Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Wednesday, 27 March 2013

(Tiếp theo) Mình nhắm chắc là thế nào cũng nhận một biên bản phạt và khối chuyện rắc rối từ việc chạy lấn một vài tấc này! Vậy nhưng: hai xe gắn máy chạy phía trước còn lấn nhiều hơn nhưng không bị ngoắc vào. Và bọn mình cũng thế: họ nhìn nhưng... không có phản ứng gì, vậy là qua!

< Hai chiếc xe phía trước không bị phạt lỗi vượt tuyến, vậy là mình cũng ổn!

Hú hồn, ở Đồng Nai thì khó tránh được 'cái sự phạt' cho dù lỗi bé cỏn con - chắc chắn sẽ vừa tốn tiền, vừa mất nhiều thời gian để móc ví chuộc lỗi tại kho bạc nhà nước, âu cũng là cái sự hên!

< Từ đây về đến Phước Long sẽ còn 45km nữa theo cột cây số bên đường.

Trong thật tế, dạo này mình tuân thủ luật giao thông đường bộ lắm; nhất là nhìn kỹ những bảng giới hạn tốc độ ven đường, kế là trong trường hợp ni: dù vạch liền nhưng tránh xe đậu phía trong thì cũng phải báo signal để vượt, vậy nhưng lại quên.

Ra khỏi thị xã Đồng Xoài, qua cổng chào tạm biệt màu đo đỏ: bọn mình hướng về Phước Long vẫn trên con đường Phú Riềng Đỏ, tức là TL741. Cọc kilômét ven đường cho biết còn 45km nữa sẽ đến, coi bộ khá nhanh.

< Trạm thu phí số 1 Đồng Xoài - Phước Long, vị trí trạm này tại đây, mé phải có trạm trộn bê tông y như trong bản đồ Wikimapia.

Bọn mình lại tiếp tục gặp trạm thu phí thứ 3 trong chuyến, đây chính là Trạm thu phí số 1 Đồng Xoài - Phước Long. Vậy nhưng việc 'chạy qua và móc bóp' chỉ dành cho xế bự, xế nhí vẫn free.

Chút thông tin về con đường tỉnh lộ này:

< Đường Phú Riềng Đỏ lúc này trở lại tên TL741, vẫn thật rộng rãi.

Tỉnh lộ 741 là tuyến đường bộ liên tỉnh dài 152 km đi qua các tỉnh Bình Dương, Bình Phước và Đắk Nông.
Điểm bắt đầu tại chân cầu Phú Cường thuộc xã Chánh Mỹ thị xã Thủ Dầu Một đi qua các xã Chánh Mỹ, Tương Bình Hiệp, phường Hiệp An, xã Định Hòa (thị xã Thủ Dầu Một), Tân Định, Hòa Lợi, Chánh Phú Hòa (huyện Bến Cát), xã Tân Bình (huyện Tân Uyên), thi trấn Phước Vĩnh (huyện Phú Giáo), thị xã Đồng Xoài, thị trấn Thác Mơ (tỉnh Bình Phước), với điểm cuối giao nhau với tỉnh lộ 686 tại thôn 2 xã Quảng Trực huyện Đắk R'Lấp tỉnh Đắk Nông.

< Phía trước là trung tâm xã Thuận Lợi với nhà cửa lôm xôm.

Tỉnh lộ 741 giao nhau với quốc lộ 13 tại ngã tư Sở Sao (thị xã Thủ Dầu Một), ngã ba Cổng Xanh (huyện Tân Uyên), giao với tỉnh lộ 747 đi thị trấn Uyên Hưng và tỉnh lộ 742 đi khu liên hợp (thành phố mới Bình Dương), giao nhau với quốc lộ 14 tại ngã tư Đồng Xoài.

< TL741 đoạn này thi thoảng lại lên dốc xuống đồi, nhưng đồi thấp thôi.

Ngoài ra tỉnh lộ 741 còn đi qua vườn quốc gia Bù Gia Mập tại huyện Phước Long tỉnh Bình Phước. Năm 2007 tỉnh lộ 741 được nâng cấp mở rộng giai đoạn 1; đoạn từ Tân Bình tới thị xã Đồng Xoài thành có 6 làn xe. Hiện nay giai đoạn 2 đang được thi công ở đoạn từ ngã 3 Cổng Xanh tới ngã tư Sở Sao thị xã Thủ Dầu Một.

< Vào trung tâm xã Phú Riềng, đây chính là bùng binh cùng tên - vị trí tại đây.

Nói chung, đây là con đường tốt - tốt cả chất và lượng, CSGT không quá khó. Còn trạm thu phí thì nơi nào cũng thế thôi, vẫn đáng cho bạn đưa vào cung đường thay thế cho QL13.

< Rời khỏi Phú Riềng, từ đây đến Phước Long chỉ còn 29km nữa thôi.

Qua xã Thuận Lợi (nơi có khu du lịch Hồ Suối Lam) thì vào xã Phú Riềng, đây cũng chính là một trong những nơi xẩy ra sự kiện Phú Riềng Đỏ. Phú Riềng Đỏ là một trong những phong trào công nhân đầu tiên tại Việt Nam được thực hiện bởi các công nhân cao su tại đồn điều Phú Riềng, Biên Hoà (nay thuộc địa phận tỉnh Bình Phước). Phong trào này đã gây tiếng vang lớn trong lịch sử và là mốc mở đầu cho các phong trào công nhân khác của Việt Nam chống lại thực dân Pháp trong thập niên 1930...

< Sắp đến Bù Nho, bọn mình lại gặp trạm thu phí số 2 Đồng Xoài - Phước Long. 
Vị trí tram này tại đây.

< Vào trung tâm xã Bù Nho. Bù Nho là một xã thuộc huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước. Xã Bù Nho có diện tích 36,93 km², dân số năm 1999 là 7942 người, mật độ dân số đạt 215 người/km².

< Trung tâm thương mại xã Bù Nho đây.

... Sau Thế chiến thứ nhất, tư bản Pháp, dẫn đầu bởi công ty Michelin, bắt đầu ồ ạt thực hiện đầu tư khai thác và phát triển các đồn điền cao su tại Việt Nam. Trong quá trình phát triển đầu tư các đồn điền cao su, tư bản Pháp, dưới sự hỗ trợ của bộ máy chính quyền thuộc địa, đã bóc lột thậm tệ và tàn nhẫn sức lao động của những người công nhân cao su Việt Nam.
< Rời Bù Nho, mình thấy bảng quảng cáo của Lâm Viên Mỹ Lệ. Phía xa xa là núi Bà Rá chơi vơi giữa một vùng trời rộng lớn.

Thời bấy giờ người ta thường ví đồn điều cao su Phú Riềng như "Địa ngục trần gian", nơi mà "Mỗi cây cao su mọc lên là có một người công nhân Việt Nam ngã xuống".

Lỡ lầm vào đất cao su,
Chẳng tù thì cũng như tù chung thân.

< Cổng vào Lâm viên Mỹ Lệ đây. Nơi này là một khu du lịch sinh thái rộng 72 hecta với rừng điều đầy trái chín đập ngay vào tầm mắt tiếp nối những con đường rợp bóng sakê, tỏa hương ngào ngạt. Phóng tầm mắt toàn cảnh, ta thấy mình như quá nhỏ bé với khung cảnh sơn thủy hữu tình rộng lớn này. Tại đây có khung cảnh đồi chè Oolong, có khung cảnh miền sông nước Nam Bộ, vườn bách thú, hồ câu cá...

< Vào địa phận thị xã Phước Long, đây chính là trung tâm phường Phước Bình - Nghe đồn rằng tại đây có quán lẫu dê ngon lắm nhưng có lẽ không có thời gian ghé thưởng thức.

< Tại Phước Bình cũng nhìn thấy rất rõ núi Bà Rá, núi thuộc phường Thác Mơ.

Gần 12.000 công nhân cao su trong 45.000 công nhân tại đồn điền đã bỏ mạng trong khoảng thời gian 1917-1941 do chế độ lao động hà khắc và khí hậu khắc nghiệt tại đây.
Do chế độ đối xử tàn nhẫn và hà khắc của chủ đồn điền và quản đốc cuối những năm 1928-1929 một số vụ nổi loạn của công nhân đã diễn ra. Nổi bật là cuộc đấu tranh do Nguyễn Đình Tứ khởi xướng, đã giết chết 6 quản đốc người Pháp. Những người nổi loạn đã bị đàn áp giã man, nhiều người trong số họ bị bắn chết tại chỗ, chặt đầu, xử tử và tù đày. Nguyễn Đình Tư bị xử từ hình tại Sài Gòn.

< Qua một trạm CSGT (mình chạy vẫn đúng luật nhé) thì thấy Nghĩa trang Liệt sĩ thị xã Phước Long.

Cuộc đấu tranh của những người công nhân cao su tại Phú Riềng đã gây một tiếng vang trong dư luận lúc bấy giờ. Đầu năm 1928, theo chỉ thị của Ngô Gia Tự, Nguyễn Xuân Cừ và Trần Tử Bình đi vào tổ chức quần chúng. Họ đã thiết lập Nghiệp đoàn Cao su Phú Riềng với thành viên là 1/3 tổng số những người lao động tại Phú Riềng. Nghiệp đoàn đã đấu tranh với chủ đòi giảm bớt đánh đập, chống cúp lương vô lý, đòi cải thiện sinh hoạt.

< Chạy thêm một đoạn nữa là vào địa phận phường Thác Mơ nằn ngay chân núi Bà Rá.


< Đường Hồ Xuân Hương chạy dài phía Bắc núi là một trong vài con đường trung tâm tại đây...

Ngày nay, trên một đỉnh đồi có địa hình tương đối bằng phẳng, Công ty cao su Đồng Phú đã xây dựng đài tưởng niệm Phú Riềng Đỏ cao 10m, chân tượng dài 3,4m ngang 1,7m - trên đỉnh tượng đài có biểu tượng búa liềm. Xung quanh tượng đài là những lô cao su non và dưới đồi là con suối chạy uốn quanh.
Ngày 12/2/1999 Nhà nước ta đã công nhận đây là di tích lịch sử cấp quốc gia.

< Cứ chạy theo con đường này sẽ thấy cáp treo núi Bà Rá phía bên phải, thêm tý nữa là đến tượng Đức Mẹ và ngõ lên đồi Bằng Lăng...

< Nhưng lúc này, quan trọn nhất là phải tìm phòng trọ cái đã. Chạy tới lui vài lần, bọn mình chọn nơi này: nhà trọ H & D nằm trong con hẻm cụt, mát.

H & D có 3 dãy phòng trọ: 2 dãy có máy lạnh (giá 140k - 120k), dãy quạt (70k). Mình chọn phòng 120k, phòng rộng, wifi rất mạnh nhưng nước vòi sen thì như trâu... tè, hi hi.

< Việc kế tiếp là qua bữa trưa, quán ngay trước chợ Phước Long đây, giá 20k/dĩa, trà đá free.
Lúc này đã là 11h trưa.

< Về tắm rửa cho hết bụi đường, định nằm nghỉ một tý cho lại sức nhưng cuồng chân nên bọn này lại đi - phượt mà, ở nhà ngủ đã rồi!

Nhưng đi đâu chứ, bạn sẽ biết trong bài sau vậy.

Còn tiếp
Phần 1 - Phần 2 - Phần 3 - Phần 4 - Phần 5 - Phần 6 - Phần 7

Điền Gia Dũng

Du lịch, GO!

Dài 31 km, nơi rộng nhất khoảng 150 m, động Thiên Đường mới được phát hiện ở Quảng Bình mang vẻ huyền ảo khiến hàng trăm du khách trầm trồ.
Được phát hiện năm 2005 nhưng sau 5 năm khai thác, mở đường, phạt núi và xây dựng lối lên xuống, động Thiên Đường vừa được tập đoàn Trường Thịnh đưa vào hoạt động.

Động cách thành phố Đồng Hới (Quảng Bình) khoảng 60km về phía Tây Bắc, nằm giữa rừng Phong Nha – Kẻ Bàng, thuộc xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch. Theo đánh giá của Hiệp hội Nghiên cứu hang động Anh Quốc, hang động Thiên Đường còn to lớn và đẹp hơn cả động Phong Nha.

Động Thiên Đường là một động khô, không có sông ngầm chảy qua như động Phong Nha. Theo kết quả khảo sát sơ bộ của các nhà khoa học, so với động Phong Nha thì động Thiên Đường có chiều dài và quy mô lớn hơn nhiều.

Từ thông tin của một người dân địa phương tên Hồ Khanh, động Thiên Đường được phát hiện và thu hút sự chú ý của các nhà khoa học, các nhà thám hiểm và cộng đồng quốc tế.

“Hiệp hội nghiên cứu hang động Hoàng gia Anh quốc” đã tổ chức khám phá và công bố, động có chiều dài 31,4km, chiều rộng dao động từ 30 đến 100 mét, nơi rộng nhất 150 mét, chiều cao từ đáy lên trần động khoảng 60 mét.

Tiến sĩ Howard Limbert, một thành viên của hội cho rằng đây có thể là hang động khô dài nhất châu Á.

Từ đường Hồ Chí Minh (nhánh tây) đoạn km16 vào đến động dài khoảng 7km. Hơn 6km là đường khá bằng phẳng đi trên nền đất mịn, dưới tán rừng rợp lá với những ngọn gió thổi mát rượi. Cách động chừng 300m là đoạn đường phải trèo băng qua những triền đá tai mèo sắc cạnh.

Cấu trúc kỳ vĩ, vẻ đẹp huyền diệu và tráng lệ của hang động này đã khiến hầu hết những người tham quan hôm khai mạc ngỡ ngàng.

Thiên Đường có miệng hang khoảng 9m2. Trần động vút cao, rộng thênh thang. Đặc biệt, với hai cột thạch nhũ khổng lồ đường kính 5 mét vươn lên cao như những kiến trúc cột của thiên đình có nhiều hình thù phong phú.

Đoạn đầu của hang là một vòm đá cao hàng chục mét, rộng khoảng 100 mét.

Thiên Đường còn đặc biệt bởi các cột nhũ mồ côi. Ấn tượng nhất là một khoảng nhũ dài trải trên nền động trông như một chiếc sa bàn.

Đoạn thứ hai của hang có hàng chục ụ thạch nhũ cao từ 30 đến 60cm nằm ngay trên nền động trông rất giống các tượng phật.

Có cả những cột nhũ lớn đường kính 1-2m giống Phật Bà Quan Âm.

So với động Phong Nha thì thạch nhũ ở Thiên Đường có nhiều hình thù hơn.

Phần lớn nền động là đất dẻo, rộng và khá bằng phẳng. Nhiệt độ trong hang luôn ở mức 20 đến 21 độ C. Chỉ đứng trước cửa cũng có thể cảm nhận được từng luồng hơi mát lạnh từ dưới động thổi ngược lên.

Vẻ kỳ ảo của động được tô điểm thêm bởi những nàng tiên xuất hiện trong buổi khai mạc.

Một lớp thạch nhũ mang dáng vẻ như ngôi nhà Rông của người Tây Nguyên.

Đi trong động có thể cảm nhận được từng bước chân hay tiếng nói, cười của du khách, từng âm thanh tách bạch, vang ra đập vào các vách đá như níu kéo mọi người cùng trò chuyện.

Hiện động mới chỉ khai thác và cho tham quan khoảng hơn 500 mét chiều dài do có nhiều hố sụt nguy hiểm sâu bên trong, nền động không ổn định.

Du lịch, GO! - Theo Hoàng Hà (VnExpress)

Tuesday, 26 March 2013

Chiếc thuyền gỗ nhỏ đưa chúng tôi đi giữa mênh mông sóng nước hồ Trị An. Thấp thoáng những cánh chim trời. Nước hồ sóng sánh đầu mũi thuyền. Xa xa nhấp nhô những hòn đảo vừa gần gụi lại vừa bí ẩn. Mất gần tiếng đồng hồ chúng tôi mới lên được ngọn núi lấp xấp cây.

Từ xa nhìn thấy trên đỉnh núi có một ngôi nhà gỗ cũ kỹ và vài cái chuồng gà. Chiếc thuyền neo tạm trên bãi cát nhỏ. Người chủ nhà tên Trần Văn Long, dáng cao gầy, luôn đội mũ trên đầu, da ngăm đen. Anh ngạc nhiên đón chúng tôi bởi lâu lắm rồi mới có người ghé đảo. Chúng tôi đi dạo quanh đảo, mấy con người nhỏ bé và cả ngọn đồi cũng nhỏ bé trên cái lòng hồ thủy điện vào loại lớn nhất đất nước.

Anh Long sinh năm 1957. Địa chỉ thường trú của anh theo chứng minh là thuộc tổ 2, ấp 2, xã Mã Đà, huyện Vĩnh Cửu. Địa chỉ như vậy thôi, chứ ngoài vợ chồng anh và đứa con trai, chung quanh chỉ có nước, gió, cá và những cánh chim. Không một bóng người lạ. Anh kể: “Hồi trước bà con ở rất đông. Xóm làng sầm uất. Dưới vùng đất bằng thì người ta trồng mía, trên đồi cao trồng sắn. Lâm trường cũng rất nhiều công nhân. Bóng áo xanh sớm tối đi về. Cuộc sống Mã Đà thật vui vẻ và đầm ấm. Đến khi đóng đập tràn, nước dâng lên ngập hết tất cả. Mọi người đi hết. Chỉ còn lại ngọn núi cao này không ngập và chúng tôi quyết định ở lại”.

Anh Long vốn là công nhân hợp đồng khai thác lâm sản cho Lâm trường Mã Đà. Khi ấy lòng hồ vẫn còn nhiều công nhân, bạn bè của anh sống với nhau chân tình. Thậm chí, người ta đã nhượng lại cho anh ba mẫu đất để làm vườn sinh sống. Đó chính là ba mẫu đất trên đỉnh núi cao nhất.

Rồi máy móc cũng được đưa về. Chuyên gia, kỹ sư rất đông. Nhà máy thủy điện được khởi công năm 1984, đến năm 1991 hoàn thành. Đập ngăn sông được đắp bằng đất đá hỗn hợp, dài 420 m, cao 40 m, đỉnh đập rộng 10 m. Đập tràn xả lũ dài 150 m, có tám khoang tràn, mỗi khoang rộng 15 m với tám cửa van cung được đóng mở bằng cẩu chân dê 2x125 tấn. Đập chính và các đập phụ tạo nên hồ chứa nước rộng 323 km² với dung tích tổng cộng 2,76 tỷ m³.

Anh Long nói: “Những người hàng xóm của chúng tôi ra đi đã lâu, chẳng biết bây giờ thế nào?”.

Hai vợ chồng anh sống bằng đánh cá, trồng trọt chăn nuôi. Đám gà vừa bắt sâu vừa đẻ trứng. Vợ anh nói: “Lâu lâu chúng tôi đánh thuyền vào bờ mua gạo, nước mắm, đủ dùng cho cả tháng”. Với diện tích ba mẫu trồng điều và các loài hoa trái, họ dành dụm bán cho người trong bờ. Ngôi nhà cũ nhiều năm chưa sửa được. Con trai của anh Long đã lớn, chưa có bạn gái. Vợ chồng anh gửi nó vào bờ để làm dân quân xã, ý để nó quen ai đó, nhưng cậu bảo: “Nhớ nhà, lại quay ra đảo với bố mẹ”.

Những hòn đảo xa xa điều kiện sinh sống khắc nghiệt không có người ở, có chức năng phòng hộ, bảo tồn. Cách đó chừng nửa giờ đồng hồ đi thuyền có hòn đảo mà người thành phố hay lên du lịch. Quanh năm hồ chỉ có những người đánh cá lam lũ, nhiều gia đình sinh sống luôn trên những con thuyền nát. Khi giông gió, họ cập đảo để trú ẩn.

Cách đây vài tháng, có một người đến đề nghị anh chị nhận bồi thường rồi giao đất cho họ làm đảo du lịch. Đếm cây, đếm gà, tính ra mấy trăm triệu. Gia đình sợ rằng vào bờ không đủ mua đất, mua nhà. Chị vợ không muốn đi. Anh chồng thì bảo: “Chúng tôi sống trên này hơn 20 năm, buồn vô cùng. Những lúc ốm đau không biết làm sao. Cực quá mà ở thôi, đền bù hợp lý chúng tôi đi”.

Chúng tôi lên thuyền gỗ, anh Long đứng trong bờ vẫy tay chào. Không biết khi nào họ mới gặp lại những người khách vãng lai. Hai vợ chồng và đứa con lặng lẽ đi lên ngôi nhà cũ kỹ, nơi trú ẩn của họ giữa thiên nhiên hoang dã. Con thuyền xé sóng mà đi. Năm vừa rồi nhiều cơn bão lớn. Có những cơn bão ném hết bè cá lên bờ. Không ai ngờ hồ giữa núi mà bão lớn như thế. Bao nhiêu cá sổng đi hết. Người lái đò bảo: “Sau cơn bão chúng em hóa thành con nợ”.

Trước mắt chúng tôi, một hòn đảo nhỏ với dăm bảy cái chòi, lạ mắt nhất có hai chiếc xuồng du lịch sơn trắng nằm dưới bến. Đảo du lịch, nhưng chẳng thấy khách nào. Bước lên đảo, thấy hai vợ chồng đang ngồi ôm đàn hát cải lương. Một chiếc ghế trống trải bên bờ cát mịn.

Vợ chồng người trông coi đảo bảo: “Chủ đảo là một nghệ sĩ ở thành phố. Tính anh này rất lãng mạn, đã mua hòn đảo làm du lịch, bạn bè sáng tác hay lên chơi”. Có khách ra đảo, họ sẽ được gọi điện báo trước. Hai vợ chồng sẽ đánh chiếc xuồng sơn trắng vào bờ, trước tiên mua gạo mua đồ ăn cho khách, sau đón khách ra đảo. Từ bờ ra đến đảo đi gần hai giờ đồng hồ. Ai cũng mặc áo phao vì chiếc xuồng thật là nhỏ bé, còn hồ rộng mênh mông, sâu hơn 20 m nước.

Khách ra đảo thích ngủ ngoài trời. Dưới chân sóng vỗ, trên trời chim bay. Vào đêm trăng, ánh sáng tỏa khắp lòng hồ, tiếng cá quẫy, tiếng những con gà rừng gáy thao thiết. Người trông đảo bảo: “Du khách thích cắm trại ngoài trời. Đêm nổi lửa trại, hát với nhau. Đôi khi họ bảo chúng tôi hát cải lương”. Chiếc ghi- ta gỗ nứt, anh chồng bật bông tiếng đàn rất ngọt, người vợ cao lớn, cất giọng ca hoang dã nghe nổi cả gai ốc.

Hỏi ra, việc kinh doanh du lịch còn ở thời kỳ manh nha ban đầu. “Lâu lâu mới có một đoàn chừng vài chục khách, chủ yếu thanh niên đi cắm trại”. Những người trên đảo bảo khách thích sống cuộc đời hoang dã, nhưng các “tua” tuyến chưa nhiều. “Du lịch lòng hồ chưa phát triển đâu - Những người trông đảo nói - chúng tôi ở đảo cứ ngóng khách dài cổ ra đấy”.

Mấy cái chòi lợp lá, có đặt giường gỗ, đều đã hư hỏng hết cả. Chiếc lầu ngắm trăng giữa đảo nhô cao, nom quyến rũ giữa không gian vắng lặng, nhưng cầu thang đã mục nát, không ai dám bước lên. Trên sân, gà ta lẫn cả gà rừng. Chúng sống với nhau nom thật bình yên.

Chiếc thuyền gỗ đưa chúng tôi rời đảo. Phía trước, mặt trời đang lặn, những thôn làng xa xa sum vầy. Sau lưng, những hòn đảo lấp lánh ánh hoàng hôn. Bóng người khuất dần sau sóng nước.
Mã Đà ơi, những ngày nhộn nhịp ở đâu. Tôi chợt nghĩ đến giấc mơ những tuyến du lịch sẽ được mở mang nhiều hơn, đưa người ta trở lại với những ngọn đồi sót lại của công trường Mã Đà một thuở. Những ngọn đồi hoang lạnh giữa lòng hồ sâu sẽ lại đầm ấm bóng người nếu phát triển ngành du lịch nơi này.

Giữa thiên nhiên, một thứ thiên nhiên nhân tạo đặc trưng của hồ thủy điện, tôi sẽ nhớ mãi tiếng hát dân gian sâu thẳm, tiếng đàn cổ ngân vang cùng buổi chiều nổi lửa nướng ngô, nướng sắn bên lửa trại cháy bùng bùng. Trên con thuyền gỗ nhỏ, nhìn ra bốn bề, sương khói dưới đáy hồ dâng lên, như trăm ngàn ngôi nhà xã Mã Đà năm nào vẫn còn ở đâu đó dưới sâu thẳm của lòng hồ vậy.

“Nhớ quay lại lòng hồ nhé!”. Vẫy tay chào người trên đảo, chúng tôi hẹn ngày trở lại những ngọn đồi lịch sử Mã Đà.

Du lịch, GO! - Theo báo Nhân Dân, internet
Mỗi khi có dịp hàn huyên tâm sự, chúng tôi vẫn nhắc đến mâm cơm với nồi cơm độn nóng hổi và chén muối nén thơm ngon đã gắn bó suốt những năm tháng tuổi thơ nghèo khó với những yêu thương, nhung nhớ giăng đầy… 

< Củ nén.

Nén vừa là loại rau vừa là gia vị như hành, tỏi nhưng vị nén rất nồng và đậm. Củ nén thuộc họ hành còn được gọi là hành hoa, hành tăm. Nén có thể làm món chiên, xào, kho, hấp hoặc nấu chè, nấu cháo.

Theo kinh nghiệm dân gian, nén có tác dụng sát trùng đường hô hấp, chống sình bụng, bổ thận, ấm lưng, chống cảm cúm, ho. Có thể dùng nén nấu nước xông hơi, chưng với đường phèn để ngậm khi bị ho khan hay ngâm rượu.

Ngoài các công dụng chữa bệnh, nén cũng là thứ gia vị tuyệt vời, mang đến hương thơm nồng đượm cho các món ăn nên hầu như nhà nào ở quê tôi cũng dành một khoảnh đất nhỏ trong vườn để trồng nén.

Nén ưa đất cát, dễ gieo trồng và chăm bón. Khi nén già, rụi lá, người ta đào lấy củ, giũ sạch đất cát, để khô ráo, mang ra chợ bán và cũng không quên để dành lại cho gia đình một lượng nén vừa đủ, bảo quản nơi khô ráo, thoáng gió, để dành ăn quanh năm.

Nén được dùng để ướp thịt, cá hay dùng để phi thơm dầu phụng, giúp các món ăn thêm nồng đượm, dậy mùi. Củ nén được đập giập chứ không bị giã nhuyễn khi ướp thức ăn, để người ăn còn có cơ hội nhẩn nha những hương vị thơm ngon ẩn chứa trong từng củ nén nhỏ xinh.

Ngoài ra, nén còn được chế biến thành các món ăn đậm chất quê. Một trong những món ăn từ nén mà những ai sinh ra và lớn lên trong những ngày quê nhà miền Trung còn nhiều gian khó sẽ không thể nào quên được chính là muối nén.

Muối nén từng là thức ăn chính và là thức ăn duy nhất trong những bữa cơm của nhiều gia đình ở quê ngày ấy. Lấy một ít muối sống cho vào nồi nhỏ, đậy nắp nồi lại, bắc lên bếp nấu cho muối chín, vỡ vụn thành bột muối, trút bột muối ra chén. Đổ dầu phụng đã được phi thơm với củ nén đập giập vào chén muối còn đang nóng, thêm một ít lá nén cắt nhỏ rồi trộn đều lên sẽ được chén muối nén thơm ngan ngát, dậy mùi hương quyến rũ, gọi mời.

Hương thơm của củ nén quyện lẫn vị béo, thơm của dầu phụng quê, đậm đà của muối hầm và màu xanh tươi của những cọng lá nén bé nhỏ rất hấp dẫn, ăn với cơm nóng trong những ngày mưa hay tiết trời se lạnh rất ngon và lạ miệng.

Vào những ngày giao mùa, tiết trời trở nên đỏng đảnh, món cháo nén ngọt thơm trở thành “thứ thuốc” giải cảm tuyệt vời. Nguyên liệu chỉ là một ít gạo tẻ nấu nhuyễn cùng thật nhiều hạt nén đập giập và một ít tiêu rừng giã nhỏ, thêm tí muối rồi ăn khi còn nóng hổi. Ăn xong trùm chăn kín cho mồ hôi trong người túa ra là cảm thấy cơ thể nhẹ nhàng, khỏe hẳn.

Đặc biệt hơn cả vẫn là chè nén. Chén chè nén nóng hổi, thơm ngan ngát hương nén, ăn khi còn nóng là bài thuốc dân gian giúp mọi người nhanh chóng phục hồi sức khỏe. Nén rửa sạch, lấy tăm nhọn đâm thủng quanh củ nén rồi chưng cách thủy với đường đen (đường bát) bốn lăm phút cho đường tan chảy, nén chín, tiết ra tinh dầu và ngấm vị ngọt của đường là dùng được.

Chè nén có vị ngọt của đường quyện lẫn vị the the của nén, mang đến cho người ăn cảm giác thú vị, tâm hồn thư thái, sảng khoái.

Du lịch, GO! - Theo H. Thảo (báo Tuổi Trẻ), internet
Tôi đến Sơn Chà, hòn đảo nhỏ nằm giữa vùng biển Đà Nẵng và Thừa Thiên - Huế để thử cảm giác đi bụi trên đảo vắng, tận hưởng thiên nhiên với những bờ đá nối dài, những dải cát trắng mịn, những trảng rừng xanh thẳm, hoang sơ.

Ban đầu, khi nghe bạn đường rủ đi Sơn Chà, tôi lập tức nghĩ ngay đến bán đảo Sơn Trà của Đà Nẵng và nghĩ bạn phát âm sai. Tôi không phải người duy nhất nhầm lẫn. Thực tế, Sơn Chà là một hòn đảo nhỏ, chỉ chừng 1,5km2 với chu vi 4km thuộc địa phận tỉnh Thừa Thiên - Huế. Nổi lên giữa biển khơi, nhìn xa trông tựa như một chiếc chảo úp ngược nên hòn đảo cao 235 mét so với mặt nước biển và rộng chừng 60 ngàn mét vuông này được dân gian gọi tên là Hòn Chảo.

Xưa, đây là vùng giáp ranh giữa Đại Việt và Chiêm Thành. Tưởng nhớ đến công lao của Huyền Trân Công chúa với cuộc tình lịch sử đã bổ sung cho giang sơn Tổ quốc thêm Thuận Châu, Hoá Châu và “thiên hạ đệ nhất hùng quan” Hải Vân, vua Trần cho gọi là đảo Huyền Trân. Để rồi, mấy trăm năm sau, người anh hùng áo vải Quang Trung, sau khi tung hoành dọc ngang đất nước, một lần dạo chơi qua đây, đã cảm kích bởi sông nước hữu tình quá đẹp mà gọi đó là đảo Ngọc. Thời đầu, nhà Nguyễn gọi là cù lao Hàn. Đến thời vua Minh Mạng ban tặng cho hòn đảo cái tên Ngự Hải Đài. Bước sang thời Pháp thuộc là cái tên Sơn Chà, còn lại cho đến bây giờ.

< Tàu ngư dân chở ra đảo Sơn Chà.

Hiếm có vùng đất nào lại có nhiều tên gọi như thế. Nó là sự thể hiện cái nhìn của người đời qua bao thế hệ về hòn đảo nhỏ này, vừa mang dấu ấn và những biểu tượng lịch sử về một thời mở cõi, vừa thể hiện cái dáng hình ấn tượng kỳ lạ, địa thế khó nơi nào có được và cũng cho thấy sự hấp dẫn và vẻ đẹp khiến lòng người mê hoặc mà đất trời dành riêng cho đảo Ngọc- Sơn Chà, được hình thành từ phần kéo dài ra biển của dãy núi Hải Vân, một nhánh đâm ngang ra biển của dãy Trường Sơn để rồi từ đó hình thành nên 2 phần là Trường Sơn Bắc và Trường Sơn Nam, với 2 vùng tiết trời xa lạ.

Chúng tôi nhìn thấy đảo, nhỏ bé nhưng xanh thẳm, sau một tiếng rưỡi đồng hồ lênh đênh trên biển. Thuyền cập bến, thật thú vị khi được bước chân trên dải cát trắng mịn màng, nhìn ngắm những dải đá nhấp nhô nhiều hình khối và những trảng rừng xanh mướt.

Sơn Chà vẫn còn nguyên vẻ hoang sơ vốn có. Ngoài chiếc cầu tàu và vài chiếc thang gỗ bắc qua các mỏm đá của một dự án đầu tư dang dở, đảo không có bất kỳ dịch vụ du lịch nào. Trên đảo, có lực lượng bộ đội biên phòng của Trạm kiểm soát biên phòng đảo Sơn Chà thuộc Đồn biên phòng Lăng Cô và các nhân viên của Trạm đèn biển Sơn Chà.

Đây là cây đèn biển vào dạng trẻ nhất Việt Nam, mới xây dựng năm 2007. Trạm kiểm soát biên phòng Sơn Chà nằm ở lưng chừng đảo, còn trạm đèn biển tít trên đỉnh núi. Ở đảo, các anh bộ đội tự trồng thêm rau để cải thiện bữa ăn nhiều chất đạm từ nguồn thực phẩm của biển. Các anh nhân viên canh đèn biển thì hứng nước mưa để dùng dần. Chúng tôi được các anh bộ đội mời ăn cơm, bữa cơm với ốc, cá bắt từ biển và canh rau dại xen rau trồng nấu với cua đá bắt được đêm trước.

Giữa đảo vắng, chúng tôi được thỏa sức vẫy vùng trong làn nước trong xanh, phơi mình dưới nắng hay theo chân anh Thắng, trạm trưởng trạm biên phòng đi thả lưới, giăng câu bắt ốc, cá, tìm cảm giác của Robinson thuở nào. Khi đã ngán cái nắng chói chang, chúng tôi theo con đường mòn với hàng trăm bậc thang dốc ngược nằm giữa những tán cây để lên cây đèn biển. Đoạn đường thử thách sự dẻo dai, bền bỉ của người leo.

< Phút văn nghệ của người lính đảo.

Đứng ở nơi cao nhất này, tôi chắc chắn bạn cũng như tôi, sẽ vỡ òa trong niềm vui sướng khi trước mặt là biển trời bao la và thuyền bè chỉ là nét chấm phá, điểm xuyết bé nhỏ. Để rồi, ở nơi đỉnh cao của vùng đất biển khơi, phóng tầm nhìn về tứ phía mà cảm nhận sự bao la, vô tận của biển khơi với điểm dừng nơi gần hơn là Lăng Cô và xa hơn tý nữa là Chân Mây; cảm nhận màu xanh ngút ngàn của núi rừng hùng vĩ Trường Sơn, nơi có một “nàng tiên” Bạch Mã với vẻ đẹp xao động lòng người. Còn nữa, không xa là thành phố bên sông Hàn thấp thoáng.


< Một trong rất nhiều bãi đá đẹp trên đảo.

Lại phải cảm ơn thêm một con người nữa, ấy là vị vua Minh Mạng nổi tiếng với tài trị nước, đã ban cho hòn đảo tên gọi Ngự Hải Đài, hiểu nghĩa là đài canh, là vọng gác trên biển. Nó như một bổ sung về một giá trị thực tiễn to lớn đổi với hòn đảo nhỏ này.

Buổi tối, chúng tôi được các anh biên phòng cho hai lựa chọn: một là cắm lều ngủ dưới bãi cát, hai là ngủ ở một trong những căn phòng của trạm. Cuối cùng, chúng tôi quyết định xin ngủ nhờ ở trạm, nhưng trước đó thì thả bộ dưới bãi cát, tận hưởng mùi biển nồng nàn cùng ánh trăng vằng vặc. Trên đảo, điện được tạo ra từ máy nổ. Để tiết kiệm dầu, máy chỉ chạy vài tiếng đầu tối. Sau đó thì tất cả chìm vào bóng đêm, chỉ còn tiếng côn trùng và tiếng sóng biển vỗ vào bờ ầm ào.

Sau giấc ngủ say, chúng tôi tận hưởng buổi sáng bình yên, lặng lẽ của đảo. Từ ngôi nhà của trạm biên phòng, phóng tầm mắt ra xa, biển mờ ảo, tinh khôi trong sương sớm. Những ngư dân đã bắt đầu một ngày làm việc mới. Theo lời anh Thắng, “lộc biển” ngày càng cạn nên đời sống của họ cũng khó khăn hơn. Vậy nhưng, chiếc thuyền của các gia đình ngư dân kia vẫn chưa bao giờ vắng mặt, trừ những ngày biển động. Cuộc sống tiếp diễn như nó vốn thế...

Chúng tôi rời đảo, trở về đất liền, trở lại với những lo toan thường nhật và tự hứa với lòng, nếu có dịp, sẽ trở lại Sơn Chà, tìm cho mình chút bình yên từ sóng, từ cát và từ những con người bình dị...

Mặc dầu chỉ cách mũi Khẻm - điểm nhô ra gần nhất của đèo Hải Vân chưa đầy 1km, nhưng muốn đến được đảo chỉ phải đi bằng ca nô hoặc tàu biển (mất hơn nửa giờ đồng hồ) hay thuê thuyền thúng, thuyền máy của dân chài. Ca nô của Đồn Biên phòng 236 Lăng Cô và tàu tuần tiễu của Hải đội 2, Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh.

Hoang sơ Hòn Chảo

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ Phunuonline, Báo Thừa Thiên - Huế, internet
Đức Phổ, vùng đất phía Nam của tỉnh Quảng Ngãi, miền quê có bốn dòng sông xuôi về chung cửa biển Mỹ Á. Những tên sông: Trà Câu, Lò Bó, sông Trường và sông Thoa luôn in đậm trong tâm thức của những người con xa quê.

Sông Thoa, chi lưu của dòng Vệ giang, khởi nguồn giữa hai huyện Nghĩa Hành và Mộ Đức. Khi vào địa phận Đức Phổ, dòng sông này lại góp thêm nước của cả ba dòng Trà Câu, sông Trường và Lò Bó trước khi ra biển nên được xem là sông mẹ. Biết bao suối khe, kênh rạch đôi miền xuôi - ngược hòa nước chung dòng tạo vẻ thơ mộng cho sông Thoa trước khi đổ ra biển lớn.

Những làng chài Hải Tân (xã Phổ Quang) và Khánh Bắc (xã Phổ Vinh) tựa bên này sông với bên kia là biển đêm ngày rì rào sóng vỗ. Cư dân trong làng bao đời cỡi sóng biển vươn khơi hay với chiếc thuyền nhỏ cần mẫn chài lưới đánh bắt cá tôm trên sông.

Sông Thoa mùa cạn như dải lụa mềm xanh màu da trời lấp lánh cát vàng dưới đáy lẫn bóng mây trắng lướt bay trong nắng chiều. Sông lững lờ trôi giữa đôi bờ phủ bóng tre xanh mướt, thổi gió mát rượi vào những ngôi nhà mái ngói rêu phong qua bao kiếp người. Có những đoạn, sông êm đềm uốn lượn bên cánh đồng lúa cùng với những vườn cây trái sum suê.

Sớm mai, những chiếc thuyền nhỏ của dân chài lướt nhẹ trên sóng nước. Nhịp gõ vào mạn thuyền trong sương sớm làm giật mình những cánh chim ngái ngủ vụt cánh bay từ những bụi cây ven bờ.

Nắng lên soi bóng người lớn, trẻ em lom khom đào trùn nước, dầm mình trong nước nhặt từng con don, trai, ốc… dưới lòng sông. Những "thợ săn" sông nước dùng kính lặn và súng lao lặn vào tận hang hốc bắn những con chép, con trắm lớn cỡ dăm đến bảy cân khiến cho mọi người phải trầm trồ thán phục. Sản vật của dòng sông theo các mẹ, các chị lên chợ, vào bữa cơm của những gia đình vùng cao. Đổi lại là tương cà, rau quả cho bữa ăn hàng ngày, dăm miếng kẹo lạc, vài tấm bánh đa cho con trẻ.

Lũ về, nước sông chuyển sang màu nâu non, chở nặng phù sa từ những bản làng, núi non miền thượng vun đắp cho những cánh đồng, bờ bãi trước khi đổ ra biển lớn. Những xóm làng vùng trũng, người dân lo thu vén, kê cao đồ đạc tránh lũ, lùa trâu, bò, heo, gà đến gửi nhờ nhà người quen ở nơi cao ráo. Mùa lũ cũng là mùa cá về. Cá theo nước lên đường làng, vào tận vườn nhà đùa giỡn, khoe mẽ lôi cuốn bạn tình để sản sinh ra thế hệ nối tiếp.

Những con chép, trắm, trôi, mè phơi lưng trên lạch nước cạn như mời gọi người đổ xô ra khỏi nhà dùng tay bắt cá trong tiếng reo hò đầy phấn khích. Trên những cánh đồng vừa thu hoạch, nhiều người dùng nơm, dó, giăng lưới bắt cá đẻ trên ruộng. Những con thuyền chở đầy cá lướt nhanh trên sóng nước cho kịp buổi chợ. Những con tôm, con cá làm quà cho người thân và nhận lại trái đu đủ xanh, mớ rau hái vội cho mâm cơm “thêm xanh” trong mùa lũ.

Sông Thoa hiền hòa trong mùa cạn và dữ dội trong mùa lũ, dòng nước vẫn cứ xuôi về biển Đông. Sản vật của dòng sông là nhịp cầu nối để người đến với người, san sẻ cho nhau những khó khăn, vất vả, như sợi tơ kết nối những tấm lòng. Bến nước, bãi tắm tuổi thơ cứ luôn ẩn hiện trong ký ức của mỗi người giữa bao bộn bề lo toan. Những bến đò rộn rã tiếng cười con trẻ đón mẹ chợ xa trở về với dăm viên kẹo cùng tấm bánh đa vừng.

Những bến đò năm xưa tiễn đưa người thân lên đường ra trận, tiễn chân người con tha hương trong luyến nhớ. Bờ tre rủ bóng mát ven bờ là nơi nghỉ chân của người làng giữa trưa nắng, nơi hò hẹn để những đôi trai gái bén duyên vợ chồng. Những chuyến đò ngang, những chiếc cầu gỗ mỏng manh bắc ngang dòng sông gắn kết tình cảm đôi bờ càng thêm bền chặt. Sớm mai, nhịp cầu gỗ đón bước chân rập rình của đoàn người đưa rước dâu, những thanh gỗ kẽo kẹt tiễn đưa người con gái sang bên kia sông về nhà chồng. Chiều chiều, nàng lại qua cầu về bên này sông thăm cha mẹ, họ hàng và cả bến bờ nhuộm đẫm tuổi thơ. Đêm đêm, tiếng mái chèo khua nước, tiếng cá quẫy mạnh cũng làm cho nàng giật mình tỉnh giấc dõi theo những ánh đèn lấp lóa trên sông. Đó là ánh đèn của người cha, người anh đang lầm lũi trong đêm để bắt con cá, con tôm cho phiên chợ sớm.

Sông đang được khoác tấm áo mới khi dự án tiêu úng, thoát lũ và chống sạt lở vùng hạ lưu của dòng sông này đang được triển khai xây dựng với tổng kinh phí trên 330 tỷ đồng. Sẽ có những tuyến kênh tiêu, đập ngăn nước và nhiều chiếc cầu bê tông cốt thép bắc ngang dòng sông. Việc ngập úng trong mùa lũ, thiếu nước tắm mát ruộng đồng trong mùa khô sẽ lùi vào dĩ vãng. Những nhịp cầu "nối bờ vui" sẽ đón bước chân con trẻ tung tăng đến trường, đón những vòng xe của mẹ, của chị thong dong ra đồng hay đến chợ.

Và tình người đôi bờ lại thêm gắn bó, không còn cách trở đò ngang và những chiếc cầu gỗ lắc lư sóng nước. Sông bao la như tình mẹ, đón những người con tha hương trở về với bao xúc động bồi hồi. Những bước chân lưu lạc nơi chân trời góc bể "chập chững" bước qua cầu mà cứ ngỡ bước lên thuyền trên bến sông của ngày thơ ấu. Ngẩn ngơ tìm bóng hình ngày xưa rồi khe khẽ gọi thầm: Sông ơi…!

Du lịch, GO! - Theo Trang Thy (báo Quảng Ngãi), internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống