Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Tuesday, 2 April 2013

(Phần cuối) Về à? Hôm trước đi, hôm sau về... là chuyện hiếm khi xẩy ra trong những chuyến phượt của bọn mình (trừ lần đi Đà Lạt, do chỉ đơn thuần là công việc)... vậy nhưng lần này Trời xui đất khiến, hết hứng khởi thì go home!

< Về thu xếp đồ đạc, trả phòng rồi đi. Nhà nghỉ HD mọi thứ đểu tạm được, ngon nhất là wifi nhưng nước rất tệ, go thôi!

Do thời gian còn khá sớm (lúc này chỉ mới gần 10h sáng nên bọn mình sẽ rời Phước Long theo đường nối từ ngã 4 cầu Thác Mẹ ra TL741 rồi xuôi theo đường nội ô 6 Tháng 1 để rờ phường Thác Mơ, hướng về Phước Bình.

< Từ ngã 4 cầu Thác Mẹ: con đường nối ra TL741 nhỏ thôi nhưng hai bên bạt ngàn vườn điều (vị trí ngã 4 tại đây).

Trong thật tế thì Bình Phước cũng có lắm cảnh đẹp mà mình đã đề cập tới trong bài trước. Tuy nhiên, nếu có thể thì bạn nên du lịch ở vùng này vào mùa mưa vì nhiều cảnh đẹp tại đây là thác và hồ - mưa mới có nước lai láng được. Với lại nhiệt độ cũng không quá sốc như lúc bọn mình đến.

< Bảng báo màu đỏ của con đường nhánh hướng lên đồi thuộc khu vực quân sự, mình vẫn chạy thẳng.

Bình Phước là tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Nam bộ. Ở vào vị trí tiếp giáp giữa đồng bằng và cao nguyên, phía bắc và tây bắc giáp Campuchia, phía đông giáp các tỉnh Đắk Nông và Lâm Đồng, phía nam giáp các tỉnh Đồng Nai và Bình Dương, phía tây giáp Tây Ninh.

< Đường khá vắng, thi thoảng mới có một chiếc xe nhưng không hề gì, vắng chạy càng phẻ.

Đây là tỉnh có nhiều rừng. Ở đông bắc có ngọn núi Bà Rá cao 733m và dãy núi thấp quanh Lộc Ninh, còn lại là rừng bạt ngàn. Rừng rậm nhưng đất khá bằng phẳng. Phần lớn là đất đỏ nên trồng cây công nghiệp rất tốt.
Bình Phước là nơi có nhiều rừng cao su lớn, vườn cây cà phê, điều, tiêu...

< Chạy ngang qua cây cầu Daklung bắt ngang dòng chảy của sông Thác Mẹ (sông Bé) - vị trí cầu tại đây.

< Bọn mình dừng lại, xuống tham quan một tý.

Tỉnh có hai con sông chảy từ bắc xuống nam: phía tây là sông Sài Gòn, phân giới giữa tỉnh Bình Phước và Tây Ninh; giữa tỉnh là Sông Bé, có các nguồn từ phía bắc, đoạn dưới đi vào đất Biên Hoà, đổ vào sông Đồng Nai.
< Thật đáng công: từ đây nhìn về phía núi Bà Rá sẽ có một khung cảnh thật đẹp.
Cây cầu nhỏ (xe du lịch 4 bánh chạy được), đứng chụp ảnh nhưng xe chạy qua lại cứ lưng tưng...

< Nửa kia và con xế đứng bên vườn có các nọc tiêu xây bằng gạch. Xứ nhiều tiêu và điều... nhưng đừng đọc tắt là 'tiêu điều' nhé.

Khí hậu: Bình Phước chia 2 mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Phía Bắc nhiều rừng, nên ẩm thấp hơn phía Nam, lượng mưa trung bình hàng năm 2.110mm.

< Thỏa lòng rồi lại lên xe đi. Mình thích những con đường nho nhỏ, xanh rợp bóng cây...

Bình Phước là một trong những nơi có nhiều cảnh quan thiên nhiên và di tích lịch sử còn ít được biết đến. Đó là các thác Mơ, núi Bà Rá, thác số 4, đồng cỏ Bàu Lạch. Chính nơi đây trong những năm kháng chiến chống Pháp và Mỹ đã nổi lên bao địa danh lịch sử được chú ý như ban chỉ huy quân sự Miền, nhà giao tế Lộc Ninh, kho xăng Lộc Hòa, Lộc Quang.

< Mùa này nóng, nhưng giấc cuối năm tại đây s mát lạnh đấy.
Mé phải đường vẫn là vườn điều...

< Gặp bùng binh phía trước, đây là bùng binh có tượng đài Chiến Thắng cùng chiếc máy bay Mỹ bên phải.
Mình rẽ trái, hướng vào trung tâm thị xã để từ giã nơi này thông qua TL741.

Đặc biệt tại xã Phú Riềng (huyện Phước Long) nơi ra đời chi bộ Đảng Cộng Sản đầu tiên vùng Đông Nam Bộ, cũng là nơi diễn ra cuộc nổi dậy của hai anh em Điểu Mol và Điểu Mól (dân tộc Xtiêng) vào năm 1933.

< Rời phường Thác Mơ, bọn mình trở ra TL741 - lúc này đã là 10h15, nắng thật gắt, thời tiết rất nóng.


< Qua địa phận phường Phước Bình, nửa kia ngoái lại chụp thêm một tấm núi Bà Rá lần cuối. Có lẽ sẽ rất lâu nữa mới về lại chốn này.

Bình Phước là nơi định cư và sinh sống của nhiều dân tộc khác nhau. Đồng bào dân tộc ít người chiếm 17,9%, đa số là người Xtiêng, một số ít người Hoa, Khmer, Nùng, Tày,...Vì thế Bình Phước có nhiều nét văn hóa của đồng bào dân tộc Xtiêng.

< Vượt qua khu du lịch sinh thái Mỹ Lệ rồi qua luôn ngã 3 Long Hưng, bọn mình hướng về trung tâm xã Bù Nho.

Tỉnh có nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc: Liên hoan văn hóa các dân tộc thiểu số vào tháng 12 hàng năm, thường có: lễ hội cầu mưa của người Xtiêng; lễ bỏ mả; lễ hội đâm trâu; lễ mừng lúa mới của đồng bào Khmer.

< Bù Nho đây, một khu thị tứ nhỏ trên TL741. Tại đây có đường vào hồ Long Tân, Long Hà; hai hồ thủy lợi khá lớn.

< Rời Bù Nho, mình sẽ chạy ngang qua Tân Hòa để hướng về Phú Riềng. Nắng rất gắt nhưng trang bị kỹ áo gió, găng, vớ, khẩu trang và kiếng nên cũng không hề gì. Vậy nhưng nếu dừng xe lại là đổ mồ hôi ướt đẫm ngay.

< Vào địa phận Phú Riềng.
Theo đúng luật giao thông: xe gắn máy khi gặp các bảng này phải giảm tốc độ xuống 40km/h vì vào khu dân cư.

< Rời Phú Riềng để đến thị xã Đồng Xoài. Trên đoạn này có hồ Suối Lam (khu du lịch) và hồ Đồng Xoài (hồ thủy lợi).
Còn thị xã Đồng Xoài thì có hồ Suối Cam chia làm 2 phần: hồ trên và hồ dưới.

< Đến Đồng Xoài, đồng hồ đã chỉ 11h30. Vậy nên ghé chợ ăn buổi cơm trưa. Lúc này, theo dự định từ trước thì bọn mình sẽ theo QL14 từ Đồng Xoài về Chơn Thành rồi vào QL13 đi Bình Dương > TP Hồ Chí Minh.

< Vậy nhưng anh chủ quán cơm cho biết: nếu theo QL14 và QL13 về Sàigòn sẽ xa hơn nếu so với TL741 về Bình Dương và SG - Phần khác, vài đoạn trên QL14 sẽ nhiều bụi bặm vì đang sữa chữa...
Ảnh là một phần của một nhà lồng trong rất nhiều nhà lồng chợ tại Đồng Xoài.

< Nghe anh chủ quán nói vậy nên bọn mình chọn TL741 vậy, lặp lại tuyến đường cũ, khi về đến Cổng Xanh sẽ đi hướng khác cho lạ.
12h35 phút, bảng báo hiệu đã vào địa phận tỉnh Bình Dương, nhanh ghê ta!

< Chạy ngang Trung tân Hành chính huyện Phú Giáo - thuộc thị trấn Phước Vĩnh.
Huyện Phú Giáo nằm ở phía Đông Bắc tỉnh, cách Trung tâm Thành phố mới Bình Dương 35km và tiếp giáp với tỉnh Bình Phước. Khí hậu ôn hòa, thiên tai bão lụt ít xảy ra nên rất thích hợp cho việc phát triển các loại cây công nghiệp dài ngày nói riêng và nông nghiệp.

< Gặp ngã rẽ bến đò Tân Định (8km - vị trí bến đò tại đây), chạy thẳng là về trung tâm Bình Dương với khoảng cách là 42km nữa.

< Qua cây cầu Phước Hòa (nơi có chiếc cầu gẫy), lần này chụp mé bên kia.

< Trong địa phận xã Phước Hòa, lúc ni chỉ còn cách Cổng Xanh một vài cây số nữa thôi.

< Từ Cổng Xanh, mình rẽ vào tỉnh lộ 742, tức là đường Huỳnh Văn Lũy hướng về đại lộ Bình Dương. Vậy là không theo TL741 như lúc đi nữa.

< Đường Huỳnh Văn Lũy rợp bóng cây xanh của hàng loạt rừng cao su, mát rượi nên bọn này dừng xe nghỉ chân, uống nước.
Rừng cao su cũng có cái đẹp riêng đó chứ, bạn thấy không?

< Màu xanh cũa những tán cây đầy huyền hoặc làm lòng người tan biến cái mệt, cái nóng.

< Qua ngã 4 đại lộ Nguyễn Văn Linh cắt ngang thì đường mình đang đi bổng rộng thênh thang, vẫn là đường Huỳnh Văn Lũy đấy. Đây cũng chính là khu vực Thành phố mới Bình Dương.

Thành phố mới Bình Dương là tên của một đề án xây dựng đô thị trong Khu liên hợp công nghiệp - dịch vụ - đô thị tỉnh Bình Dương. Thành phố này được xây dựng mới hoàn toàn không dùng tiền ngân sách và sẽ là trung tâm hành chính mới của Bình Dương thay cho thành phố Thủ Dầu Một.

< Cứ chạy thẳng để về Sàigòn, dân địa phương chỉ mình như vậy. Bọn mình đoán rằng đường này sẽ đâm thẳng ra đại lộ Bình Dương, tức là QL13 - trực chỉ TP HCM.
Huỳnh Văn Lũy đoạn này hẹp lại, nhưng vẫn là 4 làn xe.

< Hội đồng Nhân dân TP Thủ Dầu Một. Thành phố Thủ Dầu Một là thành phố trực thuộc tỉnh Bình Dương, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí tương đối thuận lợi cho việc giao lưu với các huyện, thị trong tỉnh và cả nước qua quốc lộ 13,cách Thành phố Hồ Chí Minh 30km.

< Hết đường Huỳnh Văn Lũy, mình rẽ trái vào QL13, cũng chính là Đại lộ Bình Dương.

< Dừng nghỉ tránh nắng nóng, uống cạn chai nước mang theo rồi lại đi. Qua cầu Vĩnh Bình, vậy là vào địa phận thành phố Hồ Chí Minh.

< Cầu vượt Bình Phước đây! Sớm ngày hôm qua đi, giờ lại 'hồi hương' chốn quê nhà.
Lúc này đã là 14h32 phút ngày 24 tháng 3 năm 2013, có lẽ chỉ mất chưa đầy một tiếng nữa là bọn mình sẽ có mặt tại nhà, kết thúc một chuyến đi ngắn - nhẹ nhàng nhưng thu hoạch... 'hơi bị ít'!

Nhưng phượt mà: Đi cho biết đó biết đây, ở nhà xem mạng biết ngày nào khôn. Ít nhiều gì cũng vẫn biết núi Bà Rá ở Phước Long nhứ thế nào, bạn nhỉ?
Hết

Phần 1 - Phần 2 - Phần 3 - Phần 4 - Phần 5 - Phần 6 - Phần 7

Điền Gia Dũng
Du lịch, GO!
Công trình thủy điện, thủy nông Ayun Hạ hoàn thành năm 1994, nằm trên địa bàn 2 huyện Chư Sê và Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Với diện tích mặt nước 37 km², công trình vĩ đại, tuyệt đẹp này không chỉ khiến Gia Lai trở thành vựa lúa của Tây Nguyên, nó còn giúp hàng ngàn nông dân mưu sinh, thoát nghèo bằng nghề đánh bắt cá.

Sung túc nhờ hồ

Những ngày lang thang quanh khu vực hồ Ayun Hạ, một lần đứng trên đỉnh đèo Chư Sê phóng tầm mắt nhìn xuống hồ, tôi mới thực sự ngỡ ngàng trước cảnh thiên nhiên đẹp như một bức tranh. Toàn cảnh bức tranh nền là một màu xanh trù phú. Hai bên hồ là hai dãy núi sừng sững ôm lấy dòng sông Ayun hiền hòa.

Phía dưới là nhà máy thủy điện Ayun Hạ và dòng nước trong xanh chảy theo kênh chính dài ngút tầm mắt, uốn lượn theo những cánh đồng chạy dài xuống thị trấn Ayun Pa tạo nên bức tranh đồng quê tự nhiên, hài hòa. Những mái nhà tranh cất tạm của ngư dân nằm lúp xúp bên bờ hồ. Dưới lòng hồ, những chiếc thuyền của ngư dân lững thững trôi… khung cảnh thật êm đềm.

Hỏi thăm mãi, cuối cùng tôi cũng tìm được nhà của già làng của làng T’lâm, xã Ayun. Năm nay đã gần 80 tuổi, già làng K’puih từng trải qua biết bao thăng trầm của quê hương, từng có những tháng năm dài tham gia nuôi giấu bộ đội trong cả 2 thời kỳ chống Pháp, Mỹ. Đêm đêm, già làng cùng thanh niên trong làng chèo thuyền độc mộc chở bộ đội vượt sông, mai phục dưới chân đèo Tung Kê tiêu diệt kẻ thù.

Già làng khoe: “Từ lúc có hồ đến nay, bà con hết nghèo đói, sống khỏe. Giờ nhiều người thích xuống nước bắt cá hơn lên rừng rồi”. Theo già làng K’puih, chỉ tính riêng xã Ayun đã khoảng hơn 300 hộ làm nghề đánh bắt cá trên hồ. Trẻ con trong làng khi vừa biết đi cũng là lúc phải tập bơi, lên 10 tuổi đã biết câu cá, thậm chí có đứa giăng lưới thành thục, biết canh con nước, ngọn gió để đặt câu, buông lưới. Quả thật, hồ Ayun Hạ đã cho bà con cuộc sống sung túc.

Tôi gặp ngư dân Đ’Breng, ở làng T’Lâm, xã Ayun, giữa lúc anh vừa đi thả lưới về. Tôi ngạc nhiên thấy quần áo anh sũng nước nhưng chẳng thấy cá đâu. Anh cười bảo: “Bây giờ mình chỉ thả lưới xuống thôi, về ngủ 1 giấc rồi sáng dậy sớm đi mang cá về bán thôi”. Tôi hỏi: “Thả lưới không có người trông người khác xuống lấy mất thì sao?”. “Không đâu, ai cũng có mà”, anh thật thà đáp.

Già làng K’puih cũng nói với tôi rằng từ xưa đến giờ chưa từng xảy ra mất trộm lưới. Đ’Breng năm nay gần 50 tuổi và anh chẳng nhớ đã gắn bó với dòng sông từ lúc nào. “Ngày xưa theo cha đi bắt cá dưới sông, cũng có cá. Bây giờ có hồ rồi, nhiều cá lắm, không phải ngược lên thượng nguồn nữa”, anh nói tiếp. “Thả lưới một đêm được bao nhiêu cá?”, tôi hỏi Đ’Breng. Anh đáp: “Nhiều lắm, con nào cũng to, mang nặng vai. Ở đây nhiều người thả lưới giỏi lắm”. Đ’Breng bảo, cách đánh cá của những ngư phủ trên sông Ayun rất khác người. Buổi chiều sau khi đi rẫy về họ chỉ ra sông buông lưới xuống để sáng mai ra thu lưới và mang cá về bán.

Đối diện các làng thuộc xã Ayun, huyện Chư Sê là các làng ngu phủ Kim Piêng, Plei Bông, Plei Trơk, Plei Hek… của xã Chư A Thai, huyện Phú Thiện đang có cuộc sống sung túc nhờ hồ Ayun Hạ.

Buổi chiều, hoàng hôn buông xuống thật nhanh. Những ngôi nhà sàn bắt đầu sáng đèn. Tôi ngỏ ý muốn ở lại một đêm, già làng K’puih gật đầu, cười bảo: “Rừng đủ thức ăn, đủ chỗ ngủ mà”.

Kiêng kỵ khi buông lưới

Buổi sáng, khi mặt trời chưa ló rạng tôi đã giật mình choàng tỉnh bởi tiếng khua mái chèo, tiếng gọi í ới bằng tiếng bản địa. Già làng K’puih đang ngồi thư thái nhìn ra khoảng sân đầy heo gà, miệng phì phèo tẩu thuốc. Tối qua, tôi đã được xúc miệng bằng rượu cần, có vị thuốc, được thưởng thức món cá hồ Auyn Hạ nướng, nấu măng chua, và sau đó, ngủ một giấc thật say trong tiếng ru của cây rừng…

Bên ngoài, bờ hồ tấp nập, mọi người đang hối hả xuống xuồng, đi gỡ lưới. Tôi nhanh chân theo bước theo Đ’Breng. Biết tôi có ý định theo ra hồ, anh bảo: “Hồ sâu lắm, anh có biết bơi không?”, thấy tôi gật đầu, anh tiếp: “Hồ cũng có thần linh cai quản, phải khấn trước nếu không thần không cho xuống, không cho cá đâu”. Nói rồi anh chắp tay, ngửa mặt rì rầm một lát rồi nói: “Xong rồi”.

Chúng tôi bước xuống thuyền. Những chiếc thuyền khác cũng bắt đầu ra sông. Đ’Breng bảo, không chỉ khấn, xin phép thần trước khi ra hồ, còn phải hứa không được làm điều xằng bậy như phóng uế, bắt cá nhỏ, gian lận… Lưới của Đ’Breng thả không xa bờ, nhưng khi anh vừa kéo lên, đã thấy mấy con cá mè khá to giãy giụa.

Suốt thời gian gỡ cá, Đ’Breng không nói một lời. Mẻ cá từ nắm lưới dài chừng 30 m Đ’Breng thu chừng 40 con cá mè, cá lóc, cá trôi. Ước cũng hơn chục ký cá. “Mình bán bao nhiêu tiền một ký?”, tôi hỏi anh. “Có khi 20 ngàn, có khi cao hơn. Tùy hôm, khi nào họ bảo hôm nay cá rẻ thì mua thấp, hôm nào đắt thì họ trả cao”.

Hồ Ayun Hạ có rất nhiều cá. Cá tự nhiên vốn đã nhiều nay được Cty Thuỷ sản miền Trung thả giống chăn nuôi nên cuộc sống của hàng trăm hộ dân sống quanh lòng hồ Ayun Hạ càng sung túc hơn xưa. “Ở đây nhiều cá to lắm. Vì nó sống lâu nên rất khôn. Lưới không bắt được nó đâu. Có khi nó được thần nước bảo vệ rồi cũng nên”, Đ’Breng nói.

Hằng ngày vào buổi trưa, sau khi thuyền đánh bắt cập bến, những xe tải đông lạnh lại chở cá nước ngọt đi khắp mọi miền đất nước. Cá ở đây nhiều vô kể và đa dạng về chủng loại như: trôi, chép, mè, lăng, trắm cỏ… và đặc biệt là cá thát lát, một trong những đặc sản nức tiếng của Gia Lai.

“Hữu xạ tự nhiên hương”, hồ Ayun Hạ và cả những vùng đất xung quanh nó đã trở thành mảnh “đất lành”, thu hút nhiều người đến mưu sinh. Anh Đ’Đôk, một ngư dân mới chuyển đến làng Plei Trơk, xã Ayun va cũng sống nhờ nguồn cá trên hồ nói: Lúc trước, anh sống ở xã H’Bông, huyện Chư Sê nhưng đời sống gặp nhiều khó khăn vì khô hạn, đất đai cằn cỗi.

Nhưng từ lúc chuyển cả gia đình về đây, lòng hồ Ayun Hạ đã giúp anh và cả gia đình thoát khỏi cảnh đói nghèo. “Tôi biết ơn hồ, biết ơn thần linh đã chỉ dường cho tôi gặp hồ, biết ơn nhà nước đã làm hồ nước này cho bà con”.

Ngày xưa, ở các buôn làng Tây Nguyên, ai cũng biết câu ca dao: “Ai về nhắn với nậu nguồn/Măng le gửi xuống cá chuồn gửi lên”. Nhưng bây giờ, câu ca ấy đã đi vào dĩ vãng, chẳng còn ai nhắc đến nữa. Hồ Ayun Hạ đã mang rất nhiều cá đến cho họ rồi, nên họ chỉ gửi sản vật của rừng về xuôi thôi chứ không cần dưới đó gửi cá lên nữa.

Hồ thuỷ lợi Ayun Hạ vừa tưới mát cho cây trồng vừa mang lại nguồn thức ăn dồi dào cho bà con đồng bào Bahnar các làng King Pêng, Plei Bông, Plei Trơk và Plei Hek… trong xã. Do đã được bộ đội chỉ cách thả lưới, câu, đánh bắt cá từ thời kháng chiến nên từ ngày có hồ Ayun Hạ đến nay, cuộc sống của hàng trăm hộ dân đồng bào Bahnar quanh lòng hồ Ayun Hạ ngày càng no đủ, sung túc hơn xưa…

Du lịch, GO! - Theo Nông Nghiệp Việt Nam
Không biết có quốc gia nào trên thế giới giống nước ta: Mỗi làng cổ bao giờ cũng có một ngôi đình. Đình thờ thành hoàng, người có công lập ấp mở mang nghề nghiệp chăm lo cho dân, hoặc có công đánh giặc giữ nước.

Đình làng còn là cái "trụ sở" của thôn, là nơi để các cụ tiên chỉ và chức sắc của thôn bàn việc, xử các rắc rối trong thôn theo hương ước. Rồi việc làng còn có cả khoản... cỗ bàn đánh chén tại đình.

Đình làng là hình ảnh thân quen, gắn bó với tâm hồn của mọi người dân Việt, là nơi chứng kiến những sinh hoạt, lề thói và mọi đổi thay trong đời sống xã hội của làng quê Việt Nam qua bao thế kỷ….

Đã từ rất lâu rồi, khi nói đến văn hoá làng, nói đến nông thôn Việt Nam, người ta liên tưởng ngay tới những hình ảnh rất đặc trưng, làm nên biểu tượng của làng quê: cây đa, bến nước, sân đình…

Ngôi đình làng có thể được xem là "địa chỉ đỏ" của mỗi người, đặc biệt trong những dịp hội làng, hay mỗi khi có việc làng. Trong khuôn viên của ngôi đình thường có cây đa cổ thụ, bóngrâm mát, hồ senvà một khoảng sân vẫy gọi chim về làm tổ.

Lúc đầu, đình chỉ có chức năng như ngôi nhà lớn của cộng đồng, là nơi hội họp, nộp sưu thuế vànơi nghỉ cho khách lỡ đường. Về sau, triều đình phong kiến mới sắc phong cho những vị có công với nước làm Thành Hoàng làng (sống làm tướng, thác làm thần). Vì vậy đình kiêm chức năng nữa là thờ vị Thành Hoàng - người có công khẩn đất, lập làng.

Ngoài Thành Hoàng làng, tùy theo thực tế của làng, mỗi ngôi đình làng có thể thờ các vị thần, thánh khác do mỗi làng tôn thờ, hoặc việc thờ cúng các vị thần theo sắc phong của Nhà vua, tất cả đều được rước vào đình thành một tập thể siêu thần, thành một sức mạnh vô hình, tạo niềm tin, niềm hy vọng của làng xã Việt Nam.

Việc vinh danh, tôn thờ những người có công to lớn đối với làng cùng với vị trí của nơi đặt đình làng và cách thức bày biện nội thất ngôi đình đã làm toát lên vai trò đây là nơi quan trọng bảo vệ, che chở cho mỗi làng trước các biến cố của tự nhiên và đời sống xã hội…
Cũng có thời kỳ, đình làng là trụ sở hành chính của chính quyền tựu trung đủ mọi lề thói từ rước xách hội hè, khao vọng quan trên, đón người đỗ đạt…

Đình làng gần như đại diện, là biểu tượng của quyền lực làng xã. Bên cạnh đó, đình làng cũng là nơi tụ họp mọi người trong mọi sinh hoạt chung, vốn rất cần cho cuộc sống nông thôn cần có sự nương tựa, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Chính vì vậy, đình làng trở thành một nơi thân quen gần gũi, là nơi che chở, là nơi ở, là cuộc sống của những người nông dân Việt Nam.

Ngôi đình Việt Nam cổ kính, trang nghiêm và là công trình kiến trúc văn hoá mang tính dân tộc. Kiến trúc đình làng vì vậy cũng mang đậm dấu ấn văn hoá độc đáo và tiêu biểu cho điêu khắc truyền thống.
Đình thường cao ráo, thoáng mát, được dựng lên bằng những cột lim tròn, to và thẳng tắp đặt trên những hòn đá tảng lớn. Kèo, xà ngang, xà dọc được làm bằng gỗ lim, tường xây bằng gạch. Mái đình lợp ngói múi hài 4 góc có 4 đầu đao cong vút lên như đuôi chim phượng uốn cong.

Sân đình lát gạch, trước đình có hai cột đồng trụ vút cao, trên đình có một con nghê. Gian giữa có hương án thờ vị thần của làng. Chiếc trống cái được đặt trong đình để vang lên theo nhịp trống ngũ liên thúc giục người dân về đình tụ tập để bàn tính công việc của làng, của nước. Vào ngày lễ tết, dân trong làng tới đình thắp hương tế lễ, cầu mong Thành Hoàng làng và trời đất phùgiúp mưa thuận gió hoà để mùa màng gặt hái thuận tiện và có nhiều phúc lành.

Tiết xuân về, giữa cảnh trí thiên nhiên thoáng đãng, ấm áp và thân thuộc; già, trẻ, gái, trai nô nức đến sân đình mở hội. Ngôi đình là nơi diễn ra các nghi lễ phong tục tập quán, trò chơi dân gian như đấu vật, chọi gà, đánh đu, kéo co, thi thổi cơm… góp thêm hồn cho lễ hội và phát huy giá trị văn hóa địa phương, góp phần bảo tồn các giá trị văn hoá, đánh thức quan niệm sống truyền thống nhân nghĩa, đức độ và hào hùng.
Lễ hội ở đình trở nên linh thiêng và có sức cộng cảm. Mọi khía cạnh đời thường được nâng lên không gian thiêng liêng.

Những người con xa xứ ai ai khi nhớ về quê hương đều không quên hình ảnh đình làng - chứng tích tâm hồn, nhân chứng lịch sử bởi đó cũng chính là một mảnh hồn quê…

Du lịch, GO! - Theo Cinet.vn, Dân Việt, internet
nơi “hội thủy” của 3 con sông lớn Thu Bồn, Trường Giang, Đế Võng, có một rừng dừa nước ngập mặn đang là điểm đến thú vị.

Sắc xanh trong vùng lõm

Cách khu phố cổ Hội An chừng 5km về phía đông, rừng dừa nước ngập mặn Bảy Mẫu (thuộc địa bàn thôn 2 và 3, xã Cẩm Thanh) được bao bọc bởi sông nước. Nước trải ra giữa mênh mông trời mây. Nơi đây từng là căn cứ địa cách mạng trong kháng chiến và là một trong những phần lõi của Khu dự trữ sinh quyển thế giới Hội An - Cù Lao Chàm.

Ông Trần Bừa, cán bộ cách mạng ở thôn 2, kể: “Nhờ địa hình kín đáo mà từ thời kháng Pháp, ta đã tổ chức lực lượng du kích địa phương đánh bại nhiều trận càn của địch”.

Từng bị giặc Pháp “cày trắng” nhưng với sức sống mãnh liệt, những ngọn dừa bị chặt đi lại mọc lên xanh. Nhiều lúc, trong thế không tương xứng về lực lượng nhưng du kích địa phương đã dựa vào rừng dừa gây cho địch nhiều tổn thất. Sau Hiệp định Giơnevơ, giai đoạn khó khăn của cách mạng, rừng dừa Bảy Mẫu đã trở thành nơi che chở, trú ẩn cho nhiều cán bộ cách mạng của Thị ủy Hội An và Tỉnh ủy Quảng Nam trong những đợt “tố cộng, diệt cộng”.

Đêm 27/9/1964, nhân dân Cẩm Thanh đã đứng lên nhất tề đồng khởi, rừng dừa Bảy Mẫu đã đi vào lịch sử như một huyền thoại. Với kế nghi binh dùng súng bẹ dừa và hành quân rầm rộ khiến địch hoang mang, hốt hoảng, quân ta đã đánh úp đồn phòng vệ dân sự, bắt gọn một trung đội nghĩa quân và nhiều tên ác ôn, tuyên bố giải phóng hoàn toàn Cẩm Thanh.

Bà Võ Thị Hóa, nguyên cán bộ du kích Cẩm Thanh, nhớ lại: “Sau 1965, dọc theo 2 tuyến của rừng dừa là hệ thống hầm hố, chướng ngại vật cản đường, hệ thống giao thông hào, các lớp hàng rào được xây dựng chằng chịt với các bãi chông tre, hầm chông để ngăn bước tiến của quân thù vào vùng giải phóng”. Nhằm tiêu diệt khu căn cứ địa này, Mỹ - ngụy đã tổ chức tấn công nhiều lần, kể cả dùng chất độc hóa học làm trụi lá rừng dừa. Nhưng bất chấp mọi thủ đoạn, căn cứ này vẫn gây ra nhiều tổn thất cho quân địch. Rừng dừa đã thực sự trở thành nơi trú ẩn an toàn, nơi bảo tồn lực lượng cách mạng của Hội An và là bàn đạp để quân ta xuất kích tiến đánh nội ô Hội An, làm nên những trận thắng lừng lẫy.

Khám phá

Rừng dừa Bảy Mẫu không chỉ là khu di tích có giá trị lịch sử đặc biệt, đây còn là vùng sinh thái độc đáo với hệ rừng ngập nước có thắng cảnh hữu tình. Trước những năm 1980, rừng dừa trải rộng trên các thôn 1, 2, 3, 8 của xã Cẩm Thanh với diện tích lên tới hàng trăm héc ta.

Ngày nay, tuy đã bị thu hẹp chỉ còn 58ha nhưng rừng dừa vẫn là nét đặc trưng hiếm có ở vùng sông nước. Ông Nguyễn Chí Trung - Giám đốc Trung tâm Quản lý - bảo tồn di tích Hội An cho biết: “Thành phố đã đề nghị công nhận khu di tích này và có kế hoạch quản lý, bảo tồn nghiêm ngặt. Đây còn là nơi bảo tồn đa dạng sinh học với nhiều đặc điểm độc đáo và hiếm có”.

Tại vùng này, trên các cồn gò và các vực nước chung quanh có hệ sinh thái cỏ biển. Đây còn là nơi cư trú, sinh sống của nhiều loài động vật biển giá trị, nhất là các loài tôm, cua, ghẹ và động vật thân mềm. Các thảm cỏ biển là nơi sinh sống và bắt mồi của nhiều loài hải sản. Các hệ sinh thái ngập mặn này còn đóng vai trò như một máy lọc sinh học, tích tụ và phân hủy chất thải, làm trong sạch nguồn nước trước khi về với biển. Năm ngoái, UNESCO đã công nhận Hội An - Cù Lao Chàm là Khu dự trữ sinh quyển thế giới, trong đó có hệ sinh thái vùng ngập mặn thuộc hạ lưu sông Thu Bồn này.

Khai thác du lịch ở vùng sinh thái này phải phù hợp với tiêu chí thân thiện, gần gũi với môi trường. Du khách vừa khám phá hệ sinh thái ngập nước của rừng dừa, bơi thuyền thúng, đạp xe đạp hoặc câu cá trong rừng dừa vừa tham gia thu gom rác thải, góp phần bảo vệ môi trường. “Năm năm trở lại đây, một số doanh nghiệp đã tổ chức khai thác tour du lịch khám phá rừng dừa này. Vấn đề đặt ra là công tác quản lý di tích và khai thác du lịch phải đảm bảo nguyên tắc phù hợp” - bà Đinh Thị Thu Thủy, Trưởng phòng Thương mại - du lịch Hội An khẳng định.

Du lịch, GO! - Theo báo Quảng Nam, Quê Hương online
Đi trên đường Hồ Chí Minh qua địa phận xã Lâm Hóa và Thanh Hóa (huyện Tuyên Hóa, Quảng Bình) thỉnh thoảng lại bắt gặp giữa rừng sâu vài trụ bêtông lớn bám đầy rêu phong.

< Những trụ bêtông của “đường sắt trên không” tại khu vực đồi Cầu Trập.

Đó là vết tích tuyến đường sắt trên cao người Pháp đã xây dựng cách nay hơn 80 năm để vận chuyển tài nguyên từ Trung Lào về VN.
Những vết tích gợi biết bao nỗi niềm thời xa xưa đã thôi thúc chúng tôi làm một hành trình khám phá với điểm xuất phát từ Đồng Hới lên phía tây bắc.

Những dấu tích giữa rừng xanh

Vượt hơn 100km, đến khu vực cầu Ca Tang sẽ bắt gặp những trụ bêtông cao đến 10m sừng sững vươn lên giữa màu xanh núi rừng. Đi tiếp đến vùng Cầu Trập lại gặp các trụ bêtông ẩn hiện giữa cây cỏ. Dù đã hơn 80 năm nhưng vùng đồi xung quanh các trụ bêtông vẫn còn dấu tích của thời người dân ăn ở làm đường. Đó là những cây bưởi mà dân phu đã trồng lấy quả ăn, những đoạn đá xếp chồng chống thú dữ, những hòn đá đầu rau làm bếp nấu cơm...

Đặc biệt, ở vùng Thanh Lạng còn cả mấy đường hầm xuyên qua núi. Dù đã phủ đầy rêu phong, cây cỏ nhưng đường hầm vẫn còn vững chắc, trần hầm khô ráo, không hề có các vết nứt nẻ, thấm dột. Người dân vùng Thanh Lạng và các phương tiện cơ giới giờ vẫn dùng đường hầm này để qua lại sản xuất, vận chuyển hàng hóa nhưng không mấy ai biết đó là đường hầm gì, tại sao lại có giữa rừng núi cao, xa thẳm.

Theo hồi ức của nhà văn Nguyễn Khắc Phê, trong những năm đầu chống Mỹ, khi lên đường 12A ông vẫn còn thấy nhiều vết tích của con đường sắt này. Đó là những đống sắt được phá dỡ ra từ các ga đường dây cáp ở La Trọng, Cha Mác...

Trong tùy bút Đường huyện Tuyên của Lê Khai cũng có ghi lại cảnh những người dân nghèo ở huyện Quảng Trạch, Tuyên Hóa (Quảng Bình), Hương Khê (Hà Tĩnh)... khi đi dây cáp trên tuyến đường sắt qua Lào này: “Không biết bao nhiêu mạng người bị điện tắc phải treo lủng lẳng giữa tầng không, nuốt toàn không khí lạnh cho đến khi các thùng sắt đổ xuống các ga Nhám, Cha Mác, Banaphào (Lào) thì đã thành người chết cứng. Đó là chưa kể cái nạn dây cáp bị vướng, móc thùng bật ra nhào xuống vực sâu...”.

< Hầm đường sắt Thanh Lạng (xã Thanh Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình).

Ngày xưa ấy, ở đây là chốn rừng thiêng nước độc, thú dữ quần tụ. Áp bàn tay lên thành hầm như cảm nhận được sinh khí của lịch sử, của những người dân phu khổ cực đã làm nên nó bằng máu xương của mình...

Tuyến đường xưa và nỗi niềm mong ước

Trong cuốn Lịch sử ngành giao thông vận tải tỉnh Quảng Bình (1885-1999) có viết từ năm 1893 người Pháp bắt đầu mở mang các tuyến đường giao thông quan trọng ở VN, gọi là “đường thuộc địa”. Tại Quảng Bình, người Pháp rốt ráo tìm cách khai thác tài nguyên khoáng sản, thuốc phiện ở vùng Trung Lào, vì vậy một tuyến đường bộ từ ga Tân Ấp (huyện Tuyên Hóa) lên biên giới Việt - Lào được thực thi.

Tuyến đường dài hơn 70km, nối đường 12 qua thị xã Thà Khẹt, tỉnh Khăm Muộn, Lào. Do núi rừng ở đây quá hiểm trở, người Pháp buộc phải làm thêm một tuyến đường cáp treo băng qua núi cao gọi là “không trung thiết lộ” (đường sắt trên không). Tuyến “không trung thiết lộ” dài 65km, có điểm đầu tại ga Cha Mác, thuộc Xóm Cục, xã Thanh Hóa sang đến bản Nà Phào, tỉnh Khăm Muộn.

Để xây dựng tuyến đường sắt trên không này, người Pháp đã bắt dân địa phương đi làm phu phen, tạp dịch vô cùng cực nhọc. Bà Nguyễn Thị Đào (71 tuổi, xã Thanh Hóa) cho biết: “Các ông bà cụ nhà tui kể ngày đó người Pháp đã bắt hàng ngàn dân đi làm đường sắt. Họ chỉ trang bị cho dân dụng cụ như choòng, xà beng, búa, đục... để dân khoét núi xây dựng đường hầm. Đất đá đào bới mang ra đổ ngổn ngang, có nơi còn cao hơn cả nóc nhà...”.

Sau 7, 8 năm, đoạn đường hầm ở Thanh Lạng mới được hoàn thành với chiều dài gần 500m, rộng 6m, cao 5m. Trần hầm dày 50cm đúc bằng hỗn hợp đá cuội, mật mía, vôi và ximăng.

Ông Nguyễn Hữu Được, gần 80 tuổi, cho biết: “Ngoài hầm Thanh Lạng được xây dựng từ năm 1932, cách đó khoảng 2km còn có hầm Trệng. Ngày trước ôtô ray chạy theo đường sắt trên bộ, từ Tân Ấp đến các điểm tiếp theo là cầu Cốt Bốn, Thanh Thạch, Khe Hà, ga Thanh Lạng, hầm Thanh Lạng, cầu Trập, hầm Trệng, cầu Trệng, cầu Xóm Chuối và dừng ở điểm cuối ga Lâm Hóa.

Từ ga Lâm Hóa, tuyến đường sắt bắt đầu chuyển lên đường sắt trên không để chạy tiếp qua Lào. Đường có hệ thống trụ đỡ và dây cáp rất kiên cố cho xe goòng chạy”. Dọc đoạn đường sắt trên không có các ga Cha Mác, La Trọng, Mòn, Bãi Dinh... Đây cũng là điểm dừng chân nghỉ ngơi của nhân viên áp tải hàng hóa trên các xe goòng.

Tháng 8-1945, nhằm ngăn chặn sự di chuyển của các binh đoàn cơ động của quân Pháp, một số điểm trọng yếu trên tuyến đường sắt trên không bị Việt Minh phá hủy. Cũng từ đó tuyến đường sắt trên không này ngừng hoạt động. Trong thời kỳ chống Mỹ, bộ đội Trường Sơn đã dùng hầm xuyên núi Thanh Lạng làm nơi chứa lương thực, súng đạn và xe đạp cho dân công hỏa tuyến thồ hàng hóa theo đường 12A vào chiến trường phía Nam hoặc sang Lào.

Nhìn những di tích còn lại của “đường sắt trên không”, nhiều người đã ao ước giá như nó được phục hồi để khai thác du lịch, phát triển kinh tế với Lào, Thái Lan. Còn chúng tôi, mỗi lần đi qua vùng rừng núi này, nhìn những cột bêtông vững chãi, trong tâm tưởng cũng không khỏi nhen lên điều ao ước...

“Ước ao mở lại tuyến đường sắt qua Lào là hoàn toàn chính đáng, phù hợp với quy hoạch và hướng phát triển giao thông của tỉnh cũng như của VN, hướng đến sự thông thương với các nước Lào, Thái Lan, tạo một hành lang ra biển Đông khá gần và thuận lợi. Hiện Bộ Giao thông vận tải đang lập dự án đường sắt nối VN - Lào, trong đó đoạn trên đất VN là từ Mụ Giạ về đến vùng Tân Ấp (hiện đang có ga Tân Ấp trên tuyến đường sắt Bắc - Nam - PV). Tuy nhiên có trùng với tuyến đường sắt cũ của người Pháp hay không thì chưa rõ". Ông PHẠM QUANG HẢI (giám đốc Sở GTVT Quảng Bình).

Du lịch, GO! - Theo Lam Giang, Minh Văn (Tuoitre)

Monday, 1 April 2013

Muốn phá kỷ lục của anh trai, cậu bé Nguyễn Phan Nhật Anh ở Thụy Khuê (Hà Nội) đã đặt chân lên đỉnh Fansipan khi mới 6 tuổi. Trước chuyến đi đầu đời, chú bé có nickname Nấc được bố rèn thể lực suốt 2 tháng.

< Chuyến đi của gia đình Nấc gặp đúng hôm thời tiết không thuận lợi.

Gần một năm sau hành trình leo núi, Nấc vẫn nhớ rõ từng đoạn đường khó và cả cảm giác phát chán khi đi mãi mà chẳng tới nơi. Cậu bé có khuôn mặt bầu bĩnh chỉ gói gọn hành trình leo Fan trong vài từ ngắn gọn là "thích", "mệt", "hét toáng" và "chết người".

< Sau chuyến leo Fansipan, gia đình Nấc đang dự định khám phá nhiều địa điểm khác.

Ngồi quây quần bên bố mẹ, anh trai Nhật Thành (12 tuổi) và chị gái tên Cầm (9 tuổi), thỉnh thoảng Nấc góp chuyện khi thấy anh kể về đoạn có tảng đá lớn bắc ngang qua một cái hố giữa đường hoặc những pha "nguy hiểm".

< Dù thời tiết không thuận lợi nhưng cậu bé quyết tâm phá kỷ lục của anh trai Rôm.

Năm 2008, anh trai Nấc có nickname Rôm từng đặt chân lên đỉnh núi cao hơn 3.000 mét khi mới 8 tuổi. Tháng 3/2012 cả gia đình Nấc cùng hai người bà con lại leo Fan.

< Trước chuyến đi, Nấc được bố rèn thể lực suốt 2 tháng nên cậu bé không ngại việc leo.

Cả nhà mặc định đây là "chuyến đi của Nấc". Còn cậu bé thì cho rằng leo Fan giống hệt mấy trò mạo hiểm "chết người" trong các bộ phim. Nấc hào hứng muốn khám phá và quan trọng hơn là muốn phá kỷ lục của anh Rôm.

< Phút nghỉ ngơi thưởng thức gà nướng.

Để có thể lực tốt cho chuyến đi, Nấc và anh trai được bố đưa ra công viên leo núi Nùng. Cậu còn tập đeo ba lô đựng đồ bên trong. Ở nhà, bố kiểm tra thể lực của hai anh em bằng cách xem nhịp thở khi đi lên đi xuống bốn tầng nhà.

< Nấc ngủ đêm trong lán trên núi.

Nhớ lại chuyến đi, Nấc cho hay: "Mỗi anh em tự đeo ba lô. Trong đó mẹ chuẩn bị cho anh chị và em một ít chocolate, phô mai, nước uống, diêm, một chiếc còi và cả áo mưa".

< Dọc đường, chị Cầm bị đau bụng nên ở lại lán với mẹ.

9h sáng 24/3/2012, đoàn nhà Nấc xuất phát và gặp trục trặc ở ngay cửa rừng bởi từ trước tới giờ chưa có trẻ 6 tuổi leo lên đỉnh Fan. Anh Tấn, bố Nấc, phải đứng ra bảo đảm và chịu trách nhiệm để chuyến đi được tiếp tục. Tháng 3 thời tiết không thuận lợi, trời u ám, có mưa và gió to. Nấc, anh Rôm và chị Cầm ngoài mặc bộ quần áo gió chống thấm nước còn đi thêm bịt đầu gối, đôi ủng và găng tay.

< Ba bố con Nấc vẫn tiếp tục leo lên tới đỉnh.

Đi được một đoạn, cả đoàn dừng lại để ba đứa trẻ nghỉ ngơi và trấn an tinh thần cậu út. Dọc đường, chị Tú, mẹ Nấc, phải thường xuyên chuyện trò để cậu bé đỡ chán. Qua đoạn rừng trúc dễ đi, lại có hoa ban, đỗ quyên nở muộn, bố mẹ dành thời gian đi dạo cùng nhau, không ai nói chuyện với Nấc khiến cậu hét toáng lên vì chán.

Trong lúc leo, bố mẹ Nấc phân công nhau kèm cặp ba đứa trẻ. Mẹ và chị Cầm luôn đi cùng nhau còn anh Rôm đi sau Nấc, bố Tấn sẽ đi chốt đoàn. Ngủ lại một đêm ở độ cao 1.800 m, sáng hôm sau gia đình Nấc tiếp tục hành trình. Lên tới 2.900 m, Cầm bị đau bụng và phải cùng mẹ nghỉ lại lán còn ba bố con tiếp tục đi. Khoảng 15 chiều 25/12, Nấc cùng các thành viên còn lại đặt chân tới đỉnh Fan.

< Mỗi anh em Nấc đều tự mình mang theo ba lô riêng bên trong đựng đồ ăn, áo mưa, đèn pin, diêm, còi...

Từng có kinh nghiệm leo Fan, Rôm ra dáng anh cả khi thường xuyên chăm lo và để mắt tới Nấc. Với Rôm, hai lần leo Fan mang lại cho cậu bé những cảm nhận khó tả. Lần đầu leo cùng bố, lần thứ hai cậu đi cùng cả nhà.

Rôm cho hay, khi leo núi để sử dụng chai nước mang theo hiệu quả, cậu sẽ uống một ngụm rồi ngậm trọng miệng để từng giọt từ từ thấm qua cổ họng thay vì tu cạn chai nước. Với cách đó, cậu sẽ tiết kiệm được nước uống và bụng đỡ óc ách. Lúc nhỏ, đi du lịch cùng bố mẹ, Rôm được bố dạy cách xem bản đồ, la bàn, cách sử dụng một sợi dây hay đơn giản là cách uống nước, cách thở ra sao khi phải leo dốc.

< Chuyến đi giúp ba đứa trẻ nuôi ước mơ, trải nghiệm, biết quan tâm, chia sẻ.

"Bố dặn nếu bị lạc trong rừng thì phải mặc áo mưa cho ấm rồi tìm một hốc cây, ngồi yên ở đó sẽ có người tới cứu. Bố muốn em có được các kỹ năng để nếu nhỡ bị lạc trong rừng thì vẫn có thể tự lo cho mình", Rôm nói.

< Rôm (ngoài cùng bên phải), anh trai Nấc, từng leo lên đỉnh Fansipan năm 8 tuổi.

Thừa hưởng đam mê và sở thích du lịch từ bố, ba anh em Rôm thường được theo chân "papa" trên các cung đường phượt. Không thích khái niệm chinh phục, vợ chồng anh cho rằng thiên nhiên không thể chinh phục và thật khó để lường hết tình huống xấu xảy ra giữa đường. Việc giúp các con leo lên đỉnh Fan thành công là cách giúp bọn trẻ thực hiện ước mơ. Anh chị muốn các con biết ước mơ và tạo điều kiện để các con biến mơ ước ấy thành hiện thực.

< Lên tới đỉnh núi, anh trai Rôm cởi áo khoác nhường cho Nấc vì sợ em trai bị lạnh.

Ông bố này thừa nhận, chuyến đi khá nguy hiểm với trẻ nhỏ nên nếu chưa có sự chuẩn bị tốt về thể lực và tinh thần, các phụ huynh không nên cho con leo núi. Anh Tấn khẳng định đã rèn luyện cho các con kỹ lưỡng trước chuyến đi, nhưng vẫn không thể lường được tình huống Cầm bị đau bụng. Sơ suất ấy nhắc nhở anh lần sau phải thận trọng hơn nữa.

"Chuyến đi giúp các thành viên trong gia đình gần gũi, biết quan tâm nhau hơn, đồng thời là cơ hội để bọn trẻ trải nghiệm cuộc sống, biết chia sẻ và vượt qua khó khăn. Hình ảnh khiến tôi xúc động nhất là lúc Rôm cởi áo khoác đưa cho Nấc mặc khi vừa đặt chân tới đỉnh núi vì sợ em lạnh", anh Tấn tâm sự.

Sau hành trình lên đỉnh Fansipan, gia đình Nấc đang lên kế hoạch cho những chuyến đi tiếp theo.

Du lịch, GO! - Theo Bình Minh (VnExpress), internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống