởng Công an xã Bình An cho biết, khoảng hơn 20 xe máy đi ngang qua đoạn đường này bị thủng lốp do cán phải đinh.

< Nhiều người đi đường phải dừng lại kiểm tra lốp sau khi đi ngang qua đoạn đường này.

“Chúng tôi đã dùng chổi để quét mặt đường, thu gom khoảng 2 kg đinh - loại thường dùng trong các cơ sở nhôm kính”, ông Vĩnh nói.

Hiện lực lượng chức năng địa phương đang điều tra làm rõ nguồn gốc số đinh trên.

Du lịch, GO! - Theo Hoàng Sơn (báo Thanh Niên)

Tuesday, 26 February 2013

Với không gian tự nhiên, nguyên thủy của hệ sinh thái, sự hoang sơ và thuần khiết như bông hoa rừng vừa hé nở là yếu tố tạo cho Khu Du lịch Sinh thái Măng Đen có sức hấp dẫn mà ít nơi nào có được, đã làm biết bao người rung động khi lần đầu đặt chân đến Măng Đen.

< Với nhiệt độ bình quân trong năm dưới 20°C, Măng Đen có khí hậu mát mẻ quanh năm.

Tây Nguyên được xác định là một trong 7 vùng du lịch đặc thù của Việt Nam trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030, Khu Du lịch Sinh Thái Măng Đen thuộc huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum là một trong 31 khu vực có quy mô và tiềm năng du lịch đặc biệt nổi trội ở Việt Nam được Nhà nước ưu tiên đầu tư để phát triển thành khu du lịch quốc gia.

< Những cánh đồng lúa chín vàng dọc theo các sườn đồi thoai thoải ở Măng Đen.

Khi nói đến vùng văn hóa - du lịch Tây Nguyên là chúng ta nghĩ ngay đến không gian văn hóa cồng chiêng, kho tàng sử thi, đến kiến trúc nhà rông, đến cà phê Buôn Mê Thuật và các ca khúc sôi động, giàu sức sống... Tất cả những hình ảnh, ngôn ngữ và âm thanh đó tạo nên một Tây nguyên bản năng, mạnh mẽ, đầy sức lối cuốn và cám dỗ.

< Măng Đen có sự đa dạng về văn hóa của các dân tộc, trong đó dân tộc Mơnâm, Xêđăng, Kadong, H’rê chiếm hơn 97% dân số.

Theo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên đến năm 2020, tỉnh Kon Tum có vị trí, vai trò hết sức quan trọng của vùng Tây Nguyên trong phát triển Du lịch của cả nước và hợp tác phát triển du lịch của khu vực tam giác phát triển Campuchia – Lào – Việt Nam, trong đó: Đẩy mạng việc đa dạng hoá các sản phẩm du lịch trên cơ sở khai thác tiềm năng và thế mạnh về tài nguyên thiên nhiên, lịch sử, văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số; tập trung phát triển du lịch sinh thái rừng núi, thác hồ. Phát huy có hiệu quả tài nguyên khí hậu đặc thù để hình thành và phát triển du lịch nghỉ dưỡng cao cấp ở Măng Đen, là dự án ưu tiên nghiên cứu đầu tư thời kỳ 2012-2020 vùng Tây Nguyên.

< Những ngôi nhà sàn nằm nép mình bình yên bên sườn núi.

Thế mạnh về vị trí địa lý của tỉnh Kon Tum cùng nguồn tài nguyên đa dạng và phong phú phân bố trên cả tỉnh như: Lòng hồ Ya Ly, lòng hồ Pleikrông, vườn quốc gia Chưmomray, khu Bảo tồn thiên nhiên Ngọc Linh ... cùng nhiều di tích lịch sử cách mạng: Ngục Kon Tum, Ngục Đắkglei, tượng đài chiến thắng Đắk Tô - Tân Cảnh..., di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật: Chùa Bác Ái, Nhà thờ Gỗ, Chủng viện..., lễ hội: Cồng chiêng, mừng nhà rông, mừng lúa mới... đặc sắc, đã tạo ra sức hấp dẫn tổng thể cuốn hút du khách đến với Kon Tum, đến với Khu Du lịch Sinh thái Măng Đen.

< Thiên nhiên ban tặng cho Măng Đen nhiều thác nước tuyệt đẹp.

Từ thị xã Kon Tum, đi dọc Quốc lộ 24 (về hướng Quảng Ngãi) khoảng 50km, du khách sẽ đến Khu du lịch sinh thái Măng Đen (Kon Plông - Kon Tum), điểm khởi đầu của tuyến du lịch Con đường xanh Tây Nguyên.

Măng Đen có vẻ đẹp hoang sơ và thuần khiết giống như hình ảnh của cô gái thôn quê mới lớn: Dung dị, mộc mạc và hồn nhiên. Bởi vậy, nghỉ dưỡng sinh thái là thế mạnh chủ đạo của Măng Đen. Nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, quanh năm mát mẻ, với bạt ngàn rừng thông, với cảnh quan hữu tình của hồ, thác, với hệ sinh thái nhân văn của các dân tộc thiểu số như: Xê Đăng, Kdoong, Mơnâm,...tạo cho Măng Đen khoác trên mình một chiếc áo đẹp nhiều màu sắc.

Măng Đen có vị trí quan trọng về giao lưu kinh tế, đặc biệt là vị trí trung chuyển nằm trên tuyến quốc lộ 24 nối liền tỉnh Kon Tum với các tỉnh duyên hải miền Trung; nằm trên trục hành lanh kinh tế Đông - Tây qua cửa khẩu quốc tế Bờ Y đi qua quốc lộ 24 tới các khu du lịch ven biển miền Trung.

< Cảnh quan núi rừng thiên nhiên thơ mộng.

Thông qua cửa khẩu này, khách du lịch có thể tới các khu du lịch tại Tây Nguyên (Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng) trong đó có Măng Đen của Kon Tum, miền Trung Việt Nam (Quảng Nam, Đà Nẵng, Bình Định, Quảng Ngãi), Nam Lào, Đông - Bắc Campuchia, Đông Bắc Thái Lan.

Măng Đen có vị trí rất đặc biệt, nằm giữa 2 ngọn đèo lớn là đèo Măng Đen và đèo Viôlắk (Quảng Ngãi), khu vực Măng Đen hầu như còn nguyên sinh, diện tích rừng chiếm trên 80% diện tích tự nhiên, có trên 4.000 ha rừng thông tạo thêm tính đa dạng và có nét tương đồng với Đà Lạt. Măng Đen nằm ở độ cao trên 1.000 m so với mặt nước biển, nhiệt độ trung bình dao động18oC - 20oC. Dân tộc thiểu số chiếm gần 90% tổng dân số.

< Thác Dak Ke tuyệt đẹp.

Xuất phát từ việc coi trọng giá trị nguyên sơ, hoang dã là "của quý" không chỉ riêng của Măng Đen, của Tây Nguyên, của Việt Nam mà là sự "hiếm có" của thế giới trong bối cảnh đô thị hóa và toàn cầu hóa hiện nay. Xuất phát từ nhu cầu du lịch sinh thái đang ngày càng phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới, tỉnh Kon Tum đã và đang hướng đến xây dựng Măng Đen thành một vùng nghỉ dưỡng, chữa bệnh, tham quan, giải trí... đúng với ý nghĩa đích thực của du lịch sinh thái.

< Một hồ nước trong xanh nằm trên núi.

Quan điểm phát triển đối với khu du lịch sinh thái Măng Đen là mong muốn có một sản phẩm đặc thù, một thương hiệu độc đáo và hình ảnh riêng biệt cho Măng Đen, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của khách du lịch hiện đại. Sản phẩm du lịch sẽ phải thân thiện với thiên nhiên, với các hệ sinh thái tự nhiên, có sự tham gia của cộng đồng dân cư với những nét văn hóa độc đáo về văn hóa bản địa của họ. Măng Đen được xác định là khu du lịch sinh thái quốc gia, thì sản phẩm du lịch phải có chất lượng, có tầm cỡ quốc gia và phải kết nối với các vùng du lịch trọng điểm khác trong tổng thể du lịch của vùng Tây Nguyên, khu vực duyên hải miền Trung và Nam Trung trung bộ.

< Những ngôi biệt thự nằm ẩn mình trong rừng thông xanh.

Tại hội thảo quy hoạch xây dựng vùng du lịch sinh thái quốc gia Măng Đen và đô thị Kon Plông đến năm 2030, Ông Ngô Trung Hải - Viện trưởng Viện Kiến trúc và Quản lý thô thị Việt Nam đã nhận định rằng: Măng Đen phải tìm được cái gì rất riêng cho mình để tránh khỏi bước sai lầm mà các đô thị du lịch nghỉ dưỡng khác của Việt Nam đang vấp phải.

< Hoàng hôn tím buông xuống núi rừng Măng Đen.

Để tạo ra các sản phẩm đặc sắc, khắc biệt, mang dấu ấn địa phương, cần kết hợp khéo léo giữa các di sản phi vật thể và vật thể, các công trình kiến trúc tiêu biểu, nghệ thuật ẩm thực với cảnh quan và thiên thiên nhiên tươi đẹp của địa phương. Với thực trạng tiềm năng, lợi thế, sự thu hút đầu tư, sản phẩm du lịch đặc trưng đang được phát triển mạnh ở Măng Đen như: Nuôi cá thương phẩm, nhân giống thành công các loài cá nước lạnh (cá tằm, cá hồi), sản phẩm trà sim, rượu sim, rau hoa xứ lạnh... Măng Đen có nhiều điều kiện để tạo dựng thương hiệu nổi bật trên bản đồ du lịch Việt Nam cũng như bản đồ du lịch thế giới.

Măng Đen (Kon Tum), nàng tiên giữa đại ngàn

Du lịch, GO! - Theo Văn Phát (Báo Ảnh VN)
Đậu đũa khá quen thuộc với các món ăn như đậu đũa luộc, đậu đũa xào hay kho với cá đồng… Nhưng không phải ai cũng từng được thưởng thức món xôi và chè đậu đũa.

Ở quê tôi hầu như nhà nào cũng trồng đậu đũa. Đậu đũa có vị ngọt, nhiều vitamin và khoáng chất, lại rất dễ gieo trồng. Chỉ cần một ít hạt giống gieo xuống khoảnh đất nhỏ trong vườn, sau vài ngày đã thấy những mầm đậu bé xinh nhú lên khỏi mặt đất. Người ta cắm những nhánh tre dài cho dây đậu bò lên. Vài tuần sau là cây ra hoa, kết trái.

Khi đậu ra trái nhiều, ăn không hết sẽ già. Người quê tôi hái những trái đậu già ấy đem bóc lấy hạt, phơi khô để dành nấu xôi, nấu chè. Những hạt đậu đũa khô bé nhỏ ấp ôm hương nắng gió miền Trung khiến món xôi, chè đậu đũa trở thành những món ăn chơi thơm ngon và lạ miệng chỉ có ở các vùng thôn quê.

Để có được đĩa xôi đậu đũa thơm ngon, đậu đũa được mang ngâm, bóc bỏ lớp vỏ bên ngoài rồi luộc cho mềm, đổ ra rổ để ráo. Chọn loại nếp mới còn thơm hương, vo sạch bụi cám. Cho nếp và đậu vào đồ chín. Thường thì các bà nội trợ cho thêm một ít dầu phụng, muối và bột ngọt (mì chính) vào để món xôi khi chín sẽ ngon, béo và đậm đà hơn. Món ăn này là sự kết hợp giữa vị dẻo, thơm của nếp, béo của dầu phụng cùng vị thơm, bùi của đậu, là món điểm tâm yêu thích của người dân quê tôi.

Nhiều người thích ăn xôi đậu đũa cùng bánh tráng nướng. Bẻ hai miếng bánh tráng rồi kẹp miếng xôi ở giữa. Âm thanh giòn tan của bánh tráng khiến món ăn thêm thú vị và mang đến cảm giác vui tươi cho người thưởng thức.

Với chè đậu đũa cần ngâm đậu sáu giờ, bóc bỏ vỏ rồi nấu mềm. Đổ bớt nước luộc đậu ra, cho đường vào rim cùng đậu chừng hai mươi phút cho hạt đậu ngấm vị ngọt của đường thì cho phần nước luộc đậu còn lại vào nồi chè, thêm lượng đường vừa ăn, nấu sôi năm phút là được. Để vị ngọt của chè thêm thanh và hương chè thơm ngan ngát, chỉ cần cho một ít muối và vài nhánh lá dứa đã rửa sạch vào nấu cùng là được.

Những ngày nắng nóng được thưởng thức chè đậu đũa ướp lạnh thì không gì tuyệt bằng. Nâng chén chè mát lạnh, thơm ngát trên tay, húp một chút nước đường ngọt lịm, nhâm nhi từng hạt đậu chín mềm, cảm nhận hương vị bở bùi tan trên đầu lưỡi, nghe như bao nhiêu nắng nóng ngoài trời cùng những mệt mỏi trong người tan biến đâu hết.

Bạn cũng có thể nấu xôi và chè đậu đũa với những hạt đậu đũa tươi được bóc ra từ những trái đậu đã già. Với đậu tươi thì khi nấu không cần phải ngâm và bóc vỏ.

Một mùa đậu đũa nữa lại về, người quê tôi lại háo hức hái đậu, lại luộc, lại xào, lại phơi khô, nấu xôi, nấu chè... Mặc cho bao nhiêu món ngon vật lạ có mặt trên đời, đậu đũa vẫn mãi thân thiết và gắn bó với những con người nơi mảnh đất miền Trung đầy nắng gió nhưng cũng rất nghĩa tình này.

Du lịch, GO! - Theo Kim Loan (TTO), internet
Người Dao Đỏ ở Hồ Thầu tin rằng thần linh tác động khiến cây gậy tự động nâng lên. 

Kỳ lạ những 'cây gậy biết bay' ở Hà Giang

Về bí ẩn của trò chơi giữ gậy, người Dao Đỏ ở Hồ Thầu (Hoàng Su Phì, Hà Giang) tin rằng đó là do thần linh tác động vào khiến cây gậy tự động nâng lên. Các thầy cúng thì úp mở rằng đó là do Sài tía (ma thầy cúng) nhập vào cây gậy.
Tôi hỏi ông Triệu Chòi Hín, hỏi Bí thư Triệu Sành Quấy, rồi Triệu Ngà Tá, cùng khá nhiều những người ở Hồ Thầu làm được trò chơi này, họ đều khẳng định: “Bí mật của trò chơi này chính là ở câu thần chú. Ai biết nó sẽ làm cây gậy bay lên được. Và phải biết cách đọc thần chú”.

Thực ra, cách “đọc thần chú” không có gì lạ. Các thầy mo, thầy tào, bà then, thầy cúng, dẫu ở các dân tộc khác nhau, nhưng đều đọc thầm trong miệng không lộ rõ tiếng, đọc liền một hơi dài, hai hàm răng và lưỡi không được chạm dính nhau.

Khi tôi hỏi về nội dung câu thần chú, ai cũng chỉ cười cười rất tươi và bảo “Quên mất rồi”. Ông Hín còn úp mở: “Anh không biết điều khiển, cứ đọc bừa, đồ đạc trong nhà bay hết đi đấy”. Mày mò tìm hỏi mãi, cuối cùng chúng tôi cũng gặp được người tiết lộ về nội dung câu thần chú này, một trong những điều bí ẩn cốt lõi nhất của trò mà theo tiếng Dao là “Đam tờ chùi” này.

Nhưng một người có một thời gian dài nghiên cứu đam mê về văn hóa của cộng đồng người Dao Đỏ trên địa bàn Hà Giang, nắm bắt được khá nhiều các tư liệu thì khẳng định rằng: “Bản chất của việc khiến cây gậy tự nâng được lên mặt đất chắc chắn không phải nhờ câu thần chú”.

Đó là ông Trần Chí Nhân, Giám đốc Trung tâm Văn hóa thông tin thể thao huyện Hoàng Su Phì. Ông Nhân cho biết: “Tôi và một vài thầy cúng người Dao từng vài lần đọc thần chú, thử nghiệm trò đẩy gậy mà không có kết quả.

Tôi cũng tự mình tham gia trò chơi với con mắt tỉnh táo, khoa học để khám phá các bí mật, thủ thuật, nhưng khi giữ cậy gậy, cảm giác như mình đang kéo cây tre ra giữa bụi tre, có luồng xung lực nào đó ghìm giữ lại rất mạnh.

Một lãnh đạo Sở Văn hóa thể thao và du lịch Hà Giang cũng từng nhiều lần trực tiếp tham gia giữ gậy để nghiên cứu, tìm hiểu. Cảm giác của chúng tôi là trong không khí có cái gì âm âm, u u như cảm giác bị thôi miên, rất khó giải thích”.

Ông Trần Chí Nhân không ngần ngại đưa cho chúng tôi những câu thần chú, mà anh tìm hiểu được và chép lại khá cẩn thận. Câu thần chú đó có 5 câu gồm 40 chữ bằng tiếng Dao, nhưng ở đây chúng tôi xin chỉ chép 3 câu:

“Quan tài Stia pháo/ Quan pháo Stia phỉa/ Chấp quan, chấp cóng, chấp hó, chấp vùi…”. Nội dung toàn bộ câu thần chú tạm dịch là: “Hỡi các thần ma, hỡi tổ tiên! Nếu có linh thiêng thì khi trên ấn xuống dưới phải nâng lên. Trăm người đẩy không xuống, nghìn người nhấc không lên. Có làm được thì mới linh thiêng, ngày Tết mới vui”. Quả thực, với nội dung câu thần chú như trên, dù có đọc kiểu gì thì đọc, khó có thể nói rằng nó sẽ giúp những cây gậy bay lên với sức mạnh của “mười con trâu kéo” được.

Sau nhiều tìm tòi, mày mò với văn hóa của người Dao Đỏ, đặc biệt là trò chơi giữ gậy, ông Trần Chí Nhân cho rằng: “Giống như trò nhảy lửa, trò giữ gậy cũng cần đến sự hỗ trợ của thầy cúng.

Còn người tham gia có thể là bất cứ ai, kể cả những người thuộc dân tộc khác hoặc những người hiếu kỳ. Những kiêng kỵ như người phải sạch sẽ, không bốc trộm đồ ăn… chưa phải vấn đề bản chất. Tôi không tin rằng bí quyết của sự kỳ lạ nằm ở khả năng thôi miên của một số thầy cúng. Về mặt văn hóa, đây là một trường đoạn saman giáo của người Dao Đỏ”.

Tiến sĩ Hoàng Sơn, Phó Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam cũng từng tham gia vào lễ hội truyền thống của người Dao Đỏ, ghi hình, phỏng vấn, tìm hiểu khá kỹ càng về trò đẩy gậy.

Trao đổi với chúng tôi, ông Hoàng Sơn cho biết: “Đành rằng trong các trường đoạn saman giáo của đồng bào các dân tộc thiểu số, đặc biệt là của người Dao, luôn có những bí ẩn không dễ gì giải thích bằng khoa học, nhưng những lí giải đó chưa khiến chúng tôi thỏa mãn”.

Những căn cứ khiến ông Hoàng Sơn hoài nghi là, không phải lúc nào thầy cúng cao tay và biết câu thần chú đó đều làm được. Người chủ trò vẫn phải hướng dẫn tư thế giữ gậy cho người chơi nắm giữ gậy theo đúng ý mình.

Điều quan trọng nhất là nếu không có sự chung tay của ít nhất hai người, thì cây gậy không tự nó “bay” lên được. Tại sao thần linh lại không để cây gậy tự nâng lên lơ lửng, mà cần có người vác giữ? Tôi cho rằng, nếu có sự tác động của con người, trong trạng thái tập trung cao độ, thì sự khéo léo, tiểu xảo của người chủ trò sẽ là yếu tố quyết định. Có nghĩa là có thể giải thích bằng kiến thức vật lí được.

Khi hai người cùng cúi gập người, thẳng tay và duỗi chân để giữ hai tay vào cây gậy theo sắp xếp của người dẫn trò, thì tay người này và vai người kia đã có sự kênh giữ nhau, so le với nhau.

Vai người này đang đè vào vai người kia, tay người kia đè tay người nọ, nên ai cũng có cảm giác nặng nề, bức bối. Khi chịu tác động là cái vỗ tay mạnh của thầy cúng vào đầu gậy, cây gậy sẽ bập vai, hoặc kênh tay người kia mà nâng lên mặt đất khoảng 20 cm theo cách choãi chân…
Khi cả nhóm người cùng lao vào giúp đỡ hai người chơi, thường là nhảy lên lưng, lên vai họ, mà không giải quyết được nút thắt là kết cấu tay - gậy. Khi một ai đó vỗ vào đầu trên của gậy, thì lập tức cây gậy rơi ngay”.

Tiến sĩ Hoàng Sơn kết luận: “Tôi không tin có sự thôi miên hay thần linh nào nâng cây gậy. Nhưng với một kết cấu vật lý hợp lý, cùng với sự khéo léo của người chủ trò, cây gậy sẽ có cảm giác rất nặng khi hai người đang kéo xuống, thực ra là đẩy ngang”.

Trò chơi đẩy gậy thực chất là ảo thuật hay huyền bí, vẫn chờ các nhà khoa học giải mã một cách triệt để. Nhưng trong ngày Tết rộn ràng, đẩy gậy vẫn là một trong những trò chơi được đông đảo người Dao Đỏ vùng Hoàng Su Phì ưa thích. Những tiếng cười vui vẻ giúp người dân thêm đoàn kết, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống hơn.

Kỳ lạ những 'cây gậy biết bay' ở Hà Giang

Du lịch, GO! - Theo VTC News
Nơi này người ta gọi là suối nước nóng Trường Xuân, như ẩn ý nước suối ở đây có thể giúp con người trẻ mãi không già.

Nằm ở Dục Mỹ, xã Ninh Tây, huyện Ninh Hòa, cách Nha Trang khoảng 50km về phía tây bắc: Suối nước nóng Trường Xuân có độ nóng tới 76°C và khá tinh khiết, chứa các khoáng chất rất cần cho cơ thể con người, lại là nơi phong cảnh hữu tình, rất gần với quốc lộ.
Con suối đổ ra từ một ngách đá giữa núi rừng, bị đá đồi cắt chẻ chia ra thành từng hồ nhỏ.

Hồ càng gần nguồn và càng lên cao, nước càng nóng đến mức có thể luộc chín cả trứng gà. Bởi thế, khi đến đây tuy không ai bảo ai nhưng hầu như tất cả mọi người đều mang theo trứng gà và muối tiêu. Ai cũng thích thú khi thả những túi trứng xuống hồ, ngồi chăm chú chờ đợi khoảng 15 - 20 phút sau để thưởng thức món trứng luộc nóng hổi.

Trứng không chín quá cũng không sống quá, chỉ mới độ hồng đào dẻo mềm tỏa khói nghi ngút, chấm muối tiêu và ăn giữa đất trời Ninh Tây thì khó mà quên được. Càng xuống thấp, nước ở các hồ càng giảm bớt độ nóng, đến hồ thứ hai, thứ ba thì bạn đã có thể đằm mình trong làn nước phất phơ màng khói trắng như đang được tắm nóng ở xứ sở hoa anh đào.

Nước hồ trong vắt, phảng phất mùi đá lại chứa nhiều khoáng chất rất tốt cho cơ thể. Bạn có thể ngâm mình cả ngày giữa bao la núi rừng và màu xanh ngắt của cây cối bủa vây.

Khí hậu Ninh Tây cũng mang nét đặc trưng của dải đất miền Trung hai mùa mưa nắng. Bạn có thể đến đây vào bất cứ mùa nào nhưng thời điểm tốt nhất là những ngày giáp tết. Không chỉ được thư giãn trong làn nước ấm, bạn còn có thể câu cá ở hồ rộng nhất và thấp nhất, nhiệt độ ở đây có vẻ làm những chú cá hứng thú nên chúng đua nhau vẫy vùng bên cạnh những bông sen, súng và hoa bèo chen nhau trên mặt nước.

Giữa chốn núi rừng hoang sơ này đang có một cuộc sống yên ả trôi. Tầm khoảng 4 - 5 giờ chiều, bạn sẽ thấy từng đoàn dân tộc thiểu số với trang phục truyền thống ra đây tắm rửa, giặt giũ. Già có trẻ có, con nít cũng có, có khi là cả đại gia đình làm huyên náo cả một góc rừng, rồi sau đó trả lại sự im lặng tĩnh mịch vốn có cho khu rừng. Cuộc sống vẫn êm đềm lắm ở góc núi rừng Ninh Tây này.

Du khách đến thăm nguồn nước khoáng có thể đi dạo cảnh, tìm hiểu phong tục, tập quán và sinh hoạt của đồng bào hai dân tộc Êđê và RắcLây, dân cư chính ở đây. Tắm trong suối nước nóng Trường Xuân, du khách sẽ cảm thấy thoải mái, thư giản tuyệt vời.

Du lịch, GO! - Tổng hợp
Tai nạn do rắn cắn thường gặp trong khi đi phượt rừng núi, làm rẫy, làm đồng hoặc do mưa bão gây ngập lụt...
Đây là tai nạn bất ngờ khiến nạn nhân và người xung quanh lúng túng. Do tác hại khác nhau của nọc độc từng loại rắn, cho nên khi một người bị rắn cắn, các bạn hãy cố gắng xác định đó là loài rắn gì? Độc hay không độc? Nếu là rắn độc thì nó thuộc loại nào để khẩn trương ứng cứu.

DỰA VÀO VẾT CẮN

- Rắn độc: rắn độc thường để lại hai vết răng nanh sâu, ít chảy máu nhưng rất đau nhức và sưng tấy, nọc càng ngấm thì càng đau và sưng nhiều, chỗ hai vết nanh bầm tím.

- Rắn không độc: Vết cắn của rắn không độc thì để lại đầu của hai hàm răng, nhưng không thấy dấu của răng nanh, vết cắn chảy máu.

Một loại rắn độc đều có một cấu trúc răng và móc độc khác nhau, cho nên vết cắn để lại trên mình nạn nhân cũng khác nhau, nếu có kinh nghiệm, dựa vào dấu răng, người ta có thể chẩn đoán loại rắn đã cắn. Ví dụ như dựa vào địa hình, địa thế:

DỰA VÀO ĐỊA THẾ

Theo tập tính và nơi ở của rắn, chúng ta thường gặp:
- Rắn hổ nơi đồi núi, gò đống, bụi rậm, nơi cao ráo... Khi cắn, thường ngóc cao, bành cổ, thở phì phì.
- Rắn mai gầm thường sống nơi ẩm ướt, ban đêm thường kiếm ăn theo bờ ruộng ẩm.
- Rắn lục xanh thường sống nơi bờ cỏ, bụi cây.
- Rắn chàm quạp thường sống ở các vùng đất đỏ, đồn điền cao su, rừng cát ven biển hay nằm bên lề đường, ban đêm khi gặp người đi ngang thì phóng tới cắn và ngậm rất chặt, phải đá mạnh chân mới văng ra, cắn xong răng còn dính lại. Ban ngày, chàm quạp chỉ cắn khi cần tự vệ, cắn xong là bỏ chạy ngay nên không để lại răng.

DỰA VÀO TRIỆU CHỨNG CỦA NẠN NHÂN

Thành phần hóa học của mỗi loại nọc rắn khác nhau, do đó tác động sinh học trên cơ thể nạn nhân cũng khác nhau.
Người ta thường phân biệt nọc rắn thành hai nhóm chính:

1. Nhóm độc tố máu (hermorragin): Tác động chủ yếu liên hệ tim mạch, gây phân giải hồng cầu, đông máu và chảy máu, làm co huyết quản, gây trụy tim... Gồm nọc của các loài thuộc họ Rắn lục (viperideae),rắn rung chuông (crotalidac).

2. Nhóm độc tố thần kinh (neurotoxin): Tác động chủ yếu liên hệ thần kinh, hô hấp. Gây liệt tay, liệt cơ hoành, cuối cùng ngạt thở và chết... Gồm các loại Rắn biển (hydrophydac) Rắn hổ (elapidac)

Một số phương pháp cấp cứu khi bị rắn cắn:

CƠ BẢN

Khi bị rắn độc cắn, hãy bình tĩnh, càng ít cử động chổ bị rắn cắn càng tốt. Nếu bị cắn ở chân thì không nên đi lại, ngay cả một bước (nếu điều đó có thể được). Cấp cứu nạn nhân theo trình tự sau:

1- Đặt garrot* cách vết cắn 5-10 cm về phía tim. (Để cho máu lưu thông nuôi phần dưới) rồi cột lại.
2- Tẩy nọc tại chỗ bằng nước xà phòng, nước vôi, nước phèn, nước có chất chua, chất chát, thuốc tím...
3- Dùng dao nhọn, bén sạch, rạch rộng chỗ 2 vết nanh thành 2 hình chữ thập. Hút máu độc ra ngoài bằng cách nặn tay, dùng ống giác hơi, ống giác cao su, ống tiêm 10cc hoặc dùng miệng (nếu miệng không có vết trầy xướt, sâu răng... )
Lưu ý: Nếu vết cắn đã trên 30 phút thì không cần hút, vì không ích lợi gì mà đôi khi còn có hại thêm

Các bạn có thể dùng “cục hút nọc” bào chế từ một miếng sừng hươu nai hầm lâu trong nồi kín, đặt tại vết cắn để trung hòa lượng nọc.
Tác dụng của nọc rắn nhanh chóng và chỉ xảy ra trong môi trường trung tính hay axit, vô hiệu lực trong môi trường kềm. Do đó các chất sau đây có tác dụng làm hư hủy nọc rắn: Cloramin T, thuốc tím, tanin, saponin, papain (trong mủ đu đủ), bromelin (trong quả dứa) than hoạt tính, dịch tụy tang, nước vôi, nước javel...

ĐIỀU TRỊ
- Tiêm huyết thanh kháng nọc (nếu có - mà thường thì khó có ngay).
- Cho nạn nhân uống rượu hội* và viên hội. Rượu hội thì cứ 10-30 phút uống một chung. Viên hội thì viên đầu cho nạn nhân nhai ra xác đắp vào vết cắn và ngày uống 2 lần, mỗi lần 3 viên, liên tiếp trong 3 ngày.
Vì rượu hội là một bài thuốc rất hiệu nghiệm, chữa được hầu hết các loại nọc rắn, các bạn nên chuẩn bị sẵn trước khi đi thám hiểm hay vào những nơi hoang dã.

Các vị thuốc tự nhiên theo kiểu, vớ được gì dùng nấy:

Đắp thuốc tại chỗ:
Dùng các cây cỏ có tanin như: Ổi, Sim, Mua, Lựu, Sung, Trà (chè)

Làm ấm cơ thể:
Bằng các loại cây như: Quế, Gừng, Tía tô, Tỏi, Đại hồi, Đinh Hương, É Tía, Lá Lột, Kinh Giới, Trà Đậm.

Chống co thắt phế quản:
Dùng các cây như; Cà độc dược, Bối mẫu, Bán hạ, Nam Mộc Hương.

Chống đau nhức:
Đắp lại tại chỗ những vị thuốc tươi có chất nhầy như; Bông Bụp; Muồng trâu, Mồng tơi, Bồ ngót, Rau Lang, Nhớt họng gà...

Chống viêm nhiễm về sau:
Lá Móng tay, Phèn đen, Vú bò, Xuyên tâm liên, Cam thảo nam, cỏ Lưỡi rắn, Mần trầu, Nghệ, Vòi voi, Sài đất, Đọt sậy.

Khai thông đường dẫn thoát (gan, mật, ruột)
Hà thủ ô, Muồng trâu, Đại hoàng, Nghề răm, rau Má, rau Sam, cỏ Tranh, Dứa dại, Bìm bìm, Rau Đắng

THÍCH HUYỆT*:

Trường hợp rắn độc cắn vào bàn tay. Làm cho bàn tay và bàn chân sưng phù, càng to... Hãy dùng kim lớn (kim tam lăng hay kim tiêm lớn bằng thép không rỉ) thích cho dịch độc tiết nhanh ra ngoài, tránh gây hoại tử.
- Bàn tay sưng phù thì thích vào huyệt Bát tà (bên tay sưng).
- Bàn chân sưng phù thì thích vào huyệt Bát Phong (bên sưng).

Vị trí huyệt Bát tà: Ở các khe ngón tay trên chỗ thịt trắng đỏ giao nhau, mỗi tay có 4 huyệt.
Vị trí huyệt Bát Phong: Ở các khe ngón chân bờ trên chỗ thịt trắng đỏ giao nhau, mỗi chân có 4 huyệt.

Phương pháp thích: Sát trùng kim thích và vùng huyệt. Bàn tay hay bàn chân bên sưng để xuôi. Tay phải cầm kim thích nhanh vào các huyệt định châm, mũi kim hướng lên mu bàn tay hay bàn chân. Tùy theo sưng to hay nhỏ để quyết định thích sâu hay cạn (từ 5-15 mm). Làm cho dịch độc (có thể lẫn cả máu) chảy xuống là được. Sau khi thích xong, dùng tay nhẹ nhàng ép cho dịch chảy xuống. Nếu sau đó, dịch độc tăng làm sưng trở lại thì tiếp tục thích như trên. Một ngày có thể thích 2-3 lần. Sau 1-2 ngày sẽ bớt sưng.
Khi thích huyệt, đồng thời nên cho uống các bài thuốc giải nọc.

CÁC MÔN THUỐC NGOẠI KHOA

- Nếu giết được con rắn, sau khi đã thực hiện các biện pháp cấp cứu, mổ ruột con rắn lấy gan và mật đắp lên vết cắn, sẽ nhanh chóng giảm đau
- Bắt 7-9 con rệp nuốt sống với nước sôi để nguội, sau 10 phút sẽ giảm đau nhức. Những người đi rừng thường bắt rệp bỏ vào chai nhỏ mang sẵn theo trong mình, nếu bị rắn cắn thì lấy ra uống đồng thời bóp nát vài con rệp bôi vào vết cắn để cấp cứu.
- Dùng dịch âm đạo của phụ nữ bôi lên (Có thể các bạn sẽ cười nhạo hai cách trên đây, nhưng tác giả đã thấy tận mắt trên 3 người được cứu bằng những phương pháp này).
- Tìm một trong những cây sau đây, nhai hay giả với muối, vắt lấy nước uống, bã đắp lên vết cắn: Bồ cu vẽ, Bảy lá một hoa, Chua ngút, rễ và lá Đu đủ, Răm nghề, Cát đằng, ban nhật, Ớt...

Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là:
ĐỀ PHÒNG RẮN CẮN

Thông thường thì rắn không chủ động tấn công người, trừ trường hợp phải tự vệ. Rắn hay ẩn núp trong các lùm cây, bụi cỏ, đống lá ủ, trên các cành cây, ven bờ nước... Khi di chuyển trong các khu vực nghi ngờ có rắn, các bạn nên:
- Cẩn thận xem chỗ mà mình sắp đặt chân xuống
- Dùng cành cây khua khắng vào bụi rặm trước khi thọc tay chân vào để lấy vật gì hay hái trái cây.
- Mang giày ống hoặc mặc quần áo rộng, dài, dày...
- Cẩn thận trước khi mang giày hay mặc quần áo, vì rắn có thể ẩn núp trong đó.
- Tìm hiểu các tập tính và biết các phân biệt các loại rắn, nhất là rắn độc.
- Biết các sơ cứu và điều trị khi bị rắn cắn.

* Rượu hội: gồm ngũ linh chi 24g, xuyên bối mẫu 24g, sinh nam tinh 24g, bạch chỉ 24g, xuyên sơn giáp 24g, quế chi 24g, bạch thược 24g, bạch đậu khấu 24g, hà thủ ô đỏ 40g, phèn xanh 24g, hùng hoàng 40g, rượu 400 1500ml. Tán thô các vị thuốc. Ngâm với rượu trong 10 ngày, mỗi ngày lắc kỹ 2 - 3 lần. Chiết lấy nước rượu trong để dùng.

Hoặc các vị thuốc trên cho vào sắc kỹ 2 lần, ép lấy nước, bỏ bã. Nước thuốc cô lại còn 300ml, lọc cho thêm rượu 500 để có 1,5 lít rượu. Chữa rắn cắn. Ngày uống 30 - 60ml rượu hội (khoảng 1 - 2 chén nhỏ hay 2 - 4 thìa canh). Sau 10 - 30 phút uống thêm 1 thìa canh. Có thể uống 150 - 200ml trong 1 ngày. Ngoài việc uống rượu còn dùng gạc tẩm rượu hội đắp lên chỗ rắn cắn.

* Thuốc hội: rệp 200 con, phèn chua 20g, hùng hoàng 20g, hạt cau khô 10 hạt, củ chuối hột tươi 200g, lá trầu không tươi 10 lá, cỏ mực 200g, dây cứt quạ tươi 200g, rượu trắng 2 lít. Cho các dược liệu trên giã nát, ngâm trong rượu trắng, thỉnh thoảng quấy, đảo. Sau 7 ngày, chiết lấy rượu, để lắng dùng dần. Người lớn: 1 thìa cà phê, trẻ em bằng nửa; cứ nửa giờ uống 1 lần. Có thể chế thành viên, mỗi viên 0,5g, mỗi lần uống 2 viên, ngày uống 6 - 8 lần.

* Đặt garrot là cách xử lý từ xưa nay, tuy nhiên theo Khoa chống độc, Bệnh viện Bạch Mai thì:

- Không nên đặt garô vì sẽ làm tắc nghẽn hoàn toàn động mạch (mạch máu vận chuyển máu từ tim đi nuôi dưỡng các bộ phận của cơ thể), gây đau, rất nguy hiểm và không thể duy trì lâu (không quá 40 phút), chân tay rất dễ bị thiếu máu nguy hiểm. Nhiều trường hợp sau đó phải cắt cụt chân tay vì garô.
Vậy nếu đặt garô thì cần nới ra cách khoảng 10 phút hay ít hơn
- Không nên trích, rạch, crâm, chọc, hút nọc độc tại vùng vết cắn vì có thể gây hại thêm cho bệnh nhân (tổn thương thêm mạch máu, dây thần kinh, nhiễm trùng nặng thêm).
- Không nên chườm đá hay chườm lạnh.

Tóm lại, khi bị rắn cắn nếu đã nhận diện là do rắn độc, cần khẩn trương sơ cứu và tìm cách nhanh nhất chuyển bệnh nhân đến cơ sở y tế hoặc trung tâm chống độc.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ Phuot.vn, SK & ĐS, Giadinh.net

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống