Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Thursday, 21 March 2013

Liêng Rơm – thuộc xã Quảng Khê, cách trung tâm thị xã Gia Nghĩa (tỉnh Đắk Nông) gần 30 cây số - là một trong những thác nước đẹp, quanh năm tung bọt reo vang giữa đại ngàn Tây Nguyên.
Ngoài vẻ đẹp, thác Liêng Rơm còn ẩn chứa cả câu chuyện mang tính huyền thoại mà ai đến đây cũng đều muốn khám phá.

Thác Liêng Rơm còn được người Kinh đặt tên là thác "Rậm". Có lẽ cái tên thác xuất phát từ việc muốn vào thác phải băng qua rừng rậm. Để đến thác, chúng tôi phải nhờ một người dân địa phương dẫn đường.

< UBND Xã Quảng Khê.

Buổi trưa tháng 3 đầy nắng, chúng tôi băng qua những rẫy cà phê bạt ngàn rồi những trảng cỏ cháy khô. Đi chưa được bao lâu đã đụng những đoạn đường đầy ổ gà ổ voi.
Sau mấy tiếng đồng hồ đánh vật với con đường, chúng tôi tập kết bên cánh rừng già rậm rạp. Đâu đấy nghe văng vẳng tiếng thác đổ, nhưng phải tiếp tục luồn rừng trên hai con dốc đứng dưới tán cây bằng lăng và tre nứa tranh tối tranh sáng, mới đặt chân tới thác. Con đường đến thác quanh co, luồn rừng và nhiều ngã rẽ, đi vào nếu không làm dấu thì khó quay trở lại đúng đường.

Theo lối mòn xuống thác phải băng qua những vạt rừng cây cao, những vách đá dựng đứng chằng chịt rễ cây cổ thụ như những con trăn trườn mình bò ngổn ngang. Thỉnh thoảng phải men theo con đường khuyết sâu vào lòng núi giống hang, trông rất ngoạn mục.

Và bất ngờ dưới tán lá rừng luồng nước khổng lồ xuất hiện đổ ầm ầm xuống từ độ cao trên 50 mét. Đứng từ đây nhìn về hạ nguồn có thể thấy cả một vùng hẻm núi mênh mông xa tít, ghềnh đá nhấp nhô, những vực sâu gấp khúc đang ẩn hiện trong bụi nước như sương khói.

Dưới chân thác, ẩn hiện trong bụi nước là sắc cầu vồng lung linh, huyền ảo. Khung cảnh hoang dã, đẹp như trong truyện cổ tích. Thác được tạo thành bởi một phiến đá to, cao cả chục mét chặn ngang suối. Phiến đá như mọc ra từ sườn núi, nhô ra xa tạo một hàm ếch rộng lớn. Từ trên đỉnh phiến đá, nước đổ xuống ào ào. Người dân địa phương cho biết, vào mùa mưa, nước đổ đẹp, chẳng thua gì thác Prenn ở Đà Lạt.

Băng rừng, mồ hôi ai nấy nhễ nhại. Đến thác, có cảm giác mát lạnh khiến người ta sảng khoái. Xung quanh thác, cây cối xanh tốt. Mùa này nước không nhiều nên có thể tiếp cận được dưới chân thác, nước chỉ khoảng nửa gối. Nước từ đỉnh thác đổ xuống như một dải lụa. Đứng trong hàm ếch ngó ra, có cảm giác như đứng dưới hiên nhà ngắm mưa.

Người dân địa phương rất thích đến thác Liêng Rơm vào mùa khô để mò hến suối. Dưới đáy nước là cát pha ít sỏi nhuyễn và đất mùn từ lá cây khô, môi trường sống lý tưởng và nguồn thức ăn để hến sinh sôi, nẩy nở. Hôm chúng tôi đến, có nhiều thanh niên mang thức ăn đến đây pic-nic.

Trò chuyện với những người đến chơi thác, chúng tôi biết được câu chuyện truyền miệng của người Mạ: thác Liêng Rơm là dòng nước thiêng do một con cọp trấn giữ. Ngày xưa, ai được cọp cho một viên đá trắng như ngọc thì mới được phép mang nước về. Chỉ vào một cái hang ở phía bên phải con thác, một người nói: "Đó là cái hang của cọp ở.

Từ lâu rồi, người ta không còn thấy cọp nữa. Chắc có lẽ do già yếu và đã chết!". Nhờ vậy, dân làng mới được tự do lấy nước ở con thác này. Mang câu chuyện ra hỏi những người Mạ lớn tuổi trong Bon (tương đương bản, ấp), họ đều khẳng định đó là câu chuyện có thật. Nhưng từ lâu đời, người già trong Bon cũng chỉ biết đến do cha mẹ kể lại.

Câu chuyện nhuốm màu hoang đường nhưng thật thú vị. Có thể nói nhờ truyền thuyết đó người ta chẳng dám phá hoại thiên nhiên nơi đây và cũng không xâm phạm đến thác. Bây giờ, dù không còn cọp giữ nước thác nữa nhưng con thác vẫn còn nguyên vẹn. Những dịp lễ, người ta kéo nhau đến thác ăn uống, tắm thác rồi dọn dẹp sạch sẽ trước khi ra về.

Đến Đắk Nông, từ Liêng Rơm, du khách có thể đi nhiều thác khác trong tỉnh, khám phá những cung đường đèo dốc giữa rừng hay đến những thủy điện Đồng Nai 3-4-5 để khám phá vẻ đẹp của hồ trên núi cao. Cùng với hệ thống thác nước, Đắk Nông còn có nhiều hồ nước tự nhiên hoang sơ nằm giữa núi rừng kết hợp với các khu bảo tồn thiên nhiên như Nam Nung, Tà Đùng tạo thành những tuyến du lịch sinh thái liên hoàn đầy hấp dẫn. Ví như hồ nước Ea Snô có diện tích hơn 80ha, là một thắng cảnh thiên nhiên kì thú gắn liền với những truyền thuyết dân gian và tập tục của cư dân trong vùng.

Du khách có thể đi thuyền thưởng lãm hình ảnh những ngọn đồi xanh nhấp nhô bốn phía, hoặc xuôi xuống thác Đrây Sáp, hay ngược dòng lên buôn Choah thăm quê hương của tù trưởng Nơ Trang Gưh, buôn Bu Nơr quê hương của tù trưởng Nơ Trang Lơng. Hai vị tù trưởng này đã lãnh đạo đồng bào M’nông vùng lên khởi nghĩa, chống giặc Pháp, bảo vệ núi rừng Tây Nguyên. Thiên nhiên vùng này đủ để khách trải qua kỳ nghỉ thú vị 3-4 ngày.

Du lịch, GO! - Theo NGUYỄN ĐỨC (Cần Thơ Online), internet
Đến An Giang, một số khách tham quan, du khảo... còn hầu hết khách vì mục đích tín ngưỡng bởi từ xưa, người dân đã coi núi Sam và vùng Bảy Núi là vùng địa linh, đất Phật.

< Du khách tham quan hồ Thủy Liêm và chùa Phật Lớn - núi Cấm.

Tại núi Sam, lễ hội vía Bà hằng năm thường diễn ra từ ngày 22 đến 25-4 âm lịch nhưng những năm gần đây, từ sau Tết Nguyên đán kéo dài đến hết tháng 4 âm lịch, du khách đã bắt đầu đổ về núi Sam và núi Cấm khiến không khí phố núi ngày càng tưng bừng náo nhiệt.

Phố núi tưng bừng

Từ xa xưa, người dân địa phương đã coi núi Sam (Châu Đốc) và vùng Bảy Núi thuộc huyện Tri Tôn và Tịnh Biên - An Giang là một vùng địa linh, vùng đất Phật nên du khách đổ về “Thất Sơn mầu nhiệm” (1) để chiêm bái và vãn cảnh mỗi năm một nhiều.

< Khách hành hương viếng miếu Bà Chúa Xứ - núi Sam, Châu Đốc.

Ban tổ chức lễ hội Văn hóa quốc gia vía Bà Chúa Xứ cho biết mỗi năm thị xã Châu Đốc thu hút gần 2 triệu lượt người đến hành hương và du lịch, nhất là từ khi các loại hình du lịch sinh thái và du lịch nghỉ dưỡng phát triển, giúp ngành du lịch An Giang có nhiều ưu thế nổi bật, trong đó hấp dẫn nhất là núi Sam với nhiều hệ thống nhà hàng, khách sạn được đầu tư khá đồng bộ.

Thông thường sau khi viếng Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc, đa số du khách đều đổ về vùng Bảy Núi, lần lượt tham quan núi Cấm, núi Két, núi Cô Tô... là nơi thủy tú sơn kỳ, cảnh quan tươi đẹp, khí hậu trong lành và mát mẻ. Đặc biệt là núi Cấm, nơi Trịnh Hoài Đức đã có lần cảm khái Hang núi ngậm mây, suối cong nhã ngọc, rất xứng danh là vùng đất bửu ngọc như người đời thường gọi Tu phật Phú Yên, tu tiên Bảy Núi.

Không chỉ tham quan các quần thể du lịch, về Bảy Núi, khách thích tìm hiểu lịch sử còn có dịp ghé thăm hơn 50 ngôi chùa của người Khmer hoặc các chùa Phi Lai, Tam Bửu và nhà mồ Ba Chúc, nơi ghi dấu tội ác của bọn diệt chủng PônPôt. Ấn tượng nhất là đồi Tức Dụp. Kế đến là khu du lịch Xoài So ở núi Tô hoặc khu di tích cách mạng Ô Tà Sóc, khu căn cứ được coi là “Bản anh hùng ca vùng Bày Núi”.

< Khách hành hương đổ bộ lên núi Cấm vào những ngày tháng 3.

Với khách nước ngoài, không chỉ choáng ngợp trước phong cảnh kỳ vĩ của núi rừng, đôi khi chuyến đi cũng trở nên đặc biệt bởi tiếng xe ngựa, xe bò lốp cốp trên các đoạn đường đổ về Châu Lăng, Lương Phi, Ba Chúc. Nơi đây mọi người còn có dịp tham quan các mô hình nuôi hươu, nai, rắn; các khu vườn trồng trầm và tận mắt chứng kiến thanh niên người dân tộc hiền lành, chất phác chuyên sống bằng nghề trèo cây lấy nước thốt nốt, mang vị ngọt đến cho mọi người.

Ở Châu Đốc và vùng bán sơn địa Bảy Núi, không những yêu thích cuộc sống chân chất, bình dị của cư dân miền núi, nhiều người còn mê các món ngon vật lạ như khô bò, lạp xưởng bò, cháo bò, thịt bò xào lá vang, gà hấp lá trúc và bánh xèo núi Cấm ăn với 12 loại rau rừng độc đáo, hương vị nồng nàn khó quên.
Ngon nhất là trái cây và rau củ trồng trên núi Cấm, núi Dài như xoài, mít, bơ, chuối, đu đủ, sầu riêng… Chưa kể đây còn là xứ sở của nhiều đặc sản nổi tiếng như đường thốt nốt, tháng 3 mùa sầu đâu, Châu Đốc vương quốc mắm…

< Phố núi Châu Đốc trong mùa lễ hội.

Hiện chính quyền địa phương đang nỗ lực nâng cao chất lượng sinh hoạt hội hè, ẩm thực và vệ sinh môi trường đồng thời ra sức bảo tồn rừng để làm xanh hóa môi sinh. Năm 2013, ngành du lịch ước đoán lượng khách sẽ tăng lên đáng kể nên ban tổ chức lễ hội đang cố gắng nâng cấp và phát triển các khu vui chơi giải trí, nhà nghỉ, khách sạn, quán ăn nhằm giữ chân khách lâu ngày.

Tiềm năng không xa...

Nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tâm linh, không chỉ các ngày lễ, ngay cả ngày thường khách hành hương cũng chen nhau đến điện thờ để cầu tài cầu lộc giữa khói hương nghi ngút. Sau khi cúng Bà, đoàn người qua viếng Tây An cổ tự và lần lượt chiêm bái các di tích khác như chùa Hang, trại Ruộng, đình Thới Sơn… những vùng đất còn ẩn chứa nhiều huyền thoại.
Những ngày này, từ trên những đỉnh cao nhìn xuống chân núi, những dòng người nối đuôi nhau giống như một con rắn khổng lồ đang cuộn mình trườn lên cao.

< Đặc sản thốt nốt mùa lễ hội.

Từ khi lễ hội vía Bà Chúa Xứ được nâng lên thành lễ hội văn hóa cấp quốc gia, ban tổ chức lễ hội đã có nhiều nỗ lực trong việc nâng cao chất lượng văn hóa lễ hội.

Cái đẹp của Bảy Núi là cái đẹp mộc mạc chân quê. Mỗi ngọn núi, mỗi ngôi chùa, mỗi phum sóc đều còn mang dấu ấn của thời kỳ khai hoang nên rất dễ làm say đắm lòng người. Từ năm 2005, UBND thị xã Châu Đốc đã đầu tư cho các công trình giao thông, thương mại và quy hoạch các khu vui chơi giải trí, phấn đấu đưa Châu Đốc lên thành một đô thị du lịch nhưng vẫn giữ được nét đẹp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại và đến nay đã trở thành trung tâm thương mại - dịch vụ hấp dẫn của đồng bằng sông Cửu Long.

Hiện các tuyến đường tráng ximăng từ chân núi Cấm đến chùa Phật Lớn dành cho khách hành hương vừa leo núi vừa vãn cảnh đã khai thông. Nay mai, khi các hạng mục công trình được hoàn chỉnh, khu du lịch núi Cấm và các trung tâm du lịch ở An Giang sẽ giữ được nét đẹp hài hòa giữa cảnh quan thiên nhiên với cảnh quan nhân văn, giữa công trình kiến trúc với công trình thiên tạo như ao, hồ, suối, hang động để các khu du lịch ở các huyện miền núi An Giang thật sự trở thành khu du lịch sinh thái, văn hóa, giáo dục, lịch sử độc đáo nhất ở miền Tây.

(1) Tên cuốn sách “Thất sơn mầu nhiệm” của Dật Sĩ và Nguyễn Văn Hầu.

Du lịch, GO! - Theo Hoài Vũ (Tuổi Trẻ online)
Olivier Page là biên tập viên cho sách hướng dẫn du lịch Guide du Routard, đồng thời là nhà báo và nhà văn với địa chỉ chính ở Paris (Pháp), nhưng phần lớn thời gian rong ruổi trên mọi nẻo đường. Từ gần 30 năm nay, Việt Nam luôn có mặt trong danh sách những điểm đến yêu thích của Olivier Page.

< Olivier Page ở đền thờ công chúa Huyền Trân.

Olivier Page sinh năm 1956 ở vùng Bretagne, miền Tây nước Pháp, gần Saint Malo vốn nổi tiếng là thành phố của những nhà thám hiểm. Có lẽ cũng vì sinh ở vùng này mà niềm đam mê viễn du đã ngấm vào máu Olivier Page và ông biến nó thành nghề nghiệp chính của mình.

Cuốn sách của 20 năm

Olivier Page tới Việt Nam lần đầu tiên vào tháng 12-1983. Lần đó, ông chỉ quá cảnh Việt Nam để vào Campuchia làm phóng sự cho một tờ báo Pháp. Với ông, ba ngày ở TP.HCM năm đó đầy ắp những khám phá và bất ngờ.

Olivier Page nhớ lại: “Điều làm tôi ấn tượng nhất lúc đó là thành phố thật tĩnh lặng. Mọi thứ diễn ra thật chậm rãi. Rất hiếm thấy người nước ngoài trên phố, trừ một số người Nga, Cuba, Ba Lan hay Bulgaria. Hồi đó còn chưa có khách du lịch. Mọi người cứ hỏi có phải tôi là người Nga không và rất ngạc nhiên khi biết tôi là người Pháp. Tôi thấy rất cảm động vì lòng tốt của mọi người và mong muốn được trò chuyện giao tiếp với họ. Tình hình kinh tế lúc đó cũng rất khó khăn, nhưng mọi chuyện đã thay đổi từ khi có đổi mới”.

11 năm sau, khi đã đủ đầy trải nghiệm về Việt Nam, Olivier Page bắt tay vào biên soạn cuốn Guide du Routard đầu tiên về Việt Nam. Tại sao lại là năm 1994 chứ không sớm hơn hoặc muộn hơn? Olivier giải thích: “Năm đó, tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton quyết định bỏ cấm vận áp đặt với Việt Nam từ năm 1975. Năm 1994 là khởi đầu một giai đoạn lịch sử mới với Việt Nam. Khách du lịch tới Việt Nam ngày càng nhiều. Việt Nam đã mở cửa ra thế giới. Hạ tầng du lịch được cải thiện, từ hàng không, khách sạn, nhà hàng tới các hãng du lịch.

Cũng thời điểm đó, một số bộ phim như Đông Dương của đạo diễn Régis Wargnier, Điện Biên Phủ của Pierre Schoendoerffer hay Người tình của Jean-Jacques Annaud giúp công chúng Pháp biết thêm về Việt Nam và lịch sử đất nước này. Các phương tiện truyền thông thôi thúc người Pháp tới Việt Nam để được thấy tận mắt đất nước này. Vì người Pháp tới Việt Nam du lịch ngày càng nhiều nên Nhà xuất bản Hachette quyết định ấn hành một cuốn sách hướng dẫn du lịch về Việt Nam và đó là một quyết định đúng đắn”.

Gần 20 năm qua, năm nào cuốn Guide du Routard về Việt Nam cũng được tái bản với nhiều bổ sung, chỉnh sửa cho phù hợp tình hình thực tế, vì đất nước không ngừng thay đổi. Mỗi năm, Olivier Page cùng các biên tập viên khác lại tới Việt Nam để khảo sát thực địa và đưa vào sách những khám phá mới về mọi miền đất nước. So với phiên bản năm 1994, phiên bản 2013 dày gấp đôi và có thêm nhiều địa danh mới đáng để khám phá như vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng.

Olivier cùng các đồng nghiệp cũng rất chịu khó mày mò để giới thiệu những địa danh hay tuyến đường hấp dẫn mà ít được du khách nước ngoài biết tới như tour đi bộ ở vùng Pleiku và Kon Tum, lặn biển ở Cù Lao Chàm, tuyến đường từ Điện Biên Phủ tới Sa Pa đi qua Lai Châu, hay những tour đi bộ qua các làng dân tộc thiểu số ở vùng núi phía Bắc.

Bút ký những con đường cái quan

Sau 15 năm xuôi ngược mọi nẻo đường Việt Nam, Olivier Page quyết định xuất bản một cuốn bút ký về những chuyến đi của mình tới Việt Nam. Ông bỏ ra sáu tháng để biên tập lại các ghi chép của mình về các chuyến đi, nhất là từ năm 2000 trở về sau này. Cuốn Dragon de Cœur, voyage au Viet Nam sur la route Mandarine (tạm dịch: Rồng trong tim - Du lịch Việt Nam theo đường cái quan) ra đời năm 2009.

Về tựa đề của cuốn sách, Olivier giải thích: “Tôi dùng hình ảnh trái tim vì nếu không có thiện cảm với một đất nước thì không thể nào yêu mến đất nước đó được. Thiện cảm có thể biến thành tình cảm gắn bó, thậm chí là niềm say mê, nếu ta thấy gắn bó với những nơi chốn và con người”.

Trong cuốn bút ký này, Olivier Page kể lại những câu chuyện thật về những con người ông gặp trên đường từ Bắc vào Nam. Ông chọn hình thức bút ký chứ không phải tiểu thuyết vì theo ông, ở Việt Nam, thực tế cuộc sống đã chính là tiểu thuyết rồi. Và theo ông thì thực tế thậm chí có thể vượt xa trí tưởng tượng nếu ta chịu đi đó đây và biết quan sát. Khi đi khám phá Việt Nam, Olivier tình cờ gặp được những con người với những số phận thật kỳ lạ: kỹ sư lâm nghiệp trở thành nhà nhiếp ảnh, kỹ sư nông nghiệp làm nhà chiêm tinh, nhà thơ, võ sĩ mở khách sạn cho chó mèo…

Câu chuyện cảm động nhất có tên là “Bí mật bướm đen”. “Đó là chuyện về một cán bộ ở Hà Nội tìm được hài cốt anh trai là chiến sĩ hi sinh trên chiến trường tại Long An năm 1974. Khi đi ngược ra Bắc, một con bướm đen đã lọt vào trong xe ông và đậu lên quách đựng hài cốt. Con bướm cứ ở đó mãi không bay đi. Có lẽ con bướm nhỏ ấy là linh hồn của người chiến sĩ. Khi quách đựng thi hài được chôn xuống đất ở nghĩa trang thì con bướm cũng khép cánh lại mà chết”.

Olivier Page cũng rất nhớ cuộc gặp gỡ với một vị anh hùng, thương binh, cha của một người bạn ông ở Hà Nội. Olivier cùng ông ấy quay lại chiến trường nơi ông từng chiến đấu khi còn trẻ, ở gần vĩ tuyến 17. Từ năm 1970 tới lúc đó, ông đại tá chưa có dịp quay lại nơi này. Olivier nhớ lại: “Trong những ngày đó, ông đã kể cho tôi nghe về đời mình, về những trận chiến đấu, và tôi thấy ông thật can đảm. Ông đã hi sinh phần lớn cuộc đời mình cho Tổ quốc. Tôi rất gắn bó với ông, dù chúng tôi rất khác nhau. Mỗi lần gặp ông, tôi đều thấy rưng rưng xúc động. Ông đã kể cho tôi nghe về những mất mát hi sinh của người lính một cách hết sức chân thực”.

Bài học cuộc đời

< Nhà báo Olivier Page gặp gỡ nhà văn hóa Hữu Ngọc.

Gần 20 năm rong ruổi trên khắp mọi nẻo đường Việt Nam, Olivier Page đã nhiều lần được đón tết ở Hà Nội và TP.HCM. Điều ông thích nhất là không khí náo nức, hứng khởi, say sưa rất con người của ngày tết. Ông nói: “Tết như khoảng lặng bất chợt trong cuộc sống náo nhiệt. Dường như trong những ngày này, người Việt Nam chỉ muốn gặp gỡ gia đình, bạn bè, quên đi những lo toan trong cuộc sống. Tết là cách để tạm dừng dòng thời gian.

Tôi cũng rất thích khía cạnh tâm linh và đạo đức của ngày tết: Tết đến, người ta tha thứ cho nhau, thanh toán nợ nần, hòa giải với nhau nếu có thể, gặp gỡ, ăn uống, hội hè. Không khí an hòa vui vẻ xua tan mọi lo âu thường ngày. Người ta có cảm giác là mọi thứ đều có thể làm được, rằng có trời phật lo cho số phận con người, rằng trời hạ xuống đất để nói rằng bác ái là một trong những giá trị lớn nhất trên đời.

Tôi thích những con phố trang hoàng đầy hoa, tôi thích những ngôi chùa phủ đầy hoa, những ngôi nhà dọn dẹp sạch sẽ, trang hoàng đẹp đẽ đón tết, bàn thờ tổ tiên đầy đồ thờ cúng, mùi hương trầm trong các ngôi đền, pháo hoa bên hồ Hoàn Kiếm, những đốm lửa nhỏ đốt trên vỉa hè giữa đêm để xua đuổi tà ma. Tôi thích sự hân hoan của người Việt trong dịp tết”.

Olivier Page nói ông sinh ra là người Pháp, nhưng ông muốn mình là công dân thế giới, quan tâm đến những nền văn hóa khác. “Tôi không trở thành người Việt Nam, nhưng tôi có thể cảm nhận và hiểu được tâm hồn Việt Nam” - ông chia sẻ. Theo Olivier, những chuyến đi tới Việt Nam đã mang lại cho ông rất nhiều điều. Người Việt đã giúp ông hiểu được những giá trị tinh thần vô giá: sự gắn bó với truyền thống, ý nghĩa của gia đình, sự tôn trọng người cao tuổi, lòng yêu trẻ thơ, tính khiêm nhường.

Ông kết luận: “Tôi nghĩ là thật hay nếu ta làm được những điều lớn lao mà vẫn khiêm nhường. Đó chính là điều tôi thích ở người Việt, dù họ giàu hay nghèo, là công nhân, nông dân, thương gia, bác sĩ, kỹ sư, nhà thơ, nghệ sĩ, chiến sĩ hay anh hùng. Đó là bài học cuộc đời tuyệt vời”.

Du lịch, GO! - Theo Thanh Phương (Tuổi Trẻ Chủ Nhật), internet

Wednesday, 20 March 2013

Thuộc huyện Khánh Vĩnh, cách Nha Trang khoảng 45km, trong khu vực Buôn Y Bay, thác Yang Bay theo cách gọi của người dân tộc Raglay có nghĩa là Thác Trời. Từ Nha Trang, theo đường 23/10, đến ngã ba Cầu Lùng Diên Khánh rẽ đường đi Đà Lạt, đi khoảng 5km thấy bảng chỉ dẫn đường vào thác Yang Bay.

Điểm tham quan đầu tiên sẽ là Mộc Thần hay còn gọi là cây Tình yêu. Đây là một cây cổ thụ độc đáo mà bà con người Raglay kính cẩn gọi là Mộc Thần. Với chiều cao khoảng hơn 25m, tán xòe tỏa bóng mát rộng, gốc cây khổng lồ này được tạo thành bởi hai cây si và da ghép lại phải đến 20 người ôm mới hết.

< Chiều cao trên 25m, tán có đường kính hơn 20 m. Gốc cây khổng lồ hơn 20 người ôm. Bà con Raglai nơi đây kính cẩn gọi đây là Mộc Thần.

Không ai biết chính xác Mộc Thần bao nhiêu tuổi. Chuyện kể rằng, Mộc thần rất linh thiêng, bà con người Raglay hằng ngày trước khi vào rừng đều dừng lại cầu khấn xin cho đi rừng bình yên.

Từ đây khách bắt đầu cuộc hành trình khám phá Yang Bay. Điểm đến kế tiếp là thác Yang Bay nằm ở độ cao 100m so với mực nước biển, là thượng nguồn của một nhánh sông xuất phát từ dãy Trường Sơn đổ về Sông Cái Nha Trang.

Trên đường đi, dòng nước len lỏi qua các cánh rừng, vách đá… tạo thành nhiều dốc thác, các hồ lớn, nhỏ dưới chân thác. Hồ cuối cùng là hồ nước cạn dưới chân một thác có độ cao khoảng 10m.

Hồ nước trong vắt, nhìn thấy đáy. Một điều khá thú vị là chỉ cần đứng xuống nước một lát là cả đàn cá bu đến rỉa chân. Cảm giác thích thú càng tăng khi khách lội ra xa hơn và cá thi nhau bu đến.

Bàn tay người tô điểm tạo nên cảnh quan đẹp khu vực xung quanh thác, thêm khí hậu trong lành, mát mẻ nên đây là nơi để khách tắm suối hay thư giãn. Khách có thể nằm phơi nắng trên phiến đá giữa hồ, hay có thể đi qua phía bên kia là bãi cát, có thể nằm trên ghế bố rồi sau đó nhảy ùm xuống nước, cảm giác giống như đang tắm sông.

Tiếng nước đổ ầm ầm phía trên cao thu hút bước chân khám phá của khách đi tìm những góc ảnh đẹp. Đường lên rất dễ đi. Lên đến tận cùng sẽ thấy dòng nước chảy qua các khe đá rất hiền hòa trên một khu vực bằng phẳng.

Từ bên trên nhìn xuống, nước đổ tung bụi nước trắng xóa ở những gộp đá có độ cao thấp khác nhau; qua khỏi đoạn ầm ào thác đổ, dòng nước xuống bên dưới như một dòng sông rộng và phẳng lặng. Đây là điểm khác biệt của Thác Yang Bay so với các thác khác ở Khánh Hòa.

Điều thú vị vẫn còn nằm phía trước. Khách lên xe điện và tiếp tục cuộc hành trình khám phá công viên Yang Bay có diện tích 596ha.

< Đường lên thác Ho Cho.

Xe đi qua những khu vườn hoa đào, những bãi cỏ xanh mịn, khu vui chơi… và cuối cùng dừng lại ở vườn hoa lan. Từ đây khách đi bộ theo đường mòn lên một thác khác có tên gọi là thác Ho Cho, càng đi lên không khí càng dịu mát.

Qua cầu treo bắc ngang một dòng suối là đến khu vực tắm khoáng nóng. Đây là nguồn nước ngầm từ trong đá, dưới lòng đất chảy ra. Khu vực này gọi là Hồ Tiên.

Có ba hồ với nhiệt độ khác nhau. Thò chân xuống hồ, người không chịu được nóng sẽ rút chân lên ngay. Tuy nhiên, cũng có nhiều người thả mình xuống hồ này để khi lên ai nấy đỏ au như con tôm luộc!

< Hồ 30 độ C.

Hồ được nhiều khách chọn lựa là hồ 30°C. Với nhiệt độ vừa phải này, đây là nơi ngâm mình tuyệt vời, tái tạo năng lượng, phục hồi sức khỏe… Có người chọn cách ngâm mình từ hồ nóng nhất, rồi chuyển sang hồ ít nóng hơn để thử cảm giác và sức chịu đựng!

Rời thác Ho Cho, khách tiếp tục cuộc vui với cưỡi đà điểu, thử thời vận với trò chơi đua heo, câu gấu, xem đá gà… Hay nhàn nhã nhất là dạo vườn lan tìm góc ảnh đẹp… Bữa cơm trưa với những món được chế biến từ “cây nhà lá vườn” như: thịt cá sấu, đà điểu nướng, canh chua, chả ram, sườn ram… Cuộc hành trình tắm suối (lạnh và nóng), đi bộ, leo dốc… khách sẽ cảm thấy đói bụng và cam đoan rất ngon miệng!

Sau bữa cơm trưa khách sẽ được thư giãn bằng bữa tiệc âm nhạc với các nhạc cụ đặc biệt của dân tộc Raglay như sáo Tacung, Đinh tuh, Talepiloi, đàn đá, đàn T’rưng… Câu cá sấu là tiết mục vui chơi cuối cùng. Có cả con cá sấu đã bị khóa chân và rọ mõm cho khách chụp hình thân thiện…

Thác Yang Bay là một thác đẹp lại thêm chương trình du lịch phong phú nên thu hút nhiều du khách, nhất là khách nước ngoài. Đến Thác Yang Bay, ngoài mục đích vui chơi hay nghỉ ngơi thư giãn, khách còn có cơ hội khám phá núi rừng hoang sơ, tìm hiểu về văn hóa của dân tộc Raglay, tham gia các trò chơi dân gian… chỉ trong một ngày lại không xa thành phố Nha Trang là mấy.

Du lịch, GO! - Theo Bình An (YuMe), internet
Hành trình đi dọc Kà Lừm, không thể không nhắc tới Ka Lô - một bản mới được dựng lên với nét đặc sắc không lẫn vào đâu được: Hút thuốc lào.

Bin Laden... nghiện thuốc lào

Nếu không có dòng chữ Bản Ka Lô - huyện Kà Lừm tỉnh Sê Kông (Lào) ngay trên cổng, chắc chúng tôi đã đặt ngay cho bản dân tộc Lào giữa mịt mù Trường Sơn này là “bản thuốc lào” bởi dường như già trẻ gái trai ở đây, ai cũng cầm ống điếu rít thiện nghệ. Hút thuốc lào và đẻ nhiều con, đó là 2 điều khiến tôi nhớ mãi về Ka Lô.

Nếu bản mới Arooc chỉ 2 người biết tiếng Việt trọ trẹ thì chỉ với 62 hộ, Ka Lô đã có đến 8 người nói tiếng Việt rất sõi. Trong đó phải kể đến trưởng thôn San Chăn. San Chăn vừa rít thuốc lào, vừa xoè tay nhẩm đếm: 62 hộ, nhà nào cũng có trên 3 đứa con, nhiều nhất có 12 đứa. Những cặp vợ chồng trẻ có 3 con là bởi chưa kịp sinh tiếp. Cứ đà này, lại phải đốt rừng, lập thêm bản mới mất thôi.

San Chăn năm nay 45 tuổi, 1 vợ 5 con và đang có kế hoạch sinh thêm em bé vào giữa năm nay. Tuy nhiên, kỷ lục sinh nhiều con nhất bản Ka Lô phải kể đến một người có cái tên rất đặc biệt: Bin Laden. Lúc chúng tôi vượt qua con dốc vào bản, người đàn ông đen nhẻm, cường tráng này ngồi vắt vẻo bên hiên nhà rít thuốc lào như đốt rạ.

Bin Laden cũng nói tiếng Việt rất sõi, trả lời rành rọt tiếng nào ra tiếng đó. Nói chuyện chưa được 2 câu, anh lại đưa ống điếu lên rít. “Mình cũng không biết vì sao bố mẹ đặt cái tên này. Gần đây có điện câu lên từ ngoài suối, xem ti vi mới biết ở nước ngoài cũng có cái ông tên Bin Laden. Nói chung tên mình là tên mình, còn ông ta kệ ông ta”.

Lúc đầu nghe anh xưng tên, tôi tưởng đùa, nhưng sau đó, chính trưởng thôn San Chăn xác nhận. “Cũng chẳng hiểu vì sao, cả thôn chỉ có cái tên thằng này là lạc loài” - trưởng thôn San Chăn nói. Bin Laden cao lớn vạm vỡ, không râu ria nhiều như trùm khủng bố quốc tế Osama Bin Laden, ngược lại thường xuyên cười rất nhiều.

Ngoài cái tên giống nhau, Bin Laden của bản Ka Lô còn giống trùm khủng bố một điểm nữa là … đông con. Tính tổng cộng, anh giờ đây có tới 8 đứa con trong khi tuổi đời chỉ suýt soát 40. Triết lý của Bin Laden về việc sinh nở: Trời sinh voi sinh cỏ, nó chui ra được thì đương nhiên phải sống được, mình nghĩ nhiều làm gì cho đau đầu hả cán bộ?

Con nhiều đến nỗi khi tôi hỏi tên từng đứa, anh chỉ nhớ được vài đứa đầu, mấy đứa sau thì “phải chờ vợ đi rẫy về mới biết được cán bộ ơi”. Vợ Bin Laden mới sinh đứa con út năm ngoái, đi rẫy đã 2 ngày vẫn chưa thấy về. “Xa lắm, đem theo cơm nắm, muối, ngủ luôn trên rẫy, mấy ngày mới về” - San Chăn giải thích.

Đàn bà không thuốc lào, chẳng ai lấy !

Ngoài vợ chồng Bin Laden thì vợ chồng Coong Hoài cũng đang mon men với tới hộ đẻ con nhiều nhất bản. Hoài đứng bên bờ suối gọi mấy đứa nhỏ về ăn cơm trưa. Có 3 đứa con trai. Còn cô gái đứng cạnh mẹ là con đầu, tên là - Mai. Hoài năm nay mới 17 tuổi, da trắng căng tròn, vừa gọi con vừa cầm ống điếu rít liên tục.

Hoài kể: “Em lấy chồng trong bản năm 13 tuổi, cưới xong thì đẻ, mỗi năm mỗi đứa. Bây giờ tổng cộng có 1 trai 3 gái. Chờ mấy đứa sau này lớn chút, lại đẻ tiếp”. Vốn tiếng Việt của Hoài rất ít, chủ yếu học mót lại từ trưởng thôn San Chăn và mấy người khác.

Hoài kể rằng em biết hút thuốc lào từ năm lên 10, mỗi lần thấy mẹ hút em cũng tập hút theo. Mẹ Hoài năm nay mới xấp xỉ 40 nhưng do ngày ngày lên rừng cuốc rẫy nên trông già hơn tuổi rất nhiều. Dù còn trẻ, nhưng mẹ Hoài cũng đã có gần 10 cháu nội ngoại. “Ở bản này không biết hút thuốc lào thì coi như chưa phải người của bản. Mà con trai nó cũng không thèm hỏi làm vợ đâu” - Hoài cho biết.

Cái ống điếu mà Hoài cặp kè bên người được làm rất công phu. “Đây là cái điếu em mới làm, còn cái điếu mẹ làm cho năm lên 10 đã bị chồng nó đập vỡ mất rồi”. Chả là con gái lên 10 tuổi, bắt đầu tập tành hút thuốc lào, mẹ Hoài làm ngay cho con gái một ống điếu để hút.

Vật bất ly thân đó theo Hoài về tận nhà chồng trong bản, dùng được 6 năm thì trong một lần say rượu, chồng Hoài đã đập tan tành cái ống điếu. Vì hành động đó, Hoài bỏ về nhà mẹ đẻ cả tuần, trưởng thôn San Chăn phải họp lại, bắt chồng Hoài xin lỗi và làm cái ống điếu khác đẹp hơn cho vợ. “Sau lần đó em ngủ riêng cả tháng trời. Đến khi chồng chịu không nổi, phải cầu cứu cả thôn em mới tha cho. Cái ống điếu là của mẹ làm” - Hoài cười tủm tỉm.

Ống điếu cày của anh Bin Laden tính đến nay đã dùng được 10 năm, nước lên bóng chỗ tay cầm loang loáng, vàng ươm như vẫn gỗ Pơmu. Bin kể đàn ông ở Ka Lô cần phải biết hút thuốc lào, như anh ta, mỗi ngày đốt ít nhất một cuộn to.

Thuốc trong nỏ ống điếu của Bin không bao giờ tắt lửa, để khi cần, anh có thể rít được ngay mà không cần châm đóm như phong cách hút của người Việt. Trong bản Ka Lô chỉ có một chàng trai đã 26 tuổi mà vẫn chỉ có 1 đứa con, đó là San Lan - con trai của bản trưởng San Chăn.

San Lan may mắn hơn những chàng trai trong bản, khi đã được một lần về thị trấn A Lưới (TT - Huế), chứng kiến phố xá, xe cộ và cuộc sống sung túc của người Việt. San Lan mãi đến năm 20 tuổi mới biết hút thuốc lào cũng bởi không thể nào tìm được vợ nên đành tập hút.

Cưới được vợ, Lan dần dần bỏ thuốc. Anh cùng vợ dẫn chúng tôi đi thăm các nhà trong bản, không ngại ngần ôm vợ, cười vui: “Ở đây muốn yêu nhau phải bắt đầu từ điếu thuốc lào, không thì ế vợ mất. Nhưng mình lại không thích hút thuốc, có lẽ vợ giành mất phần rồi”.

Vợ Lan là Hiên, mới 16 tuổi nhưng cũng như đàn chị Coong Hoài, Hiên biết hút thuốc từ năm lên 10. Lấy chồng không thích thuốc lào, Hiên chẳng ngại ngần hút luôn cho phần của chồng. “Mình không thích hút nên không làm điếu, nhưng có dịp quây quần, cũng luôn rít vài hơi cho vui. Cũng nhờ thuốc lào mà mình có vợ đấy” - San Lan vui vẻ.

Một điều kỳ lạ là phần lớn đàn ông phụ nữ ở Ka Lô biết hút thuốc lào từ nhỏ và ống điếu luôn cặp kè bên người nhưng tuyệt không ai bị bệnh gì liên quan đến thuốc. Trưởng bản San Chăn đùa: Nước suối ở đây mát lạnh và trong veo, uống vào hết bệnh tật, có con ma bệnh nào dám bắt mình được nữa!

Ka Lô cũng là bản mới, vừa được 2 đồn biên phòng Tà Vàng và A Đớt dựng nhà cách đây 2 năm. Bản nằm trên đồi cao, bên cạnh dòng sông Troong chảy ngược. Bản quanh năm chìm trong sương mù, nhưng nhà nào cũng được BĐBP đánh số cẩn thận. Dù vậy, đời sống kinh tế ở đây cũng như nhiều bản khác dọc vùng biên đang gặp rất nhiều khó khăn.

Trưởng bản San Chăn ngậm ngùi: “Cực nhất là mùa lũ về dâng đầy sông Troong, bản bị cô lập có khi cả nửa tháng, lương thực cạn kiệt, may lúc nào các anh biên phòng ở Tà Vàng và A Đớt cũng quan tâm ghé thăm, nếu không dân bản lại dời vào rừng thẳm lâu rồi”.

Rừng thẳm mà San Chăn nói cách bản 30km đường chim bay, và tất nhiên không có lối mòn đi vào, hoàn toàn mất hút giữa đại ngàn Tây Trường Sơn. Bản mới, dẫu quanh năm mây mù bao phủ tứ bề, nhưng thỉnh thoảng vẫn có người qua lại.

Du lịch, GO! - Ký sự của Nam Cường (báo Tiền Phong), internet
Làng vạn chài Vung Viêng ở Bái Tử Long, một làng nằm trong hàng ngàn hòn đảo của Vịnh Hạ Long thơ mộng. Đôi, ba lần đi qua, tự nhiên tôi cứ nghĩ cái tên Vung Viêng (tên cổ là Vung Vênh) phải là “Chông Chênh” mới đúng.
“Cao nhất là núi Vung Viêng
Thấp nhất là biển, cao hơn là trời”…

Nghe cái tên của làng vạn chài Vung Viêng ở Bái Tử Long (Quảng Ninh), một làng nằm trong hàng ngàn hòn đảo của Vịnh Hạ Long thơ mộng, đôi ba lần đi qua tự nhiên tôi cứ nghĩ cái tên Vung Viêng (tên cổ là Vung Vênh) phải là “Chông Chênh” mới đúng. Bởi lẽ cái làng nổi với hơn năm chục nóc nhà đã bao đời nay vẫn chông chênh tựa lưng vào vách núi chống lại thiên tai, gió bão của trời, sóng nước của biển khơi để tồn tại, hình thành và phát triển.

Chông chênh làng Vung Viêng

Làng có từ lâu rồi, lâu bao nhiêu chẳng ai rõ. Ngày xưa chắc cũng có bãi đất, bãi cát, vì mỗi khi thủy triều rút dưới đáy vịnh vẫn còn vài dấu tích của móng nhà, công trình được xây bằng đá. Và người dân của làng vẫn vớt được nhiều đồ gốm sành nâu thô mộc, cùng những nét vạch thẳng từ trên xuống trông như gốm Thổ Hà. Đồ gốm này có thể do dân địa phương tự sản xuất, và cũng có thể do các thương lái vận chuyển từ đất liền ra bán cho các làng, các thuyền, hoặc mang đi đâu xa hơn nữa. Bởi lẽ từ Vung Viêng đi ra thương cảng Vân Đồn chẳng bao xa, chỉ đôi ba tiếng đi thuyền là tới. Thôi thì nhờ các nhà nghiên cứu lịch sử vậy…

Tên cũ của khu gọi là khu Cặp Dè. Với những địa danh như Cống Vung Viêng, Cống Đỏ, Cống Đầm. Làng chài Vung Viêng là hệ thống làng nổi trên biển. Cuộc sống sinh hoạt của cả làng chỉ trên bè. Trước kia các gia đình sống trên thuyền, họ tập trung vào cái vịnh nhỏ để chống gió bão. Lâu dần thành làng, qua thời gian họ dựng những ngôi nhà tạm bằng gỗ, tre, lá. Rồi bè mái lá, vách gỗ, thay bằng bè mái bằng, mái úp. Hiện đại bây giờ thì lợp mái tôn, mái lá bộc lưới cũ lên chống gió.

Các bè được đặt lên những thanh gỗ dài từ 5 đến 7m. Gỗ làm công trình có gỗ táu là tốt nhất. Các cây gỗ được kết cấu bằng bu long sắt. Toàn bộ sức nặng được đặt lên hệ thống phao nổi bằng thùng phuy cũ, xốp được bọc bằng những tấm bạt chống nước. Dân gọi đó là móng nhà.

Nhìn những khu lán bè màu sắc sặc sỡ, nâu, đỏ, vàng, xanh. Tựa lưng vào vách núi đen thẫm, mốc thếch chằng chịt những vết nứt xẻ ngang, xẻ dọc do kiến tạo địa chất được in bóng xuống biển xanh trông như những bức tranh ấn tượng thật đẹp.

Cuộc sống của làng chài Vung Viêng bao đời nay sống với biển và thu lợi từ biển. Làng không có những đội tàu to để đi đánh bắt xa bờ. Thuyền thì nhỏ, tài nguyên biển càng ngày càng cạn kiệt bởi cánh đánh bắt, môi trường biển bị hủy hoại, rồi còn thiên tai, gió bão. Cá to, tôm lớn họa hoằn lắm mới được vài con. Vài chiếc thuyền te lưới xòe ra như càng cua chỉ loanh quanh trên vịnh hớt cá nổi như cá mòi, cá đối, cá sơn và cá ót… Dưới chân những khe núi, vài chiếc mủng bám theo khe, hốc đá để bắt con hà, con cua và cá tôm nhỏ. Cuộc sống của dân làng còn nghèo lắm, cư dân của làng ngày càng đông, nguồn lợi từ biển càng ngày càng cạn kiệt, xăng dầu, nguyên vật liệt càng ngày càng đắt đỏ.

Trước những khó khăn như vậy các cán bộ tỉnh, xã cùng mọi người luôn tìm các biện pháp để cải tạo ngư trường cũng như cách để phát triển cho làng xã mình. Và hợp tác xã Vung Viêng được thành lập. Anh Vũ Văn Hùng người làm trưởng thôn đã 12 năm nay. Cũng đã ngần đấy năm chứng kiến thăng trầm của gia đình, làng xóm của mình, tâm sự với tôi: “Anh vẫn chỉ đau đáu một nỗi niềm làm sao dân bớt nghèo, thôn xóm an ninh tốt, không đánh bắt cá bằng mìn để bảo vệ tài nguyên. Và quan trọng nhất là chuyện vui chơi, học tập cho các cháu, tương lai của làng”. Anh cũng như mọi người làng Vung Viêng hiểu rằng quê hương mình vẫn còn đó tiềm năng. Bởi lẽ một phần của di sản văn hóa thế giới tại Việt Nam – Vịnh Hạ Long.
Tiềm năng của làng Vung Viêng

Vịnh Hạ Long đã và đang là nơi thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Làng Vung Viêng của Bái Tử Long cũng nằm trong hệ thống đó. Nó nằm chếch phía đông – bắc của Việt Nam gần sát với các mỏ than Cửa Ông – Hòn Gai -  Cẩm Phả và Thương cảng Vân Đồn xưa, đi ngược lên nữa là cửa khẩu Móng Cái, bãi biển Trà Cổ. Nơi đây là vùng kinh tế lớn của đất nước trong tương lai. Và cũng chính nơi đây vẫn còn ẩn giấu sự hoang sơ tiềm ẩn của thiên nhiên như rừng, hang động, bãi tắm cùng những vịnh nhỏ kín gió rất thuận tiện cho việc nuôi cấy ngọc trai và nuôi trồng thủy sản.

Thuyền đưa tôi ra đảo là thuyền buồm gõ đóng theo lối cổ truyền của Hạ Long. Chiếc thuyền của hợp tác xã Vạn Chài Vung Viêng được đóng để phục vụ khách du lịch dạo chơi trong vịnh. Với hai buồm chừng trăm m2 khi đi chơi chủ yếu chạy bằng gió. Từ bến Cọc Năm bên Hòn Gai ra đảo chừng một tiếng đồng hồ. Nhìn những dãy núi đá vôi đủ các loại hình thù trải dài hết tầm mắt. Làng Vung Viêng cũng nằm trong rặng núi như vậy, gồm có núi Vung Viêng (cao nhất Vịnh Hạ Long), núi Vụng Hà rồi Hang Cao…

Làng rất bình dị, thấp thoáng vài lán bè tựa lưng vào núi những chiếc bè loong lai với các phao nổi tròn như quả bóng xếp hàng thẳng tắp, đó là các bè nuôi cấy ngọc trai biển. Càng vào làng không gian càng mở, không ai biết mình sẽ đi đâu giữa cái trùng trùng điệp điệp của núi, của biển, của mây trời. Thỉnh thoảng vài con chim như: cò đen, cò lửa, quạ rồi sáo đá bay ra quàng quạc vài tiếng rồi lại mất hút vào núi. Trung tâm của làng là ngôi nhà bè to và đẹp nhất, đó là nhà cộng đồng.

Bên cạnh đó, cửa hàng bán đồ lưu niệm nhỏ và một lớp học cho các cháu. Ngồi trên bè có thể quan sát gần hết các hộ của làng. Phía trước là cổng làng (gọi là Hang Cao) cái hang xuyên thủng qua núi nóc là đá, dưới là biển. Các lán nuôi cá bè nằm dọc theo các vách núi. Các bè cá nằm ngay dưới gầm sàn dưới sân. Những con cá giò, cá song, cá vược được nuôi khá to để phục vụ cho hệ thống nhà hàng, khách sạn hoặc xuất khẩu, cũng có bè nuôi cá cảnh phục vụ thú chơi như cá tai voi, cá ông lão, cá mó rất đẹp.

Từng Vung Viêng, khách du lịch có thể đi thăm đảo Mặt Quỷ, khu Bảy Giếng, đi đánh bắt cá ở Vũng Hà, thăm rừng nguyên sinh ở đảo Trà Bàn, Vân Đồn… rồi hệ thống các bãi tắm nhỏ nằm dưới chân núi như ở Ngọc Vừng hay đảo Vạn Giò. Những bãi này còn hoang sơ, rất phù hợp cho các nhóm du lịch nhỏ. Rồi còn các hang động. Cũng từ Vung Viêng, mất đôi ba giờ trên tàu là đến đảo Quan Lạn, nơi có ngôi đình làng nổi tiếng về kiến trúc. Tại đây, nhiều dấu tích khảo cổ được tìm thấy chứng t tỏ một thời vàng son của thương cảng Vân Đồn.

Công việc mới cùng thách thức mới

Nhìn ra được tiềm năng của một vùng biển, với cảnh sắc thiên nhiên kỳ thú. Cũng những nét đặc trưng văn hóa ngư dân đa dạng và có bề dày lịch sử. Các công ty du lịch tìm đến làng. Họ đến để hợp tác, để cùng nhau phát triển. Cả làng cũng dang tay chào đón. Bởi họ hiểu thời cơ để phát triển kinh tế, để xóa dần đói nghèo đã đến. Nhưng để làm được họ sẽ phải học từ đầu. Từ khi Hạ Long lên thành phố, xã Vung Viêng giờ đây thuộc phường Hùng Thắng. Anh Hùng, vừa là trưởng thôn, vừa tham gia tổ bảo vệ trật tự, vừa phải lo công việc giữ gìn vệ sinh môi trường của xóm. Trong chương trình "Vì một Hạ Long xanh” được tài trợ bởi các công ty du lịch như Tropical Sails, Indochina Junk và Foot print với dự án xử lý rác thải ở Vung Viêng.

Ngoài thời gian làm việc, cả làng lại tự làm sạch nhà của mình, khu quang bè cá và bất cứ ai đi trên biển, nhìn thấy rác là nhặt. Cụ Lãng đã gần 80 tuổi, một mình một thuyền nhỏ ngày rong ruổi trong Vung Viêng nhặt rác. Các loại rác như ni lon, vụn của phao xốp, vỏ chai, cụ nhặt để riêng từng khu. Xác cá chết, rau cỏ thừa, rác hữu cơ được đốt lên cho vào các hốc đá với đất để trồng rau, dưa, bí. Hơn ba chục cái đò do thanh niên mặc quần áo đồng phục chèo đưa khách từ tàu lớn đi chơi trong làng.

Cửa hàng lưu niệm gần nhà cộng đồng bán đồ lưu niệm, tranh nghệ thuật cho khách than quan. Và sắp tới là vé tham quan làng tất cả đều được trích ra một phần để đóng góp xây dựng, bảo vệ an ninh, bảo vệ môi trường và nâng cấp cơ sở vật chất của làng. Tất cả hướng đến mục tiêu có thể đón khách ở lại ngay trong làng để được tham gia các sinh hoạt của một làng chài Hạ Long. Để làm được như vậy dân làng rất cần sự quan tâm của thành phố cũng như sự chia sẻ một phần quyền lợi của các công ty du lịch.

Một ngày mới bắt đầu, vài lán bè khói bốc lên từ bếp quyện vào núi đá như mây mù. Cả làng bắt tay vào công việc thường ngày. Trên những chiếc đò nhỏ học sinh đến lớp. Tiếng chào thầy, chào cô cùng những tiếng cười trong trẻo âm vang phá vỡ sự yên tĩnh trên vịnh. Ngồi trên nhà cộng đồng nhìn ra xa, những hạt mưa nhỏ rơi xuống mặt biển tạo ra hàng triệu vòng tròn nhỏ loang ra, lăn tăn như hoa nở.

Tôi cũng mong hoa nở, ấm no, hạnh phúc cho cái làng Vung Viêng bé nhỏ này. Bởi lẽ đã bao năm chông chênh trước thiên nhiên, sóng biển, giờ đây với công việc mới hy vọng sự hợp tác của làng với các công ty du lịch, với sự giúp đỡ của các cấp, các ngành sẽ phát triển để vịnh Hạ Long mãi là điểm đến hấp dẫn cho tất cả mọi người.

Tới thăm làng chài biển Vung Viêng

Du lịch, GO! - Theo Trần Đỗ Nghĩa (báo An Ninh Thủ Đô), internet
Long An xưa nay gần như chỉ được coi là nơi “quá cảnh” cho du khách thập phương đến ngao du miền Tây nam bộ.

May mắn thay, từ khi bộ phim Cánh đồng bất tận được công chiếu, Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và Phát triển Dược liệu Đồng Tháp Mười ở Long An trở thành một địa điểm tham quan nghỉ dưỡng nổi tiếng. Bởi trung tâm này là nơi quay bộ phim trên.

Và nhờ đó, ngày càng nhiều phượt thủ rủ nhau tìm về trung tâm nghiên cứu này để khám phá cánh đồng bất tận.

< Rất nhiều người chọn những quán nước võng như thế này làm nơi dừng chân nghỉ ngơi trên đường đi miền Tây. Nước dừa tươi cứ như một thứ nước thần kỳ có thể xua đi mọi mệt mỏi.

Từ TP.HCM, tôi bắt đầu hành trình tìm về "cánh đồng bất tận". Đi theo tỉnh lộ 10, qua khỏi Cầu Xáng (xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh) là đến địa phận tỉnh Long An.

Chạy xe dưới cái nắng chói chang dọc đường khói bụi, tôi đành phải ghé vào một quán "võng" ven đường để nghỉ chân dù lòng háo hức được sớm gặp cánh đồng trong mơ ấy.

Sau ít phút tiếp sức bằng nước dừa ngọt lành, tôi tiếp tục men theo tỉnh lộ 10, đến ngã ba Hòa Khánh (trước đây được gọi là ngã 4 Đức Hòa - một di tích lịch sử cấp quốc gia), rồi qua cầu Đức Hòa, đến đường N2. Trên đoạn đường này, tôi đã được dịp chiêm ngưỡng nhiều cảnh đẹp đồng quê của vùng đất Long An hiền hòa.

< Cảnh quê hữu tình dọc hành trình tìm về cánh đồng bất tận.

Để đến “cánh đồng bất tận”, bạn cứ chạy dọc đến gần cuối đường N2 sẽ thấy một ngã 3 đi vào xã Bình Phong Thạnh (cuối đường N2 là quốc lộ 62, ngã 3 này cách quốc lộ 62 khoảng 12km). Bạn rẽ vào con đường này, chạy khoảng 12-15km thì hỏi đường đến “khu dược liệu ông Ba Bé” ( là “tên thường gọi” của Trung tâm Nghiên cứu, Bảo tồn và Phát triển Dược liệu Đồng Tháp Mười) thì ai cũng biết và sẵn sàng chỉ đường cho bạn.

< Lần đầu tiên đi phà ở miền Tây như thế này, cảm giác vừa thú vị lại vừa… hồi hộp.

Dù đi bằng đường nào, bạn cũng sẽ đến một cây cầu nhỏ tên là Trục Dầu Tràm. Đến đây, bạn gửi xe ở nhà một cô chú gần cầu rồi đi tắc ráng vào “khu dược liệu ông Ba Bé”. Hôm ấy, người “đưa tắc ráng” cho tôi là một bé gái chừng 14, 15 tuổi, rất thông minh, tháo vát lại xinh xắn và nhiệt tình. Sau khi thuyết minh về “khu dược liệu”, em còn đề nghị làm hướng dẫn viên miễn phí cho tôi, dẫn tôi tham quan khu vực gần đó.

< Cô bé (đội nón lá) đang hướng dẫn khách lên tắc ráng. Tắc ráng (hay vỏ lãi) là phương tiện di chuyển trên sông phổ biến ở các tỉnh miền Tây Nam bộ.

Sau 15 phút lênh đênh sông nước, Trung tâm Nghiên cứu, Bảo tồn và Phát triển Dược liệu Đồng Tháp Mười đã hiện ra trước mắt. Ngồi trên tắc ráng, bạn sẽ thấy bên trái là một trường tiểu học khang trang do bác Ba Bé (giám đốc trung tâm) góp tiền xây dựng, còn bên phải là Ngũ Giác Đài - nơi thờ hai vị tổ sư nam dược là Tuệ Tĩnh và Hải Thượng Lãn Ông, đồng thời là nơi nghiên cứu của ông Ba Bé.

Đến nơi, tuy không hẹn trước nhưng tôi vẫn được chị Mai – là phụ trách của Trung tâm, trợ lý đắc lực của bác Ba Bé - tiếp đãi rất nhiệt tình.

Tôi được chị mời một ly nước lá vối – loại lá được hái từ cây vối trồng tại Trung tâm, giúp chống mệt mỏi. Sau đó, chị căn dặn nhà bếp làm cơm trưa cho tôi. Trò chuyện với chị trong lúc đợi cơm, tôi được biết Trung tâm chủ yếu chỉ trồng, nghiên cứu dược liệu và phục vụ điều trị nghỉ dưỡng, họ không chủ trương làm du lịch sinh thái nên rất hạn chế đón khách du lịch. Chị dặn tôi nếu lần sau có đến, nên liên lạc trước với chị hoặc bác Ba để họ sắp xếp, ví như hôm tôi đến thì bác Ba Bé đang bận tiếp một đoàn khách khác.

Ngoài ra, khi liên lạc trước với chị, bạn cũng có thể biết được thời điểm bạn đến có phải là thời gian thích hợp để tham quan hay không. Bạn muốn chiêm ngưỡng cánh đồng bàng xanh ngắt (chính là “cánh đồng bất tận” trong phim), bạn muốn ngắm sen súng nở rực, bạn muốn nhìn hàng hàng lớp lớp các loài chim và cò bay về trú đông làm tổ, tất cả đều phải chọn đúng mùa mới thưởng lãm được những hình ảnh đẹp nhất.

Rất tiếc là tôi không liên hệ trước và cũng đến không đúng thời điểm nên đã không được thấy những cảnh đẹp lung linh mà tôi đã từng xuýt xoa khi xem phim. Mặc dù vậy, cảnh vật nơi đây vào thời điểm không rực rỡ nhất cũng đủ tuyệt vời để tôi thỏa lòng mong chờ.

Tôi chào tạm biệt bác Ba Bé và chị Mai sau khi thưởng thức một bữa cơm rất “miền Tây” mà tất cả mọi nguyên vật liệu của bữa ăn đều được nuôi trồng tại Trung tâm, mỗi loại rau lá hầu như đều có vị thuốc, mỗi loại cá tôm đều tươi ngon.

Trở về thành phố, tôi vẫn không quên cảm giác nhẹ nhàng thả hồn nơi miền sông nước, vẫn không quên những người con miền tây nam bộ thiệt thà mến khách. Và tôi chợt nhận ra rằng, Long An  không chỉ có gạo nàng thơm Chợ Đào, dưa hấu Long Trì, thơm Bến Lức hay đậu phộng Đức Hòa, mà nơi này còn làm rung lên những cảm xúc xuyến xao kỳ lạ, đáng để ta trải nghiệm và yêu thương…

Đôi nét về Trung tâm Nghiên cứu, Bảo tồn và Phát triển Dược liệu Đồng Tháp Mười - hay còn gọi là cánh đồng bất tận.

- Cách TP.HCM 110 km, thuộc xã Bình Phong Thạnh, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An.

- Có diện tích 1.041 hecta, trong đó có 800 hecta rừng tràm nguyên sinh, là khu rừng tràm gió nguyên sinh duy nhất tại Việt Nam.

- Ngoài tràm, Trung tâm cũng sưu tầm, nuôi trồng hàng trăm loài cây cỏ khác nhau để nghiên cứu chiết xuất các loại tinh dầu mang dược tính cao. Khi đến đây, bạn nên mua về một ít tinh dầu dùng thử.

- Giám đốc trung tâm là dược sĩ Nguyễn Văn Bé, còn gọi là “ông Ba Bé” hay “ông Ba đất phèn”. Năm 1982, ông nghỉ làm cán bộ giảng dạy ở trường Đại học Y Dược, để vợ con ở lại TP.HCM để xuống nơi đồng không mông quạnh này, biến hàng ngàn hecta đồng hoang trở thành kho dược liệu khổng lồ mà giới chuyên môn trong nước và thế giới đều đánh giá rất cao.

- Trung tâm là một trong bảy nhà cung cấp hương liệu của hãng dầu gió xanh nổi tiếng Eagle.

- Nơi đây là trường quay bộ phim “Cánh đồng bất tận”, đồng thời cũng là địa điểm xây dựng phim trường của bộ phim nổi tiếng “Cánh Đồng Hoang” năm 1979.

Du lịch, GO! - Theo Phượt ký của Phạm Như Quỳnh (iHay)

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống