Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Sunday, 31 March 2013

Rời khỏi Torun, trong đầu tôi vẫn vang âm hưởng của thời trung cổ với những lớp thành lũy gạch nung đồ sộ. Âm hưởng ẫy vẫn còn theo đuổi tôi cho đến chặng cuối cùng của tôi trên đất Ba Lan : thành phố cảng Gdansk. Sau 3 tiếng rưỡi đi tàu hỏa, tôi đặt chân đến thành phố với biệt danh “ngọc trai của phương Bắc”. Có tên gọi như vậy vì quần thể kiến trúc trung cổ của Gdansk có thể sánh ngang với nhiều thành phố khác dọc theo bờ biển Baltic như Lubeck, Riga hay những  thành phố xa hơn như Bruges hay Amsterdam. Đến được Gdansk là coi như tôi đã hoàn thành đến 90% chặng đường rồi. Nhìn lại mới thấy thời gian trôi thật nhanh, nhoắng một cái mà gần 2 tuần đã trôi qua và tôi đã tung hoành khá nhiều nơi trên đất Ba Lan. Chỉ có một điều, đây là một hòn ngọc được đẽo gọt lại theo phiên bản gốc đã bị phá hủy khá nhiều do bom đạn của thế chiến thứ hai. Trong những thập kỷ sau thế chiến, thành phố Gdansk cũng phải chuyển mình để hồi sinh như nhiều thành phố khác của Châu Âu. Nhưng có một điều mà tôi cảm thấy người Việt chúng ta phải học hỏi ở người Ba Lan, đó là ý thức bảo tồn giá trị kiến trúc truyền thống.

 Bị phá hủy chỉ còn lại vỏn vẹn 37 tòa nhà, cộng với sức ép dân số, chính quyền địa phương tất nhiên buộc phải cho xây một loạt tòa nhà chung cư bê tông xấu xí để giải quyết chỗ ở. Nhưng không phải vì thế mà họ cho xây dựng lung tung. Người Ba Lan vẫn chú trọng đầu tư cho xây lại khu phố cổ Gdansk và những tòa nhà chung cư hiện đại đều nằm ngoài vùng. Phương pháp trùng tu xây dựng các tòa nhà cổ cũng rất thông minh, tuân theo những yêu cầu kiến trúc rất khắt khe. Nói là xây lại, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc họ vác bê-tông, xi-măng hay gỗ của thế kỷ 20 để xây một công trình của thế kỷ 14. 

 Họ mất rất nhiều công sức nghiên cứu nguồn gốc các vật liệu xây dựng và sử dụng lại các miếng gạch tảng đá của các công trình thời trung cổ bị phá hủy ở nơi khác, vác về đây và cho xây lại các tòa nhà ở Gdansk. Công nghệ trùng tu của người Ba Lan được cả thế giới kính nể và không quá ngạc nhiên khi Việt Nam phải mời các chuyên gia Ba Lan về cố vấn cho công cuộc trùng tu cổng thành cửa Bắc ở Hà Nội và một phần của kinh thành Huế. Gdansk ngày nay là một thành phố cảng công nghiệp hiện đại và khá ô nhiễm. Nếu như không có quần thể kiến trúc phố cổ được trùng tu, có lẽ đây chỉ là một thành phố không hồn đang gặm nhấm những ký ức huy hoàng của những thế kỷ 13-15. 

 Du khách chủ yếu đến Gdansk bằng tàu hỏa từ thủ đô Warsaw và phần lớn chỉ đến đây một ngày và không ngủ lại. Họ đến đây để chụp ảnh lưu niệm nhưng tôi tin rằng không có nhiều trong số họ quan tâm đến quá khứ huy hoàng của Gdansk nói riêng và quần thể các thành phố cảng Hansa (trong đó có Torun) nói chung. Tôi thì ngược lại, tôi đến đây để tìm hiểu rõ hơn khía cạnh lịch sử này. Cũng có thể vì tôi đi theo trục đường khác (từ Torun đâm lên) nên sự kỳ vọng về Gdansk có phần khác. Lịch sử của Gdansk có quan hệ mật thiết với thời trung cổ và với những quốc gia láng giềng ven rìa bờ biển Baltic. Cũng như Torun, Gdansk giao lưu thương mại và văn hóa với các quốc gia thuộc dòng Đức và Flamand (xuất xứ từ Hà Lan và Bỉ ngày nay). 

 Không khó có thể nhận ra điều này qua ảnh hưởng kiến trúc. Nhìn vào những tòa nhà bằng gạch nung đỏ, đôi khi bạn đang có cảm giác ở trung tâm Bruges hay nhà ga ở Amsterdam. Các thương gia Đức đổ xô về đây lập nghiệp và Gdansk trong quá khứ thậm chí là một thành phố văn hóa Đức với cái tên Danzig. So với Torun, sự phát triển của Gdansk có phần khác hơn một chút. Thứ nhất, Gdansk phất lên chủ yếu nhờ xuất khẩu một mặt hàng rất xa xỉ ở Châu Âu : đá amber. Thứ hai, thời kỳ hoàng kim của Gdansk dài hơn so với Torun, kéo dài đến những thế kỷ 16-17 chứ không lụi tàn nhanh như Torun (chỉ phất lên vào những thế kỷ 13-15). 
 Chính vì vị trí chiến lược của Gdansk, thành phố là tâm điểm của sự thèm muốn của các thế lực lân cận và là nguyên nhân của nhiều cuộc chiến tranh. Sau hơn 300 năm đỉnh cao, thành phố bắt đầu rơi vào giai đoạn thoái trào khi mà người Thụy Điển và Nga bắt đầu lớn mạnh dần và chiếm lĩnh khu vực biển Ban-tích vào thế kỷ 18. Cũng vào thời kỳ đó, hoàng gia Ba Lan suy yếu và để cho người Áo, Phổ và Nga xâm chiếm toàn bộ lãnh thổ và biến mất khỏi bản đồ chính trị Châu Âu trong vòng hơn một thế kỷ. Gdansk bi chia cắt khỏi nước Ba Lan và chịu sự đô hộ của người Phổ (nước Đức ngày nay) trong vòng hơn 100 năm. Vào đầu thế kỷ 20, Gdansk được trả lại sự tự do nhưng sự yên bình cũng không tồn tại được lâu khi mà thế chiến thứ II nổ ra. Gdansk là một trong những thành phố bị tàn phá nhiều nhất Châu Âu. Toàn bộ cơ sở hạ tầng bị phá hoại 90% và phải mất vài chục năm, các tòa nhà cổ kính mới được khôi phục lại nhờ những công sức to lớn của chính người dân thành phố. 

So với Torun, quần thể kiến trúc cổ của Gdansk không được nguyên vẹn bằng, một phần là do đã bị phá hủy quá nhiều. Hệ thống tường thành phòng thủ xưa kia hầu như không còn nữa, chỉ còn sót lại lèo tèo vào cái cổng thành đồ sộ. Chiếc cổng thành Zuraw là biểu tượng rõ nét nhất của Gdansk, có thể thấy nó trên hầu hết các postcard. 

  Đi men theo con đường vìa thành, bạn có cảm giác như đang sống lại thời kỳ phồn thịnh của thành phố cảng với hàng chục tàu gỗ cập bến mỗi ngày để chất lên hàng tấn mặt hàng xa xỉ đổi lấy những nguyên liệu xuất xứ từ Châu Á và Trung Đông. 

 Cấu trúc đô thị cổ của Gdansk có gì đó giống như phố cổ Hà Nội. Trong quá khứ, chính quyền địa phương đánh thuế rất nặng vào chiều dài mặt tiền của các tòa nhà. Vì thế, cách duy nhất để phát triển diện tích nhà là theo chiều cao và chiều sâu. Đây là một đặc điểm khá phổ biến của nhiều thành phố khác của Châu Âu chứ không riêng gì ở Gdansk. Chúng ta có thể thấy điều tương tự ở Bruges, Stockholm, Copenhagen hay Amsterdam (tôi đã đi qua cả 4 thành phố này). Phố cổ Hà Nội của chúng ta thì khác hơn một chút. Ngoài việc bị đánh thuế về chiều rộng mặt tiền, triều đình nhà Nguyễn còn cấm xây nhà cao quá 2 tầng vì đó là tội phạm úy (dám xây nhà cao hơn nhà của vua). Vì thế, nhà cổ của Hà Nội không những bị hạn chế về chiều rộng mà còn cả chiều cao nữa, điều này bắt buộc dân phải phát triển diện tích theo chiều sâu, đôi khi lên đến 200m (các bạn cứ thăm thử số nhà 87 Mã Mây là biết liền). Trong khi đó, các ngôi nhà của Gdansk do “dễ thở hơn” về chiều cao nên chỉ có nhu cầu phát triển chiều sâu đến 100m là cùng 

 Con đường chính của khu phố cổ là Dluga Street. Đây cũng là khu vực tập trung các hoạt động văn hóa và thương mại tấp nập nhất thành phố. Dọc theo nó là một loat các gia đình quý tộc giàu lên nhờ thương mại. Tất nhiên, những gì đang hiện ra trước mắt tôi chỉ là những công trình đươc xây dựng lại theo đúng phiên bản của những thế kỷ 15-18. 

  Trong số những ngôi nhà cổ còn nguyên vẹn, chỉ còn lại ngôi nhà Uphagen House, một ví dụ điển hình cho cấu trúc ngôi nhà của một gia đình tư sản quyêng quý phất lên từ thương mại đường biển. 
 Có nguồn gốc từ trung cổ, cấu trúc của ngôi nhà bị thay đổi nhiều lần để phù hợp với thị hiếu nội thất của từng thời kỳ. Những gì du khách thấy hiện nay chủ yếu là di sản còn lại của thế kỷ 18, dưới sự sở hữu của một thương nhân giàu có người Hà Lan tên là Uphagen. 

 Ngoài khu vực bờ cảng, tòa nhà Artus Court cùng với tháp phun nước Neptune là biểu tượng thứ hai của Gdansk. Artus Court House là minh chứng cụ thể nhất cho quá khứ hào hùng của thành phố cảng. Tên gọi Artus có nguồn gốc từ truyền thuyết vua Arthur (trong tiếng latinh, Artus có nghĩa là Arthur) và 12 hiệp sĩ bàn tròn. Vậy tại sao người dân Gdansk lại chọn tên gọi này? Đặc trưng của câu chuyện 12 hiệp sĩ bàn tròn đề cao sự cao thượng của hiệp sĩ, sự bình đẳng giữa 12 thành viên và sự đoàn kết của tất cả. Trong công việc buôn bán thương mại của Gdansk vào thời trung cổ, các thương gia của thành phố nhận thấy rằng tất cả các đơn vị thương mại cũng cần phải có những giá trị như thế thì mới có thể phát triển thành phố cảng được.Vì thế, họ cho xây khu sảnh Artus như là biểu tượng của sự đoàn kết các doanh nhân và là nơi tổ chức các bữa tiệc xa xỉ dành cho giới thượng lưu. Ngoài ra, sảnh Artus còn đóng vai trò như nơi cầm trịch về luật kinh tế : tất cả những điều khoản hay trao đổi về thương mại giữa các doanh nhân trong và ngoài thành phố đều phải được thông qua tại đây.  Artus Court House được cho là nơi bảo vệ quyền lợi cho các hiệp hội ngành nghề thương mại, hay các guild (cái này đã được giải thích trong bài trước khi tôi đặt chân đến Torun). Những thế kỷ 13-15 là giai đoạn hoàng kim của tòa nhà Artus Court với những buổi tiệc tùng xa hoa. Số mệnh của tòa nhà cũng thăng trầm theo lịch sử của thành phố cảng Gdansk. Bước vào lề của những thế kỷ 17-18 cũng là lúc thời trung cổ qua đi và những giá trị hiệp sĩ kiểu arthur không còn nữa. Những bữa tiệc xa xỉ theo kiểu trung cổ vì thế cũng biến mất và thay vào đó là hoạt động kinh tế hợp với thời đại hơn : hoạt động giao dịch chứng khoán. Số phận của tòa nhà kết thúc bằng một phát bom của phát xít Đức. Được phục hồi lại trong những năm 1970, tòa nhà này không được mở cho du khách mà chỉ đóng vai trò là nơi đón tiếp các nguyên thủ quốc gia hoặc đại loại như thế

 Đài phun nước với bức tượng thần biển Neptune được xây dựng vào thế kỷ 17 theo dòng nghệ thuật phục hưng. Bức tượng này tượng trưng cho linh hồn của Gdansk : sinh ra và lớn lên từ biển cả. 
 Gdansk phất lên nhờ việc chế biến và buôn bán amber và đến đây không thể không thăm viện bảo tàng amber, tọa lạc trong một tòa nhà trước kia là một nhà tù. Amber là  một loại khoáng sản có nguồn gốc từ nhựa thông và hóa thạch sau hàng chục triệu năm. Đặc điểm hóa thạch của đá amber là sự trong suốt của nó. 

 Không chỉ hóa thạch từ nhựa thông mà đôi khi còn có nhiều cá thể khác cũng hóa thạch cùng (côn trùng, súc vật). Vì thế, nhiều nhà khảo cổ khai thác đá amber còn thấy những bộ xương hóa thạch nằm trọn trong một tảng đá amber trong suốt. Rất có thể kiểu cách hóa thạch này là một nguồn cảm hứng cho các nhà làm phim công viên kỷ Jura, với những bộ xương khủng long hóa thạch nằm trong khối đá trong suốt rồi bỗng nhiên hồi sinh. Với hình dáng độc đáo, đá amber là một mặt hàng xa xỉ và nổi tiếng ở Châu Âu ngay từ thời La Mã cổ. 

 Sử sách ghi lại rằng con đường thương mại giữa vùng biển Baltic và thủ đô Rome nở rộ chủ yếu nhờ mặt hàng này. Từ các lãnh thổ thuộc Ba Lan, Latvia hay Litva ngày nay, các phái đoàn caravan chở rất nhiều đá amber đi qua Wroclaw, xuống cộng hòa Séc, Hungary,Áo rồi mới đến Rome. Các phái đoàn này thường được bảo vệ rất chặt chẽ nhờ các quân đoàn lê dương La Mã, nguyên nhân là do lãnh thổ các vùng ven biển Baltic hồi ấy không thuộc đế chế La Mã mà thuộc sự quản lý của các bộ tộc địa phương, được người La Mã cho là dân “mọi”, rất nguy hiểm và có thể cướp bóc dọc đường. 

 Lịch sử của Gdansk gắn liền với đá amber và không quá ngạc nhiên khi thấy rất nhiều cửa hàng lưu niệm tập trung bán đồ liên quan đến đá amber. Ở đây, có một con đường tên là Mariacka, chuyên trưng bày bán các loại đá amber. Nhiều khi tôi tự hỏi trong số vô vàn các phiến đá amber đẹp lỗng lẫy này, bao nhiêu trong số đó là thật. Và ai mà biết được, có khi một số còn có xuất xứ từ Trung Quốc cũng nên. Dọc theo con đường Mariacka là một loạt các ngôi nhà cổ với cấu trúc rất đặc trưng Gdansk, đó là những hiên nhà nhô ra đường chính và được trang trí rất đến.

Đêm đầu tiên của tôi ở thành phố Gdansk kết thúc với một giấc mơ mang đậm phong cách trung cổ. Trong giấc mơ ấy, tôi nhập vai….một thằng hầu bàn tiếp rượu cho các vị hiệp sĩ và giới thượng lưu của thành phố Gdansk. Tiếp theo dấu ấn của những Torun và Gdansk, tôi thăm một địa danh thứ ba cũng khét tiếng về di sản từ thời trung cổ và thậm chí còn được công nhận bởi Unesco : pháo đài Malbork. Có thể nói địa danh này là một kết thúc có hậu cho hành trình quay ngược thời gian của tôi. 

 Chỉ cách Gdansk khoảng 45mn tàu hỏa, pháo đài này hội tụ tất cả những gì bạn mường tượng qua những bộ phim như Robinhood. Được xây dựng vào thế kỷ 13 bởi các hiệp sĩ gốc Đức, Malbork có cái tên gốc Đức là Marienburg(lâu đài đức mẹ Maria). Nói đến đây, có lẽ phải giải thích kỹ hơn một chút về sự có mặt của các vị hiệp sĩ gốc Đức này. Vào những thế kỷ 11-13, một dòng hiệp sĩ với cái tên Teutonic được tạo ra với mục đích tháp tùng các phái đoàn tín đồ thiên chúa giáo đi hành hương đến Jerusalem (nay là đất nước Israel). Các vị hiệp sĩ này được vua Ba Lan mời về giúp đỡ nhà vua đi chinh phạt các lãnh thổ rải rác trong vương quốc, lúc bấy giờ vẫn chưa chịu công nhận thiên chúa giáo là tôn giáo chính. Nhưng theo dòng thời gian, thay vì đi truyền đạo bằng phương pháp hòa bình, các vị hiệp sĩ này sử dụng bạo lực và thậm chí còn phát triển quyền lực lớn mạnh đe dọa đến ngôi báu của vua Ba Lan. Trong suốt khoảng thế kỷ 13-14, các vị hiệp sĩ Teutonic cho xây nhiều công trình quân sự đồ sộ như kiểu pháo đài Malbork để khống chế các vùng thương mại ven biển Baltic vốn dĩ rất béo bở về kinh tế. Sự hiện diện của các hiệp sĩ Teutonic như cái gai trong mắt vua Ba Lan và nhà vua cho tiến hành một cuộc chiến tranh diệt cỏ tận gốc. Quân đội của các hiệp sĩ Teutonic thua hết trận này đến trận khác và pháo đài Malbork gần như là điểm tử thủ cuối cùng của họ. Lịch sử ghi chép lại rằng hệ thống phòng thủ của Malbork quá kiên cố và gây khó khăn cho quân đội Ba Lan. Không thể xuyên thủng được cổng thành, người Ba Lan buộc phải chơi chiêu hố lộ nội gián bên trong thì mới dành được chiến thắng.  

  Nhìn từ bên ngoài vào, trông pháo đài Malbork thật đồ sộ và bạn sẽ có ý nghĩ chắc hẳn bên trong sẽ có nhiều thứ đáng xem lắm đây. Tuy nhiên, khi bước vào bên trong, tôi khá thất vọng với cách tổ chức của ban quan lý pháo đài. Tại đây, không có bất cứ biển chỉ dẫn nào được viết bằng tiếng Anh, không có bản đồ và các biển chỉ dẫn thì thật là tệ. Tôi không biết đâu sẽ là căn phòng kế tiếp hoặc những chỗ nào không được vào. Sự tổ chức yếu kém này không xứng đáng với cái giá 13usd và theo tiêu chuẩn của những địa danh được xếp hạng Unesco, đáng lẽ ra phải có tài liệu bằng tiếng Anh. 

 Nhờ những thông tin hữu ích từ các diễn đàn du lịch, tôi đã có được sự chuẩn bị tối thiểu để tránh những sự kiện củ chuối diễn ra bên trong pháo đài, đặc biệt là liên quan đến chất lượng phục vụ. Đúng là củ chuối thật! Vé thì đã mất 13usd nhưng số tiền đó chưa bao gồm phí cho phép chụp ảnh. Vì thế, nếu bạn là người mê chụp ảnh, bạn sẽ phải nôn thêm 2usd nữa. Một điều củ chuối nữa liên quan đến dịch vụ thuê hướng dẫn viên thuyết minh điểm.

tượng của những vị thủ lĩnh nổi tiếng nhất đứng đầu dòng hiệp sĩ Teutonic
và mộ phần của họ bên trong một nhà thờ
 Có vẻ như chưa hài lòng với mức giá tham quan, chính quyền địa phương còn gây khó dễ với du khách bằng cách hoặc họ đi theo tour đoàn, hoặc phải thuê dịch vụ hướng dẫn viên địa phương, hoặc một giải pháp cuối (cái này thì tôi được diễn đàn mách nước cho) : mang theo một quyển cẩm nang du lịch kiểu Lonely Planet trong tay và chứng minh cho mấy ông kiểm soát viên thấy là mình không vào lâu đài tay không.  

 Pháo đài Malbork không chỉ là ví dụ điển hình về dòng kiến trúc gô-tích gạch nung đỏ đặc trưng Bắc Âu mà còn tiêu biểu cho công nghệ xây dựng lâu đài bậc thầy của các tổ chức hiệp sĩ thời trung cổ. Sau này, khi tôi đặt chân đến đất nước Syria và thăm những lâu đài đồ sộ xây bởi người Châu Âu, tôi vẫn luôn nhớ về Malbork. 

  Giống như thành phố Gdansk, pháo đài Malbork bị bom đạn chiến tranh tàn phá 50% chỉ có điều đây không phải là bom đạn của phát xít Đức mà là của hồng quân Liên Xô. Chính người Đức mới là những người góp nhiều công sức trong việc giúp đỡ người Ba Lan trùng tu lại pháo đài. Chuyến viếng thăm Malbork chỉ kéo dài hơn 2 tiếng những đã để lại trong tôi một ký ức khó quên. Tôi nhanh chóng quay trở lại nhà ga và bắt chuyến tàu quay trở lại thủ đổ Warsaw kết thúc chuyến đi hơn 2 tuần tại quốc gia này.

Saturday, 30 March 2013

Quần thể hang động trên Vịnh Bái Tử Long phong phú không kém nhiều so với Vịnh Hạ Long. Hiện còn nhiều hang động ở đây vẫn giữ được nhiều nét hoang sơ, trong đó có 2 hang động rất đáng để du khách đến tham quan, khám phá sự kỳ bí của thiên nhiên…

Trước tiên phải nói đến hang Nhà Trò. Từ bến cảng Cái Rồng (huyện Vân Đồn), đi bằng tàu khách khoảng hơn 1 tiếng là đến xã đảo Bản Sen. Bản Sen có hệ thống hang động rất phong phú, nhưng đẹp hơn cả là hang Nhà Trò. Từ bến tàu Bản Sen, chèo mủng hoặc đi xuồng máy khoảng 1km sẽ đến được cửa hang Nhà Trò. Có người bảo tên hang Nhà Trò là do người ta liên tưởng nơi đây như một nơi thường diễn ra hát xướng, văn nghệ tựa như nhà hát thời hiện đại...

< Hang Nhà Trò.

Kể cũng không phải không có lý. Vì trong hang rất rộng, tới gần 200m², giống như một cái sân khấu. Ở hai bên “sân khấu” có lối ra vào giống như cánh gà, xung quanh là các nhũ đá giống hình thù quái vật tượng trưng cho phái ác, hay hình đầu người ngộ nghĩnh tượng trưng cho phái thiện.

Xung quanh “sân khấu” có các nhũ đá xếp thành nếp giống như tấm màn nhung của sân khấu xưa.

Phía ngoài vách hang có nhiều hoá thạch vỏ sò, vỏ ốc chứng minh đây là nơi sinh sống của người Việt cổ.

Không chỉ là thắng cảnh đẹp tự nhiên, hang Nhà Trò còn là địa điểm khảo cổ có giá trị. Vì ở các dải trầm tích, các nhà khảo cổ đã tìm thấy các loại vỏ ốc tròn và dẹt, là loại ốc nước ngọt có tên là menali, thức ăn chủ yếu của người tiền sử, lẫn trong tầng hoá thạch có cả xương thú cháy và đá cát két được chế tác thành thứ công cụ làm chày nghiền thuộc kỷ đồ đá mới, cách ngày nay 5-7 nghìn năm.

Hang Nhà Trò còn có gốm Cái bèo (gốm cổ có độ tuổi khoảng 5-6 nghìn năm), các hòn ghè hình rìu đá v.v.. Viện Khảo cổ học Việt Nam khẳng định “Hang Nhà Trò là một chi lưu thuộc văn hoá Hoà Bình, và nơi đây chính là một “kho báu” lịch sử.

Sự phát lộ của hang Nhà Trò chính là một cứ liệu vững chắc làm sáng tỏ nguồn gốc và tính hệ thống liên tục không thể phủ nhận về một nền văn hoá Hạ Long sớm xuất hiện ngay từ thời kỳ đồ đá cũ và xuyên qua thời kỳ đồ đá mới thuộc văn hoá Hoà Bình cách ngày nay khoảng 20.000-5.000 năm”.

Sau hang Nhà Trò, có một hang động khác trên Vịnh Bái Tử Long cũng rất đáng khám phá. Đó là hang Luồn Cái Đé, nằm ở khu vực đảo Cái Lim, hiện quản lý của Vườn quốc gia Bái Tử Long.

< Hang Luồn.

Chỉ có thể vào Hang luồn Cái Đé khi nước kém, vì khi thuỷ triều lên, nước ngập đến tận đỉnh hang. Bề rộng của hang chỉ khoảng 50m, nhưng chiều dài tới hơn 500m xuyên qua một quả núi lớn. Hang luồn Cái Đé là hang duy nhất ở Vịnh Bái Tử Long có thể đi được thuyền trong lòng hang.

Với con thuyền nhỏ, nếu là thuyền chèo bằng tay thì càng thuận tiện, bơi trong lòng hang, ta giống như lạc vào một lâu đài lung linh nhũ đá mọc ở cả hai bên và trên trần hang. Các nhũ đá đủ mọi hình dạng khiến ta thầm cảm phục sự khéo léo tài tình của tạo hoá. Tuy nhiên, việc vào hang khá mạo hiểm và phải có ít nhất 4 người khoẻ mạnh tham gia. Vì trong lòng hang còn có một khu vực bãi cạn, khi đó du khách buộc phải khênh thuyền qua khu vực cạn mới bơi tiếp được.

Bơi thuyền khoảng 10 phút nữa ta đến được Vụng Cái Đé, ở đây là cả một quần thể rừng ngập mặn, những thân cây ngập mặn không nhỏ bé như ta vẫn thấy dọc bờ biển Quảng Ninh mà to lớn, có đường kính khoảng 30cm, cao hàng chục mét và có niên đại hàng trăm năm.

< Trong hang có thể đi được bằng thuyền, du khách thoải mái ngắm nhìn các nhũ đá trông rất đẹp.

Vụng Cái Đé chỉ rộng khoảng 10 ha, nhưng đây là vựa ngán khổng lồ, ước tính có thể khai thác được khoảng 10 tấn ngán/năm. Đã có thời kỳ nơi đây đã hình thành đội ngũ cai đầu dài, chuyên cai quản những người khai thác ngán. Từ khi Vườn quốc gia Bái Tử Long được thành lập, đội ngũ cai đầu dài bị dẹp bỏ. Ngày nay, hang luồn Cái Đé vẫn chứa trong nó những bí ẩn mà chỉ một số ít người ưa phiêu lưu mạo hiểm mới qua lại…

Du lịch, GO! - Theo Công Thành (Báo Quảng Ninh) cùng nhiều nguồn ảnh khác trên internet
Thăm bảo tàng Chăm, leo lên đỉnh Ngũ Hành Sơn... là những điều mà nhiều du khách có thể thử bên cạnh tắm biển và ăn hải sản ở Đà Nẵng.
Từ lâu, Đã Nẵng đã không còn là điểm đến xa lạ với du khách trong nước và quốc tế.

< Cầu Rồng vừa khánh thành tại Đà Nẵng.

Ở thành phố biển xinh đẹp này có rất nhiều điều thú vị để khám phá, từ những bãi biển trong xanh, nền văn hóa đậm đà bản sắc, những kỳ quan khảo cổ học cho tới những món ăn mang đậm đặc trưng vùng miền hay những khu resort sang trọng. Song, có những điều mà không phải ai tới Đà Nẵng cũng từng trải qua.

Khám phá bảo tàng điêu khắc Chăm

Bảo tàng trưng bày các tác phẩm điêu khắc của dân tộc Chăm, những người sinh sống tại miền Trung từ năm 192 tới năm 1835. Bảo tàng được xây dựng bởi người Pháp với nét kiến trúc mang đậm ảnh hưởng của văn hóa Chăm. Nghệ thuật điêu khắc và trang trí đều được thể hiện rõ trong các ngôi đền hay tòa tháp ở khắp khu vực miền Trung và những công trình này đều ra đời trong khoảng từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 17. Bảo tàng có khoảng 300 tác phẩm điêu khắc khác nhau được trưng bày phía trong và ngoài tòa nhà chính. Giá vé vào thăm bảo tàng là 30.000 đồng.

Thăm nhà thờ Lớn Đà Nẵng (Nhà thờ Con Gà)

Nằm trên đường Trần Phú, trung tâm của thành phố Đà Nẵng, nhà thờ Lớn được xây dựng từ năm 1923 để phục vụ cho những tín đồ công giáo người Pháp cư trú tại Việt Nam khoảng thời gian đó. Người dân địa phương vẫn quen gọi nhà thờ Lớn với tên nhà thờ Con Gà vì trên nóc nhà thờ có biểu tượng con gà màu xám làm bằng hợp kim nhẹ rỗng. Với lối kiến trúc theo kiểu Gothic, đặc trưng là những đường nét cao vút và những vòng cửa quả trám, nhà thờ Lớn Đà Nẵng là một địa điểm thú vị để du khách thăm quan, chụp ảnh.

Đi lễ chùa Pháp Lâm

Nét thiết kế nổi bật nhất, đại diện cho văn hóa và lịch sử Đà Nẵng nằm ở kiến trúc các tòa nhà, đặc biệt là những ngôi chùa ở đây. Trong đó, chùa Pháp Lâm lớn nhất thành phố Đà Nẵng là địa điểm bạn nên đến để cảm nhận kiến trúc độc đáo và cầu mong những điểu tốt đẹp cho gia đình, người thân. Ngôi chùa mang lối kiến trúc hoàn toàn Á đông do kiến trúc sư nổi tiếng Đặng Cao Đệ vẽ kiểu. Chánh điện được bố trí trang nghiêm. Tượng Đức Bổn Sư ngồi cao 1,10 m và hai tượng Bồ Tát Quan Thế Âm, Đại Thế Chí được đúc bằng đồng. Chùa mở cửa đón tiếp du khách từ 5h đến 11h30 và từ 13h đến 21h30.

Leo núi Ngũ Hành Sơn

Ngũ Hành Sơn bao gồm 5 ngọn núi nằm ở phía tây nam của Đà Nẵng, trên đường đi Hội An. Vua Minh Mạng đã đặt tên mỗi ngọn núi tượng trưng cho các yếu tố trong vũ trụ là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Sâu trong những ngọn núi này đều có các ngôi đền, thậm chí cả chùa được chạm khắc công phu. Tuy nhiên, núi Thủy Sơn (hay còn gọi là núi Tam Thai) là ngọn núi lớn, cao và đẹp nhất nên thường được nhiều người leo lên đỉnh nhất. Đến đây, bạn có thể khám phá những hang động, những ngôi đền, đường hầm hay đơn giản chỉ đứng trên đỉnh núi để phóng tầm mắt ra xa và cảm nhận vẻ đẹp của thành phố Đà Nẵng.

Du lịch, GO! - Theo An Thy (ngoisao.net), internet
Làng cổ Đường Lâm, Sơn Tây là nơi thu hút không ít nhiếp ảnh gia, đạo diễn, các nhà quay phim và nhiều học giả. Không chỉ có truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời, đây còn là mảnh đất du lịch rất đẹp. Đặc biệt, Đường Lâm có chùa Mía ẩn mình trong sương sớm, nơi để con người chìm vào thế giới thâm nghiêm, tạm quên đi cuộc sống ồn ào, vội vã.

Không giống như nhiều ngôi chùa khác, chùa Mía vào mùa xuân không ồn ào hay nghi ngút khói hương mà vẫn yên tĩnh, trang nghiêm.
Chùa Mía tọa lạc trên mảnh đất xứ Đoài giàu truyền thống, nơi hội tụ quần thể di tích gồm nhiều đền chùa, miếu mạo, phản ánh quá trình xây dựng và gìn giữ một vùng đất giàu truyền thống lịch sử.

Chùa Mía tên hiệu là “Sùng Nghiêm Tự”, nằm trên vùng đồi của làng Đông Xàng (xã Đường Lâm, thành phố Sơn Tây), cách Hà Nội gần 50 cây số về phía tây. Đường Lâm là một điển hình làng cổ Việt Nam, vừa được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Nơi đây vẫn còn cây đa, bến nước, sân đình, những ngôi nhà đỏ rực tường đá ong kiên cố, như chẳng hề có vết tích thời gian.

Thế kỷ XVII, chùa bị hư hỏng, điêu tàn đổ nát. Năm 1632, Cung phi Nguyễn Thị Ngọc Dung đã đứng ra khuyến mộ thiện nam tín nữ các làng Đông Xàng, Mông Phụ, Cam Thịnh, Cam Toàn… các làng thuộc Tổng Mía cùng tôn tạo lại. Cung phi Ngọc Dung còn gọi là Ngô Thị Ngọc Diệu, là phi tần trong phủ chúa Trịnh Tráng (1623-1657) vốn là người làng Nam Nguyễn (Nam An). Nhân dân trong vùng mến mộ uy đức của bà, đã tạc tượng đem thờ ở chùa. Người dân nơi đây tôn sùng bà là “Bà Chùa Mía”. Về sau, Chùa được tu bổ nhiều lần, nhưng đến nay từ quy mô đến kiến trúc của chùa vẫn được giữ gần như nguyên vẹn. Tấm bia dưới gác chuông ghi năm Vĩnh Tộ thứ ba (1621) nói về việc lập chùa.

Ngày nay, con đường đi vào chùa Mía đã được xây đắp lại, đẹp và sạch sẽ hơn. Từ trung tâm thành phố Sơn Tây, đi khoảng 5 cây số là đến cổng chùa. Từ đây đi thêm một quãng nữa, du khách sẽ đi qua chợ Mía, ngôi chợ nhỏ, để người dân buôn bán nông sản.

Ghé vào quán của một cụ bà, ngắm cổng tam quan đơn giản, mộc mạc được tán cây đa già che chở, hẳn nhiều người đều có cảm giác dường như mảnh đất này không hề chịu tác động từ thế giới bên ngoài. Chùa Mía giản dị ngay từ cái nhìn đầu tiên, để du khách khi bước vào mới thấy vẻ đẹp này mấy nơi có được. Chùa Mía không ồn ào bởi nhiều dịch vụ trong cúng lễ như ở các đền chùa khác, không sơn son thếp vàng như những ngôi chùa phương Nam, đặc biệt là có một số lượng lớn tượng cổ.

Cấu trúc chùa Mía gồm các tòa tam quan, chính điện, thượng điện, nhà tổ, hành lang san sát, nối kề nhau theo hình chữ Mục. Bước qua cổng Tam quan, nhìn sang bên phải, du khách sẽ nhìn thấy cây đa cổ, gốc to khít vòng tay mấy người ôm, rễ cây rắn chắc nổi lên trên mặt đất. Đối đỉnh với ngọn đa già là tòa bảo tháp cử phẩm Liên hoa. Tòa tháp này mới được xây dựng để thờ vọng Xá lợi Phật. Đây cũng là ngọn Tháp bút, Kính thiên, được coi là trấn giữ cho mạch âm của làng quê được an lành và phát triển. Đi vào bên trong là khu nội điện gồm tiền đường, đại hùng, bảo điện, thượng điện được cấu trúc theo kiểu “Nội công ngoại quốc” rất bề thế.

Thắp hương ở đền chính rồi cứ thế men theo những hành lang nối dài, ban thờ này nối tiếp ban thờ kia, không bao giờ phải quay lưng lại ban thờ nào. Cảm giác uy nghiêm, bao bọc linh thiêng của chốn Phật đường, dễ dàng tạo cảm giác yên bình, tĩnh tại.

Phía trái tiền đường có một tấm bia cao ngang đầu người đặt lên lưng một con rùa đá lớn, có niên đại từ thời Đức Long năm thứ 6 (1632) đời Lê. Tấm bia ghi lại công trạng của Bà Chúa Mía đã dựng chùa ra sao. Tấm bia được coi là to lớn và cổ xưa nhất còn lưu giữ đến ngày nay.

Tháng 5-2006, Thành hội Phật giáo TP.HCM kết hợp với Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam công bố 10 kỷ lục văn hóa Phật giáo Việt Nam, trong đó có Chùa Mía là nơi lưu giữ nhiều tượng nghệ thuật nhất Việt Nam. Ở đây có đến 287 pho tượng thờ, trong đó có 174 tượng bằng đất nung sơn son thếp vàng, 107 tượng mộc và sáu pho tượng bằng đồng.

Những pho tượng nổi tiếng là tác phẩm điêu khắc sinh động như: tượng Tuyết Sơn, tượng Di Lặc, tượng Bát Bộ Kim Cương…

Tượng Tuyết Sơn cao 0,76m, không to lớn và nổi tiếng như tượng Tuyết Sơn ở chùa Tây Phương, nhưng cũng được điêu khắc, chạm trổ rất tinh xảo. Tám pho tượng làm bằng đất nung ở tòa thượng điện lại đặc biệt nổi bật với hình khối, bố cục vững chắc, thân hình khỏe khoắn, hài hòa, thể hiện con mắt và bàn tay tinh xảo của những nghệ nhân xưa.

Trái với những đường nét chạm khắc đầy oai nghiêm trên bức tượng Bát Bộ Kim Cương là tượng Quan Âm Thị Kính với những đường nét mềm mại, uyển chuyển và tinh xảo. Tượng miêu tả một người phụ nữ thùy mị, gương mặt phúc hậu, bế đứa nhỏ bụ bẫm, kháu khỉnh. Người dân làng Mía đã tự hào với pho tượng Quan Âm Thị Kính trong chùa mà sáng tác câu thơ:

Nổi danh chùa Mía nhà ta
Có pho tống tử Phật Bà Quan Âm

Chùa Mía không rộng và đông đúc khách thập phương đến viếng như chùa Tây Phương, chùa Hương hay những ngôi chùa nổi tiếng khác. Ghé thăm chùa vào những ngày đầu xuân, vẫn thấy chùa yên tĩnh, cổ kính như ngày thường.

Khách viếng chùa không ồn ào, chen chúc. Khói hương không nghi ngút, thoảng trong không gian tĩnh mịch là tiếng chuông chùa văng vẳng. Người dân ở đây hiền lành quá, chẳng ai dám phá vỡ khung cảnh tĩnh mịch của ngôi chùa cổ linh thiêng.

Từ chùa Mía, du khách đi bộ khoảng 300m là tới một ngôi đền mà các cụ bán hàng trước cổng gọi là đền Mẫu. Người dân đi lễ chùa Mía ngày xuân thường sang đây xin một quẻ thẻ đầu năm lấy may, rồi xin bảng thẻ theo số quẻ thẻ rút được. Không có thầy giải quẻ, nhưng ai nấy đều tự luận bảng giải, cũng là niềm tin tưởng về một năm nhiều tài lộc, may mắn.

Du lịch, GO!- Theo MỸ HẠNH (Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần), ảnh internet
Không ngoa khi gọi Hội An là xứ ăn hàng. Thành phố chỉ nhỏ như một bàn cờ, đi một vòng lại về chốn cũ, thế mà để thưởng thức hết những món ăn lề đường ở đây, du khách phải lưu lại một tuần đến mười ngày.
Có món tên gọi nghe lạ và chỉ riêng có ở Hội An như cao lầu, còn hầu hết đều quen như bánh mì, bánh bèo, bún thịt nướng, bún bò, phở, cơm gà, bánh đập, chè bắp, chè đậu ván… nhưng phải thử ăn, ta mới à lên rằng tưởng quen mà lại lạ.

Mấy trăm năm hàng rong

Phố thị ra đời cùng cuộc mở cõi của các chúa Nguyễn Đàng Trong. Thương cảng Hội An sầm uất một thời từng là nơi giao lưu của nhiều nền văn hoá cả Đông lẫn Tây.

Trải thêm nhiều thăng trầm của lịch sử, phố tuy phồn hoa chẳng sánh nổi chốn kinh kỳ, thanh lịch chẳng bì kịp đất Thăng Long nhưng từ thẳm sâu lòng phố đã thành hình dấu ấn riêng, mà rất nhiều ngấn tích còn giữ lưu nơi những món ăn và cả cách ăn của người phố Hội.

Dấu ấn riêng đó là sự thẩm thấu nhuần nhị của văn hoá Việt và Hoa, đâu đó còn thấp thoáng cả bóng hình Phù Tang và Pháp. Dấu ấn riêng đó là sự gặp gỡ nơi khúc ruột miền Trung văn hoá của những người mở cõi và cả những cuộc thiên di cùng với biến thiên thời cuộc.

< Món thịt xiêm que bày bán trên vỉa hè.

Người Hội An thích ăn hàng. Đặc tính đó luân lưu nhiều thế hệ và đã trở thành văn hoá. Văn hoá ăn hàng này có lẽ cắm rễ sâu xa với nền kinh tế tiểu thương hình thành từ thời cảng thị. Tiểu thương có nhu cầu ăn nửa buổi, ăn chơi nên cũng lắm món ăn chơi ra đời và truyền lưu ở xứ này.

Mấy trăm năm đã qua, nhịp sống Hội An ngày nay vẫn hãy còn nhàn nhã để giữ lưu những tiếng rao nhẩn nha qua từng con đường nhỏ, và người Hội An vẫn chưa bị “thế giới phẳng” cuốn trôi nên họ vẫn chờ những gánh hàng ngày ngày diễu qua phố để thấy đời thật giản đơn.

< Nhiều gánh hàng rong tập trung trên đường Nguyễn Thái Học.

Người Hội An thường điểm tâm bằng tô phở Liến nằm ngay trung tâm phố cổ. Phở Liến có lịch sử hơn nửa thế kỷ, là quán phở lâu đời nhất. Phở Hội An không giống phở Bắc, chẳng giống phở Sài Gòn. Bánh phở không mềm mà dai dai, sừn sực hình như người Hội An không thích cái gì mềm mại quá (cả cao lầu cũng chẳng mềm)!

Người làm bánh phở tráng bánh rồi đem phơi, nhưng không được khô quá để khi dùng chỉ cần trụng qua nước sôi.

Nước phở ngoài vị ngọt của xương như những nơi khác còn cộng thêm vị bùi bùi, thơm thơm của đậu phộng sa tế giã nhuyễn. Ngoài rau quế ăn kèm, phở Hội An còn có cả dưa chua làm từ đu đủ xắt lát mỏng ngâm giấm. Ăn một tô phở Hội An, ta gặp một món ăn ngỡ như quen mà lại lạ.

Tôi đã từng băn khoăn liệu món ăn này có phải là sự gặp gỡ giữa ẩm thực Việt và Hoa? Sự lưu trú lâu đời của cư dân người Hoa khiến cho món ăn vốn thuần chất Việt phải uyển chuyển đổi thay để dung chứa cả thói ăn của những người dân mới?

Món ăn chơi theo giờ giấc

Tầm 9, 10 giờ ở Hội An, các cô bán chè lại quảy gánh rồi tìm tới một vỉa hè có bóng cây, vừa ngả nón lá quạt mát, vừa rao lanh lảnh “Chè đậu ván nước đá”.

Phố có nhiều chè, nhưng có lẽ đặc trưng nhất là chè đậu ván, món vừa ăn chơi vừa giải khát trong những bữa xế trưa đổ lửa miền Trung. Nước chè trong veo, thêm vài miếng lường phảnh đen bóng, cùng với vài giọt quất chua đủ sức xua tan cơn mệt mỏi giữa trưa hè. Ăn chè đậu ván mà không có quất là mất đi phân nửa vị ngon, cái kiểu ăn này, hình như tôi chưa từng gặp ở nơi khác.

Xế chiều, khoảng 3, 4 giờ, những gánh hàng từ ngoại ô lũ lượt đổ về phố xoá đi sự uể oải của buổi chiều. Món buổi chiều thường là món ăn chơi, ăn cho vui chứ không cốt no để còn ăn cơm chiều nữa. Bánh bột lọc, bánh ướt thịt nướng, bột báng, bánh bèo… những thức quà rẻ tiền của dân nghèo vùng ngoại ô thân thuộc với dân phố đã nhiều đời.

Bánh bèo Hội An, cũng như nhiều vùng quê đồng ruộng Quảng Nam khác, thường to và dày chứ không nhỏ xinh, mỏng mảnh cách cung đình kiểu bánh bèo Huế. Nước xốt chan lên bánh được làm từ bột gạo xào chung với tôm và thịt ba chỉ băm nhỏ, thêm một chút bột điều tạo thành một thứ sền sệt màu cam, thơm ngon. Bánh bèo phải ăn kèm với ram vừa giòn vừa béo được chiên từ những cọng mì cao lầu khô. Khi ăn, chan thêm một chút nước mắm ớt tỏi nữa thì hoàn hảo.

< Du khách nước ngoài ghé vào xe bán dạo bánh tiêu.

Buổi khuya Hội An, không gì thích bằng ngồi ghế đá cạnh sông Hoài nhâm nhi ổ bánh mì Phượng nóng giòn, thơm phức trong không khí dìu dịu của nước, của trời. Bánh mì Hội An không nguội và nhiều thịt như bánh mì Sài Gòn.

Bánh mì Hội An bao giờ cũng giòn và nóng, patê, thịt xíu, rau dưa, chả lụa, nước xốt, tương ớt… tất cả đều tiết chế một cách vừa đủ để khi tổng hoà thành ổ bánh mì thì vừa miệng đến miếng cuối cùng, rồi còn thòm thèm muốn ăn thêm ổ nữa. Tôi đã nhiều lần nghĩ về ổ bánh mì Phượng Hội An như một sản phẩm của sự làm nên dư vị. Và quả thực, dư vị đó đã theo tôi rất lâu sau nhiều năm xa phố.

Tôi chỉ mới dạo một vòng phố, cùng vài món ăn hàng trong một ngày. Người Hội An còn nhiều món ăn theo mùa, theo lễ nữa. Mỗi món ăn đều có “cái cớ” để ăn vào thời gian đó, địa điểm đó bởi ăn hàng ở Hội An không chỉ là ăn, mà còn là văn hoá. Ăn hàng không chỉ để thưởng thức hương vị mà còn để khám phá những trầm tích của Phố qua từng món ăn.

Ẩm thực dân dã Hội An

Du lịch, GO!- Theo Ngô Phương Tử - Nguyễn Vinh (Sài Gòn tiếp thị), internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống