Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Monday, 15 April 2013

Công trình thủy điện, thủy nông Ayun Hạ hoàn thành năm 1994, nằm trên địa bàn 2 huyện Chư Sê và Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Với diện tích mặt nước 37 km², công trình vĩ đại, tuyệt đẹp này không chỉ khiến Gia Lai trở thành vựa lúa của Tây Nguyên, nó còn giúp hàng ngàn nông dân mưu sinh, thoát nghèo bằng nghề đánh bắt cá.

Sung túc nhờ hồ

Những ngày lang thang quanh khu vực hồ Ayun Hạ, một lần đứng trên đỉnh đèo Chư Sê phóng tầm mắt nhìn xuống hồ, tôi mới thực sự ngỡ ngàng trước cảnh thiên nhiên đẹp như một bức tranh. Toàn cảnh bức tranh nền là một màu xanh trù phú.

Hai bên hồ là hai dãy núi sừng sững ôm lấy dòng sông Ayun hiền hòa. Phía dưới là nhà máy thủy điện Ayun Hạ và dòng nước trong xanh chảy theo kênh chính dài ngút tầm mắt, uốn lượn theo những cánh đồng chạy dài xuống thị trấn Ayun Pa tạo nên bức tranh đồng quê tự nhiên, hài hòa. Những mái nhà tranh cất tạm của ngư dân nằm lúp xúp bên bờ hồ. Dưới lòng hồ, những chiếc thuyền của ngư dân lững thững trôi… khung cảnh thật êm đềm.

Hỏi thăm mãi, cuối cùng tôi cũng tìm được nhà của già làng của làng T’lâm, xã Ayun. Năm nay đã gần 80 tuổi, già làng K’puih từng trải qua biết bao thăng trầm của quê hương, từng có những tháng năm dài tham gia nuôi giấu bộ đội trong cả 2 thời kỳ chống Pháp, Mỹ. Đêm đêm, già làng cùng thanh niên trong làng chèo thuyền độc mộc chở bộ đội vượt sông, mai phục dưới chân đèo Tung Kê tiêu diệt kẻ thù.

Già làng khoe: “Từ lúc có hồ đến nay, bà con hết nghèo đói, sống khỏe. Giờ nhiều người thích xuống nước bắt cá hơn lên rừng rồi”. Theo già làng K’puih, chỉ tính riêng xã Ayun đã khoảng hơn 300 hộ làm nghề đánh bắt cá trên hồ. Trẻ con trong làng khi vừa biết đi cũng là lúc phải tập bơi, lên 10 tuổi đã biết câu cá, thậm chí có đứa giăng lưới thành thục, biết canh con nước, ngọn gió để đặt câu, buông lưới. Quả thật, hồ Ayun Hạ đã cho bà con cuộc sống sung túc.

Tôi gặp ngư dân Đ’Breng, ở làng T’Lâm, xã Ayun, giữa lúc anh vừa đi thả lưới về. Tôi ngạc nhiên thấy quần áo anh sũng nước nhưng chẳng thấy cá đâu. Anh cười bảo: “Bây giờ mình chỉ thả lưới xuống thôi, về ngủ 1 giấc rồi sáng dậy sớm đi mang cá về bán thôi”. Tôi hỏi: “Thả lưới không có người trông người khác xuống lấy mất thì sao?”. “Không đâu, ai cũng có mà”, anh thật thà đáp.

Già làng K’puih cũng nói với tôi rằng từ xưa đến giờ chưa từng xảy ra mất trộm lưới. Đ’Breng năm nay gần 50 tuổi và anh chẳng nhớ đã gắn bó với dòng sông từ lúc nào. “Ngày xưa theo cha đi bắt cá dưới sông, cũng có cá. Bây giờ có hồ rồi, nhiều cá lắm, không phải ngược lên thượng nguồn nữa”, anh nói tiếp. “Thả lưới một đêm được bao nhiêu cá?”, tôi hỏi Đ’Breng. Anh đáp: “Nhiều lắm, con nào cũng to, mang nặng vai. Ở đây nhiều người thả lưới giỏi lắm”. Đ’Breng bảo, cách đánh cá của những ngư phủ trên sông Ayun rất khác người. Buổi chiều sau khi đi rẫy về họ chỉ ra sông buông lưới xuống để sáng mai ra thu lưới và mang cá về bán.

Đối diện các làng thuộc xã Ayun, huyện Chư Sê là các làng ngu phủ Kim Piêng, Plei Bông, Plei Trơk, Plei Hek… của xã Chư A Thai, huyện Phú Thiện đang có cuộc sống sung túc nhờ hồ Ayun Hạ.

Buổi chiều, hoàng hôn buông xuống thật nhanh. Những ngôi nhà sàn bắt đầu sáng đèn. Tôi ngỏ ý muốn ở lại một đêm, già làng K’puih gật đầu, cười bảo: “Rừng đủ thức ăn, đủ chỗ ngủ mà”.

Kiêng kỵ khi buông lưới

Buổi sáng, khi mặt trời chưa ló rạng tôi đã giật mình choàng tỉnh bởi tiếng khua mái chèo, tiếng gọi í ới bằng tiếng bản địa. Già làng K’puih đang ngồi thư thái nhìn ra khoảng sân đầy heo gà, miệng phì phèo tẩu thuốc. Tối qua, tôi đã được xúc miệng bằng rượu cần, có vị thuốc, được thưởng thức món cá hồ Auyn Hạ nướng, nấu măng chua, và sau đó, ngủ một giấc thật say trong tiếng ru của cây rừng…

Bên ngoài, bờ hồ tấp nập, mọi người đang hối hả xuống xuồng, đi gỡ lưới. Tôi nhanh chân theo bước theo Đ’Breng. Biết tôi có ý định theo ra hồ, anh bảo: “Hồ sâu lắm, anh có biết bơi không?”, thấy tôi gật đầu, anh tiếp: “Hồ cũng có thần linh cai quản, phải khấn trước nếu không thần không cho xuống, không cho cá đâu”. Nói rồi anh chắp tay, ngửa mặt rì rầm một lát rồi nói: “Xong rồi”.

Chúng tôi bước xuống thuyền. Những chiếc thuyền khác cũng bắt đầu ra sông. Đ’Breng bảo, không chỉ khấn, xin phép thần trước khi ra hồ, còn phải hứa không được làm điều xằng bậy như phóng uế, bắt cá nhỏ, gian lận… Lưới của Đ’Breng thả không xa bờ, nhưng khi anh vừa kéo lên, đã thấy mấy con cá mè khá to giãy giụa.

Suốt thời gian gỡ cá, Đ’Breng không nói một lời. Mẻ cá từ nắm lưới dài chừng 30 m Đ’Breng thu chừng 40 con cá mè, cá lóc, cá trôi. Ước cũng hơn chục ký cá. “Mình bán bao nhiêu tiền một ký?”, tôi hỏi anh. “Có khi 20 ngàn, có khi cao hơn. Tùy hôm, khi nào họ bảo hôm nay cá rẻ thì mua thấp, hôm nào đắt thì họ trả cao”.

Hồ Ayun Hạ có rất nhiều cá. Cá tự nhiên vốn đã nhiều nay được Cty Thuỷ sản miền Trung thả giống chăn nuôi nên cuộc sống của hàng trăm hộ dân sống quanh lòng hồ Ayun Hạ càng sung túc hơn xưa. “Ở đây nhiều cá to lắm. Vì nó sống lâu nên rất khôn. Lưới không bắt được nó đâu. Có khi nó được thần nước bảo vệ rồi cũng nên”, Đ’Breng nói.

Hằng ngày vào buổi trưa, sau khi thuyền đánh bắt cập bến, những xe tải đông lạnh lại chở cá nước ngọt đi khắp mọi miền đất nước. Cá ở đây nhiều vô kể và đa dạng về chủng loại như: trôi, chép, mè, lăng, trắm cỏ… và đặc biệt là cá thát lát, một trong những đặc sản nức tiếng của Gia Lai.

“Hữu xạ tự nhiên hương”, hồ Ayun Hạ và cả những vùng đất xung quanh nó đã trở thành mảnh “đất lành”, thu hút nhiều người đến mưu sinh. Anh Đ’Đôk, một ngư dân mới chuyển đến làng Plei Trơk, xã Ayun va cũng sống nhờ nguồn cá trên hồ nói: Lúc trước, anh sống ở xã H’Bông, huyện Chư Sê nhưng đời sống gặp nhiều khó khăn vì khô hạn, đất đai cằn cỗi.

Nhưng từ lúc chuyển cả gia đình về đây, lòng hồ Ayun Hạ đã giúp anh và cả gia đình thoát khỏi cảnh đói nghèo. “Tôi biết ơn hồ, biết ơn thần linh đã chỉ dường cho tôi gặp hồ, biết ơn nhà nước đã làm hồ nước này cho bà con”.

Ngày xưa, ở các buôn làng Tây Nguyên, ai cũng biết câu ca dao: “Ai về nhắn với nậu nguồn/Măng le gửi xuống cá chuồn gửi lên”. Nhưng bây giờ, câu ca ấy đã đi vào dĩ vãng, chẳng còn ai nhắc đến nữa. Hồ Ayun Hạ đã mang rất nhiều cá đến cho họ rồi, nên họ chỉ gửi sản vật của rừng về xuôi thôi chứ không cần dưới đó gửi cá lên nữa.

Du lịch, GO! - Theo Báo Nông Nghiệp, internet
Nếu có ai hỏi ngôi chùa nào u tịch, thanh vắng nhất Việt Nam, tôi sẽ trả lời đó là Am Ni tự (chùa Am Vãi, xã Nam Dương, huyện Lục Ngạn, Bắc Giang), nơi tách biệt hẳn với thế giới trần tục vốn ồn ào, lắm thị phi bên ngoài.

Tôi đã không thể kềm được lòng mình trước những lời giới thiệu đầy hấp dẫn của anh Ngô Văn Dậu, cán bộ văn hóa xã Nam Dương, về một ngôi chùa cổ ẩn sâu trên đỉnh núi ngút ngàn mây. Anh ví von đó là một “tiên cảnh” mà ai lên đây cũng thích thú và rồi nói như thách thức: “Không đủ can đảm cầm lái thì đừng đi chuyến này”.

Có nửa ngày để thực hiện, tôi quyết tâm đặt chân cho kỳ được đến đích cuối cùng chốn thiền này.

Chùa Am Vãi nằm cách xa các bản làng đồng bào dân tộc chỉ hơn 10km, nhưng đi xe máy từ UBND xã Nam Dương đến đây phải mất hơn một giờ rưỡi nên họa hoằn mới có vài người viếng thăm.

10g sáng, chúng tôi mỗi người một xe lên đường, xác định trước sẽ “ăn mày cửa Phật” bữa trưa. Đoạn đường 2km chớm vào rừng được trải nhựa khá đẹp, hai bên bạt ngàn rừng keo, nương sắn, bãi rau của đồng bào người Cao Lan, Sán Chỉ, Sán Dìu…

Nhưng hết đoạn này, mấy chiếc xe luôn trong tình trạng số 1, số 2. Trước mỗi con dốc dựng đứng, người cầm lái phải nín thở kéo ga cho xe ì ì bò lên từng centimet, hai mắt cứ phải căng ra để quan sát. Đường càng lúc càng nhiều đá sỏi lởm chởm, đi xiên xẹo vào tận giữa rừng rậm rồi thoắt cái mở ra một khung trời mới với cảnh sắc tuyệt đẹp.

Phía bên kia rừng, ánh nắng nhợt nhạt hắt nhẹ lên những vạt cỏ tranh vàng úa, hoa lau, cây bụi như một thảo nguyên đầy mơ mộng được tô điểm bởi những lớp mây lơ đễnh giăng ngang. Đang mùa hanh khô, những bãi cỏ tranh rộng mêng mông, sự sơ ý của người đi làm rẫy sẽ rất dễ làm rừng tổn thương.

Hết trèo đèo lại xuống dốc, mấy chiếc xe rồ ga, giật đùng đùng rồi lại lao ào ào trên lớp đá trơ sắc nhọn, mùi xăng bốc lên khét lẹt. Giữa trời lạnh mà mồ hôi vã ra liên tục, chỉ cần lơ đễnh là có thể tan xác dưới vực sâu. Anh Dậu kể mấy năm nay đường dễ đi hơn nhiều, ôtô loại gầm cao có thể đến chùa nhưng chỉ vào những ngày nắng ráo, trời mưa thì chỉ còn cách… khóc.

Đi mãi rồi cũng đến một thung lũng khá bằng phẳng. Để xe lại đây, chưa nhìn thấy Am Ni tự đâu mà tôi đã cảm nhận được mùi hương trầm lan tỏa khắp không gian. Chuông ngân từng đợt dài vang vọng núi rừng. Bên kia ngọn đồi, mây mù vẫn lơ lửng xung quanh tán thông, tán trúc. Linh tính mách bảo chùa Am Vãi chỉ đâu đó quanh đây.

Đi bộ chừng 50m chùa hiện ra trước mắt. Chốn thiền môn thật lặng lẽ, tĩnh tại. Phía sau lớp sương mờ cạnh vườn đào non tơ mơn mởn lộc biếc xuất hiện một ni cô thong dong thả bộ.

Thầy trụ trì Thích Trúc Thái Bình cho biết trên này không có điện, đường sá xa xôi, đi lại khó khăn nên hiếm khi các thầy xuống núi. Mọi sinh hoạt đều tự cung tự cấp. Các thầy tự trồng rau xanh hoặc khi nào có phật tử lên chùa thì mang theo chút cơm nắm, muối vừng để nhà chùa thọ chay.

Cũng theo sư thầy Thái Bình, xưa kia ở đây hoang vu lắm, quanh chùa toàn cỏ cây giăng kín. Năm 2010 thầy về trụ trì tại đây và cho tôn tạo một số khu vực chùa thêm đẹp đẽ như hiện nay.

Thiên nhiên bao la khoáng đạt, không gian yên ả, tĩnh mịch là điều mà những ai đến Am Vãi đều cảm nhận được.

Chùa Am Vãi được xây dựng từ thời Lý, nằm trong hệ thống các chùa tháp theo sườn Tây Yên Tử. Tương truyền vào thời Trần có sư nữ là công chúa nhà Trần tu hành ở đó nên mới có tên Am Vãi (Vãi có nghĩa là nữ tu hành).

Ở đây có một hang tiền và một hang gạo, mỗi ngày hai hang này chỉ chảy ra một lượng tiền và gạo đủ cho vị sư này dùng mà không bao giờ chảy hơn. Một ngày, vị sư nọ có khách liền khơi cho hang tiền và gạo chảy ra đủ hai người dùng. Từ đó tiền và gạo ở hai hang này không bao giờ chảy ra nữa…

Dấu tích của chùa còn lại đến ngày nay là hai ngôi tháp cổ bên trong có bài vị của một nhà sư thuộc thiền phái Trúc Lâm được tấn phong Tỳ Kheo Như Liên hóa thân vào hàng Bồ Tát đã nhập cõi niết bàn và một dấu chân Phật trên phiến đá khá lớn…

Lên đây tôi cũng được biết thêm những truyền tích đẫm màu huyền bí. Đó là huyền thoại về hang Tiền, hang Gạo, là dấu chân Phật, bàn cờ tiên, phía xa kia là câu chuyện cảm động về vũng Chị, vũng Em, núi Hàm Rồng, giếng Cần…

Quan trọng hơn, tôi đã tìm được cho mình những giây phút thật thư thái, yên bình. Được lắng nghe tiếng chuông chùa ngân dài theo tiếng gió, tiếng ếch, nhái, côn trùng, chim muông hòa quyện cùng núi rừng và hoa cỏ ngát hương…

Du lịch, GO! - Theo Hồng Ngoan (Dulich Tuoitre), internet
Đến với núi rừng Trường Sơn hoang dã thuộc huyện biên giới Tây Giang (Quảng Nam), bạn sẽ được thưởng thức các món ăn chế biến từ đọt mây (c’rêê, ha’vây) là món ăn ưa thích, hấp dẫn, lạ miệng của đồng bào Cơ Tu, nhất là trong dịp tết đến xuân về.

< Đọt mây.

Mây thường mọc thành bụi ở các khu rừng thâm u trên dãy Trường Sơn với hàng chục loài mây như mây song, mây nước, mây voi…

Có dây mây mọc dài đến hàng chục mét. Muốn lấy đọt phải rút sợi mây xuống, có khi phải huy động nhiều người mới rút nổi sợi mây để lấy đọt.

Mùa xuân, cây cối trên dãy Trường Sơn đâm chồi nảy lộc với những rừng mây xanh tốt mỡ màng. Lúc bấy giờ, đồng bào vào rừng bứt mây về bán lấy tiền mua sắm trong những ngày tết. Sẵn dịp, họ mang một số đọt mây về nhà chế biến các món ăn. Mây trên Trường Sơn có nhiều loài khác nhau, nhưng chỉ có loại mây voi là được ưa chuộng nhất bởi nõn nó ăn giòn, béo và vị ngọt, đắng nhẹ.

Đọt mây được chế biến thành nhiều món ăn hấp dẫn như các món xào, hấp cơm, nướng chín với lửa than hoặc giã nát nấu với thịt khô hoặc cá khô trong ống tre là món canh ngon nhất của đồng bào.
Đối với mây nước, chỉ cần khoảng 20 đọt ngọn mây là vừa một nồi canh ăn cả nhà. Đầu tiên, bóc lớp vỏ ở đọt mây ra, lấy nõn non xắt và ngâm qua nhiều nước cho hết nhựa đỏ, đến nước cuối cùng thì thêm chút muối cho bớt đi vị chát sau đó chế biến các món ăn.

Người Cơ Tu dùng nõn mây xắt ra xào (ađiing) với mỡ hoặc dầu ăn, có hương vị rất riêng mà không có loại đọt cây nào có được. Món đọt mây nướng (bóh) được vùi dưới than hồng giống như nướng củ sắn tươi có hương vị rất thơm, bùi và không dai vì còn giữ được nước. Đọt mây nướng phải ăn với muối hột giã với tiêu rừng (amất) mới “hợp gu”. Ngày nay, rừng càng ngày càng hẹp lại. Muốn ăn đọt mây, đồng bào phải đi rất xa, do đó đọt mây trở thành sản vật hơi hiếm.

Đặc biệt, món cháo bột sắn nấu với nõn mây của người Cơ Tu được chế biến như sau: Dùng sắn tươi bào ra bột hoặc sắn xắt lát phơi khô, sau đó bỏ vào cối giã thành bột để làm bánh hoặc nấu cháo (apưr). Lấy bột sắn hòa với nước nấu khoảng 8 – 10 phút cho cháo chín.

Khi nấu nhớ dùng đũa bếp quấy đều để tránh khét, sau đó cho nõn mây, cá vụn như tôm, tép cá đá, ốc đá… bỏ thêm rau tươi (ađhớc hay anệêng), muối, mì chính, tiêu rừng, ngò tàu (abắt) thành món ăn thơm ngon, khoái khẩu. Người già “rụng răng” rất thích ăn món này vì không cần nhai.

Những người già Cơ Tu thường nói: ”Đọt mây song ăn nhiều không bị nặng bụng như măng. Ngoài ra, nõn mây thường được đồng bào nơi đây dùng để giải độc rượu, trị đầy hơi, trướng bụng, nhất là trong dịp tết, ăn uống, tiếp đãi nhiều. Người con rể Cơ Tu hiếu thảo khi thường xuyên nấu cho bố mẹ vợ món cháo apưr này vì những người già chúng tôi đều đau răng, rụng răng, món này dễ húp…”.

Du lịch, GO! - Theo Tùng Sơn (Vĩnh Long Online), internet
Bắt nguồn từ núi Chiến, suối Ba Li là một trong hệ thống các suối Tranh, suối Thượng (núi Chà Pau), suối Rích, suối Cóc (núi Nhọn)… đổ nước về hồ chứa nước Cam Ranh, nơi cách trung tâm thành phố Nha Trang khoảng 30km về phía Nam, trên địa bàn hai xã Cam Tân và Cam Hòa, thuộc huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa.

Suối Ba Li là một điểm du lịch nổi tiếng của huyện Cam Lâm. So với các suối khác, đây là nơi thuận tiện đi lại, vui chơi cắm trại, và còn tương đối hoang sơ nên đảm bảo được yêu cầu sinh thái, nghỉ ngơi, dã ngoại...

< Đường vào suối Ba Li

Có nhiều đường đi đến suối Ba Li. Từ trung tâm thành phố Nha Trang xuôi Quốc lộ 1A, đến địa phận huyện Cam Lâm, đi khoảng một cây số, có tấm bảng lớn chỉ đường vào làng xã hội Cam Tân, rẽ theo đường này đi khoảng 3km là đến suối Ba Li.

Đường vào suối được láng nhựa, băng qua làng mạc, ruộng đồng thanh bình và yên ả. Gần đến khu vực suối, khách sẽ thấy hồ Ba Li và không khí bắt đầu mát mẻ. Từ đập tràn, mặt nước hồ trải ra xanh ngút mắt. Bên kia hồ là cánh rừng dày đặc, xanh um. Càng đi, không khí càng dịu mát.

Vào điểm gửi xe máy, khách bắt đầu thả bộ xuống đập tràn, từ đây có nhiều con đường mòn rẽ nhánh lên suối. Đi theo những con đường mòn này vào rừng, chưa đến một cây số là có nơi để cắm trại.

Chọn một bãi cát bên kia suối, khách bắt đầu xắn quần lội qua. Đá nhiều rêu, dễ trơn trợt, tuy nhiên, nước không sâu lắm, chỉ quá đầu gối một chút. Người chịu ướt thì bước qua dễ dàng, còn không thì bước trên đá cho đồng đội kéo qua.

Sang tới “bãi bồi”, nhóm du khách tụ tập dưới một tán cây to, bóng nắng chỉ xuyên qua lốm đốm. Trải tấm bạt, “đội hậu cần” bắt đầu chuẩn bị món ăn. Gà làm sẵn từ nhà, lấy gia vị ra ướp. Một nhóm khác đi kiếm củi khô. Trong chốc lát, một con gà đã nằm trên giàn nướng. Bếp gas mini cũng đang đỏ lửa để nấu một nồi lẩu gà lá… me hái trong rừng. Kết hợp với đồ ăn nguội mang theo là đã có bữa trưa đơn giản giữa rừng.

Ăn xong, cả nhóm nằm lơ mơ trên đá ngủ, một vài người thơ thẩn dọc bờ cỏ cây, rồi đi tắm suối, chơi trò chơi hay thám hiểm rừng…

Rừng ở đây có một loài hoa màu trắng nhỏ xíu, mọc thành từng vạt, lấp lánh trong nắng, rất đẹp. Thậm chí bạn chỉ cần nằm trên một tảng đá và ngắm mây trời, nghe tiếng suối róc rách, tiếng chim hót bên tai cũng đã là một sự thư giãn tuyệt vời.

Chiều xuống, cả nhóm “thanh toán” cho bằng hết số thức ăn còn lại, thu dọn “chiến trường” sạch sẽ, lên đường về lại phố. Một ngày được sống giữa thiên nhiên, cỏ cây, hoa lá, chim muông, nước chảy, mây trôi đã qua...

Du lịch, GO! - Theo Bình An (Phụ Nữ Online)

Hoang sơ suối Ba Li - Khánh Hoà

Sunday, 14 April 2013

Theo quốc lộ 32 uốn lượn qua miền núi non Tây Bắc, đoàn chúng tôi dừng chân một ngày ở thung lũng Mường Lò. Thung lũng được bao bọc bởi dãy Hoàng Liên Sơn này là một trong những cái nôi văn hóa của tỉnh Yên Bái.

Với sự hiện diện của 17 dân tộc trong đó đông nhất là người Thái đen, Mường Lò khiến những ai đã một lần đi qua sẽ phải nhớ mãi đời sống sơn cước thi vị và nhiều màu sắc nơi đây.
Từ nhà sàn nhìn ra những cánh đồng lúa thoai thoải bậc thang chạy về phía núi, trên đồng thấp thoáng bóng những cô gái Thái duyên dáng trong trang phục đen truyền thống, du khách bỗng đâm ra lưu luyến đời sống miền sơn cước.

Trong các dân tộc ở Việt Nam, người Thái có đời sống văn hóa tinh thần phong phú được xếp vào bậc nhất. Người Thái ở Mường Lò nổi tiếng là giữ gìn được nhiều nét văn hóa của cha ông, từ nếp nhà sàn đến nghề dệt thổ cẩm, trang phục, ẩm thực, đặc biệt là những điệu khắp (hát, ngâm), điệu xòe lãng mạn mượt mà.

Trong những buổi tiếp khách phương xa, giữa tiếng khèn bay bổng, tiếng trống, tiếng chiêng sâu lắng mà rộn rã, những bước xòe uyển chuyển làm cho con người gần gũi chan hòa với nhau hơn.

Sinh sống trên vùng đất phì nhiêu, trù phú, người Thái ở Mường Lò cũng sáng tạo nên một nền ẩm thực đặc sắc với bánh chưng đen, thịt trâu sấy, thịt hun khói, cơm nhuộm, xôi cá… đặc biệt nhất là các món ăn chế biến từ côn trùng, rêu đá.

Rêu mọc từ đá ngầm dưới sông, suối là loại thực phẩm được người Thái, Mông, Mường yêu thích từ xa xưa. Theo các già làng, rêu có khả năng chữa một số bệnh và phòng ngừa lam sơn chướng khí.

Khi mùa rêu đến, các bản làng chọn một ngày làm ngày hội lấy rêu, nhà nhà cùng nhau đi đến bãi rêu ở các sông, suối lớn. Mỗi năm người Thái tổ chức đi lấy rêu bốn, năm lần để làm thức ăn khô dự trữ và làm quà biếu.

Rêu ở Mường Lò dài, dày, xanh ngắt, ngon nhất vào tháng 11, 12 Âm lịch. Việc chế biến rêu quan trọng nhất là khâu xử lý ban đầu.

Người ta đặt rêu lên những tảng đá nhẵn, dùng thanh gỗ đập tơi, sau đó rửa thật kỹ, xong đem ủ muối từ 10 đến 15 phút rồi lại rửa lại, cuối cùng mới băm nhỏ rêu và cho gia vị vào để chế biến thành các món ăn.
Các món ăn được chế biến từ rêu khá đa dạng như: rêu nướng, chiên, nấu canh. Cầu kỳ nhất và hấp dẫn nhất là hai món khay pho, khay pỉnh.

Khay pho gồm rêu, một chút thịt mỡ, hành, tỏi, mắc khén, gừng, ớt, thì là, lá chanh, củ sả (tất cả đều được băm nhỏ) trộn đều với ít muối, xong rồi đem gói lại bằng lá dong hoặc lá chuối và vùi vào tro nóng, bên ngoài phủ than hồng.

Sau khoảng hai giờ, khi lá chuối đã khô giòn, chuyển sang màu vàng ươm là rêu đã chín. Khi ăn, mở gói lá dong ra, mùi mắc khén, hạt sẻn và mấy chục thứ gia vị cùng tỏa mùi ngạt ngào, còn rêu vẫn riêng một vị thanh mát.

Món khay pỉnh còn cầu kỳ hơn. Rêu và gia vị sau khi trộn như làm khay pho thì được đem gói bằng lá lốt hoặc lá chanh, xong rồi lấy thanh tre tươi chẻ đôi kẹp các gói nhỏ này lại đem nướng giòn.

Rêu chín, lấy ra cho vào chảo chiên với mỡ heo rồi mới ăn. Món rêu thơm phức nhắm với chút rượu gạo, rượu ngô nấu bằng men lá quả đúng là tinh hoa của núi rừng.

Vào các dịp lễ tết, người Thái còn băm nhỏ rêu với thịt gà thịt vịt, cho vào chõ đồ lên như đồ xôi. Nghe nói món này ăn béo ngậy và có mùi thơm rất quyến rũ.
Khách phương xa đến nếu được đãi rêu là biết người dân nơi đây quý mình lắm. Bởi vì rêu suối nhiều nhưng rêu ngon thì ít, và mùa rêu ăn được cũng rất ngắn ngủi. Món rêu khô trên gác bếp là thứ quà biếu mà người Thái chỉ để dành cho những mối thân tình.

Du lịch, GO! - Theo Doanh Nhân Saigon Cuối Tuần
Từ lâu, vùng nước lợ hạ lưu sông Vệ, đoạn sông Vực Hồng (Quảng Ngãi) có một loại cá hình dạng giống cá đối, người địa phương thường gọi là cá chua. Gần đây nghề nuôi tôm phát triển, loài cá này cũng xuất hiện nhiều hơn. Chúng sinh trưởng trong những hồ tôm bỏ hoang hay những hồ đang nuôi mà đầu vụ chủ hồ dọn không kỹ, nhiều loài thủy sản còn sót lại.

Dân gian cho rằng giống cá chua sinh sản tự nhiên ngoài sông, khu vực nuôi tôm cũng là môi trường sinh sống thuận lợi của chúng. Do vậy mà ở vùng này có nhiều cá chua, và nó trở thành một món ăn với những cách chế biến dân dã nhưng rất ngon.

Về hình dạng, cá chua to cỡ bàn tay người lớn, dài và đầu thuôn hơn cá đối, vảy nhỏ, da màu ánh bạc. Người ta bắt cá chua theo mùa nuôi tôm, nghĩa là khoảng từ tháng ba đến tháng tám, nhiều nhất vào độ tháng sáu âm lịch.

Cá chua bắt được đem về rửa sạch, chế biến theo cách dân dã sẽ được nhiều món như: Nướng, luộc, hấp, nấu măng. Với món nướng thì chỉ cần cho cá đã làm sạch lên vỉ, có hoặc không lót lá chuối tươi và nướng trực tiếp trên lửa than rực đỏ. Kỹ thuật nướng phải trở đều để cá chín đến sém vàng, không cháy mới ngon.

Ăn cá chua nướng với bánh tráng mỏng cuộn rau sống, chấm mắm ớt tỏi, hoặc chấm muối trắng giã nhỏ cùng ớt hiểm xanh là ngon nhất. Còn món luộc thì cho cá đã làm sạch ruột, mang, ướp mắm muối và bỏ vào nồi nấu đến chín, thêm gia vị tiêu, ớt, rau thơm là dùng được.

Ăn món luộc không gì bằng gắp cá lên đĩa, còn nước thì bỏ bánh tráng nướng giòn bẻ nhỏ vào tô, thêm nhiều rau thơm và dùng  khi thức ăn còn nóng.

Món hấp công phu hơn, người ta để cá tươi được làm sạch vào đĩa to, thêm đủ gia vị hành, tiêu, ớt, gừng lát, bún khô sợi nhỏ, thơm xắt lát, nấm mèo,... Sau đó cho vào nồi hấp, đậy nắp kín, chụm nhỏ lửa, hạn chế bốc hơi ồ ạt làm mất mùi thơm và chất bổ dưỡng. Ăn món này cũng phải dùng bánh tráng mỏng cuộn cá với  rau sống, chấm mắm ớt tỏi hay mắm nêm đều ngon. Với ba cách chế biến trên, mỗi món cho một hương vị riêng, người dùng chúng đều cảm thấy ngon khó tả.

Thế nhưng, có lẽ dân dã và hấp dẫn thực khách hơn cả vẫn là món cá chua nấu măng. Chế biến món này bằng cách làm cá chua sạch ruột, mang, rửa kỹ rồi bỏ vào xoong hoặc nồi. Xong cho thêm măng tươi xắt lát mỏng hoặc cọng dài vừa phải, ớt tươi thái nhỏ hay giã dập, một ít muối hột và đổ nước ngập cá và măng, thêm gia vị cần thiết rồi đun nhỏ lửa nấu chín. Khi nhắc nồi xuống phải cho thêm rau thơm như húng quế, ngò tàu,… Món này có thể ăn với bánh tráng hay với cơm tùy bữa ăn gia đình hay tiếp khách.

Vị ngon của món cá chua nấu măng ở chỗ vừa có hương vị cá, vừa hương vị măng tươi, ớt tươi,... tạo cho người thưởng thức một cảm nhận ngon khoái khẩu.

Du lịch, GO! - Theo Bùi Văn Tạo (Quảng Ngãi Online), ảnh internet
Người Mày là một trong những bộ tộc ít người hiện còn lại ở Quảng Bình, cư trú chủ yếu trong 2 xã Trọng Hóa và Dân Hóa thuộc huyện Minh Hóa. Gắn bó với vùng núi rừng và thiên nhiên khắc nghiệt của Quảng Bình từ bao đời nay, người Mày đã xây dựng được những tập quán sinh hoạt văn hóa rất riêng, trong đó có những câu ca điệu hát, lời ru mộc mạc mà đằm thắm, thấm đẫm tình người…

Tháng 10 năm 2012, bộ đội biên phòng Quảng Bình vừa khánh thành bản mới cho người Mày ở huyện vùng biên Minh Hóa, Quảng Bình. Nhân dịp này, CTV báo Pháp Luật TP.HCM đã vào tận bản làng, cùng ăn, cùng ở, cùng làm với người dân tộc anh em để tìm hiểu về phong tục tập quán và đời sống văn hóa của tộc người có hơn vài trăm nhân khẩu này.

Đi tìm vùng đất truyền thuyết

Đường vào với anh em người Mày ở miền biên viễn Minh Hóa, Quảng Bình đi trên núi cao, từng lớp mây xếp lớp như đang lên trời. Bản mới của họ được làm trên một quả đồi như tổ chim đại bàng hùng vĩ, khổng lồ, được tạo ra theo tục lệ cổ xưa của dân tộc này.

Người Mày là tộc người duy nhất chỉ sống ở miền biên viễn Minh Hóa, Quảng Bình, tại hai xã Dân Hóa, Trọng Hóa, với dân số nhỉnh hơn vài trăm người, sống men theo những cái rẫy dốc cao của núi rừng giáp Lào và men khe suối ở thượng nguồn. Mày, theo tiếng của tộc người anh em này có nghĩa là đầu nguồn con nước. Tộc người này thuộc nhóm dân tộc Chứt, là hệ gia đình của nhóm anh em Rục, Mày, Sách, Khùa. Tính tình khí khái, họ chỉ sống ở đầu nguồn nước, bởi theo truyền thuyết, người Mày sinh ra để trở thành chiến binh bảo vệ cương vực cho những người anh em phía dưới chân núi.

Tục ở cổ xưa của người anh em này vốn chọn những quả đồi cao giữa tứ bề núi dựng đứng. Nơi đó họ đủ sức quan sát như mắt chim đại bàng về cách tìm kiếm các sản vật hay thú rừng để vạch lối đi săn. Quả đồi đó cũng như pháo đài để họ cố kết chống lại dã thú hay những bộ tộc khác muốn đánh chiếm, xâm lấn.

Bộ đội biên phòng Quảng Bình vừa khánh thành cho 22 hộ anh em Mày 22 căn nhà trên một quả đồi lý tưởng như thế. Và người Mày xem bản nhỏ của họ là chiếc tổ đại bàng hùng vĩ giữa bốn phía trường thành núi cao. Từ quốc lộ 12A vào với bản Dộ nơi người Mày đến ở mất 30 cây số lầy lội của đường tuần biên mới mở. Trên núi cao Cu Động nhìn xuống bản của người Mày mới mẻ, quần tụ trong ánh nắng rừng, thấy mỗi ngôi nhà sát lại với nhau giữa đất trời, cảnh tượng đẹp lạ lùng.

Hành trình tìm vùng đất thiêng

Người Mày vốn có cuộc sống chôn nhau ở Tà Vờng, Tà Dong, đó là nơi đầu nguồn của giọt nước Hong Uông Trì Huồi, một trong những dòng suối đầu tiên khởi phát ra sông Gianh nổi tiếng. Nhưng gần đây bản làng cũ của họ bị đất núi sạt lở, họ phải đi tìm nơi ở mới.

Người Mày nhờ bộ đội biên phòng tìm giúp nơi nào có mô đất đẹp, thoát được cảnh lở đất, nơi đó phải gần một nguồn nước ở phía cao như từ trên trời chảy xuống. Đồng thời, nơi ở mới phải từng là đất có chim đại bàng tung cánh! Đây là vùng đất từng hiện diện trong truyền thuyết của người Mày, được lớp trước truyền cho lớp sau qua những đêm lửa Khan đầy bí tích.

Già Hồ Xếp kể: “Bản năng của người Mày là bảo vệ những gì xung quanh và cảnh giác với những gì thuộc về xấu xa, dã thú. Người Mày sinh ra đã là anh em với các tộc người khác trong vùng nhưng chọn nơi sống là vùng đất cao hơn các bản làng của những tộc người khác, vì thần núi định đoạt số phận của tộc người mình là chiến đấu và bảo vệ”. Vậy nên nơi ở mới của những anh em Mày phải cao hơn nơi ở cũ, nếu không họ sẽ cương quyết không rời bỏ những nơi đất đá chực chờ vùi lấp.

Và nhiệm vụ này được anh em bộ đội biên phòng Ra Mai - đơn vị từng gắn bó keo sơn với đồng bào các dân tộc anh em trong khu vực, nhất là với người Mày - đảm nhận. Thượng tá Lê Văn Thuận, chính trị viên Đồn Ra Mai, nói: “Dân bản nhờ thì phải làm nhưng việc khó như… bắc thang lên trời, vì chính người Mày cũng chưa tìm ra đất đai trong truyền thuyết, là nơi có ngọn đồi độc lập giữa tứ bề có núi non cao thẳm. Khó cực kỳ nhưng khó mấy cũng giúp dân, bởi giúp được dân mới giữ được đất, giữ được mối tình thủy chung, đoàn kết bền lâu với bản làng”.

Thế rồi ngày ngày, bóng dáng bộ đội biên phòng lầm lũi giữa lau lách đồi núi, phóng bao tầm mắt đẫm sệt mồ hôi tìm đất cho anh em người Mày. Cả hệ núi Giăng Màn rộng lớn, tìm đâu ra thung lũng nào như thế? Từng đôi vai bạc thếch ve áo, từng đôi dép mòn vẹt hết gót, đi mãi giữa rừng trong vô biên khó khăn… Nhưng cuối cùng, cái chân của bộ đội biên phòng đã đặt đến ngọn đồi Mơ Leng, thung lũng hình êlíp, xung quanh núi cao vút, ngọn đồi nhỏ mảnh tựa như tổ chim khổng lồ được chọn. Già làng Hồ Xếp cùng trưởng bản được mời đến. Nhìn bao quát địa thế quanh ngọn đồi Mơ Leng, già làng Hồ Xếp phán: “Vùng đất thiêng đây rồi! Đây chính là nơi được truyền thuyết người Mày kể lại!”.

Bộ đội lại xắn tay áo giúp dân bản san đất dựng nhà. Ngày vào nhà mới, trưởng bản Hồ Khiên nói: “Người Mày trước đây chỉ nghe cha ông kể là ở trên một ngọn đồi độc lập nhưng chỉ qua chuyện kể hằng đêm thôi, bố mình, ông mình ở dọc các khe suối nhưng nhờ bộ đội biên phòng mà tìm được ngọn đồi truyền thuyết này. Cả bản ai cũng ưng bụng, người Mày ở bản khác nhìn vào cũng thích lắm, bởi đây là điều thiêng hiện về”.

“Công xã nguyên thủy”

Với người Mày, mỗi lần bản có khách, không phải chỉ một mình chủ nhà tiếp đãi mà lần lượt các nhà trong bản đều khoản đãi khách bằng những bữa cơm lúa nương và canh măng tươi với lá cọ rừng rất ngon. Tôi may mắn được là một trong những vị khách như thế. Bữa cơm đạm bạc của dân bản Mày thết đãi cho thấy tiềm lực ngôi nhà của họ và cũng bộc toát lên tâm hồn của họ, có cái gì cũng đưa ra mời khách.

Bữa cơm tối của cảnh núi rừng âm u, chỉ bên ngọn đèn tạo ra từ loại dầu của cây Cu Lết trên rừng. Giữa bản có nhà bắt được mớ cá khe cũng đưa đến chung vui đãi khách, rồi hỏi han bao chuyện cuộc sống miền xuôi, miền ngược. Người Mày đang tồn lưu những gì thuộc về công xã nguyên thủy, mọi thứ thuộc về mưu sống họ đều chia sẻ, kể cả với khách phương xa.

Ngày nay, buôn bán đã tràn đến bản làng người Mày bằng chiếc xe máy của đội quân buôn chuyến, người Mày đã có thể ăn được con cá trích, cá nục từ dưới biển đưa lên. Nhưng họ thật sự chỉ dừng lại ở vật đổi vật ngang giá, đồ dưới xuôi đổi các đặc sản rừng, không hề có kỹ năng ngã giá. Một số người Mày đổi sản vật cho các lái buôn chuyến thành tiền, có người vẫn không biết phân biệt giá cá nục thế nào, mắm muối ra sao. Tôi đưa 200.000 đồng cho chị Y Phăng, vợ trưởng bản Hồ Khiên, đi mua cá, chị thấy rõ số 2, không đọc được các số 0 phía sau. Ra chợ, chị mua đúng con buôn lừa mánh, 200.000 đồng chỉ được một ký cá. Hỏi sao chị không ngã giá, Y Phăng trả lời: “Không biết mô”…

Không chỉ có vợ Hồ Khiên, nhiều người khác cũng như thế, bởi mãnh lực núi rừng kéo họ lại với quá khứ ngày xưa nhiều hơn, những va chạm và tiếp xúc với văn minh quá ít nên chưa thể bào mòn ý thức xưa cũ. Người phụ nữ Mày vào rừng vẫn nhanh nhẹn với tài hái lượm, đàn ông Mày vẫn dẻo dai với săn bắn thì ý thức công sản của ngày nguyên thủy vẫn đeo bám tâm trí họ. Nhưng cái được lớn nhất là người Mày rất hào hoa với khách đường xa.

Những chiến binh núi Ku Lôông

Ngày xưa, khi vùng đất miền tây Quảng Bình lắm giặc và nhiều dã thú, tộc người Mày nhận lãnh trách nhiệm chiến đấu ngăn chặn xâm lấn bờ cõi, tiễu trừ mãnh thú và bảo vệ nguồn nước. Người Mày trở thành chiến binh được các tộc người anh em phía dưới ngưỡng mộ.

Trong suy nghĩ của người Mày, họ là những chiến binh dũng mãnh nhận lãnh nhiệm vụ ngăn chặn xâm lấn và bảo vệ nguồn nước. Chính đạo chia nước và cuộc sống không tư hữu của họ khiến các tộc người anh em phải ngưỡng mộ.

Chuyện kể rằng thời thượng cổ, người Mày và anh em khác ở bóng núi Giăng Màn thường bị các tộc người lạ vây đánh. Họ thoắt ẩn, thoắt hiện, đánh đuổi người Mày, người Khùa… chạy từ núi này sang núi nọ. Một hôm, thần núi Ku Lôông báo mộng, bày cách cho người Mày chống lại những bộ tộc xâm chiếm. Thần phán muốn thắng giặc thì phải chọn ngọn đồi độc lập giữa thung lũng, biến nó thành pháo đài để chiến đấu. “Thần còn chỉ cho chúng tôi cái cây có chất độc, cách làm ná, cung tên tẩm độc, cách lấy ong rừng đánh đuổi kẻ thù, đặc biệt là kỹ thuật bẫy lao, bẫy chông ba khía. Từ đó, người Mày đã đứng lên đánh bại kẻ thù, trở thành chiến binh vĩ đại của những bản làng khác nên đặc ân ở trên ngọn đồi hùng vĩ, cao nhất” - già làng Hồ Xếp kể.

Lễ trưởng thành

Tuổi trưởng thành của con trai người Mày được đánh dấu bằng một nghi lễ đơn sơ nhưng cũng đầy thách thức đối với những “chiến binh” tương lai của bản. Đến ngày lành tháng tốt, con trai phải vào rừng lấy mật, phải đi bằng chân trần, tay không mang gì, lưng chỉ đeo một A Chăng (cái gùi lót lá cọ khô - NV) để đựng tổ ong. Tìm được tổ ong, con trai Mày dùng khói, hun gốc cây, lấy lá cọ kết lại, làm mặt nạ quanh mặt và quanh thân để tránh ong đốt. Lấy được mật, họ phải đưa về trình già làng để già làng chia đều cho cả bản. Khi ấy, bản làng mới công nhận đứa con trai ấy đã trưởng thành.

Trong nếp nhà của người Mày đều thờ cúng vị thần tổ Giang Bra, thần của các vị thần. Bản người Mày không lập miếu thờ chung mà chọn một nơi cao ráo, sạch sẽ để hành lễ. Khi có lễ, già làng đưa đến ba cây gỗ, cắm kiểu chân kiềng, trên đó sắp mâm cúng gồm gà luộc, cá suối và thuốc rừng, mời thần Giang Bra, thần Ku Lôông về dùng cùng dân bản rồi phù hộ cho bản bình yên, nương rẫy tốt tươi, săn bắn được nhiều chim thú.

Đạo chia nước

Người Mày rất quý nước, nhất là nước đầu nguồn. Họ ý thức rất rõ thứ tài nguyên vi diệu này đối với cuộc sống, không chỉ của họ mà còn với những tộc người anh em ở phía dưới nguồn.

Đêm, bên bếp lửa nhà sàn, già làng Hồ Xếp ngồi nghiêm trang kể chuyện cho lũ làng nghe cách tổ tiên bảo vệ nguồn nước như thế nào. “Khi đánh đuổi những bộ tộc xâm lấn, các nguồn nước bị làm phép cho cạn kiệt, trời cũng chẳng cho mưa về. Còn lại cái giếng nước vuông và cái giếng nước tròn của Ku Téc (thần đất), nơi đó cũng là nơi lãnh vực biên ải của người Mày. Vì vậy, người Mày cố công bảo vệ. Bao lần kẻ thua cuộc dã tâm bỏ thuốc độc nhưng không thể tiếp cận cái nước của thần Ku Téc bởi sự thiện chiến của chiến binh Mày. Bảo vệ được nguồn nước, người Mày cầu thần Ku Lôông cho được trời mưa, giải khỏi lời nguyền xấu, nước ở trời men theo tường vách dựng đứng của hệ núi Giăng Màn tưới mát cho tất cả anh em Mày, Sách, Khùa, Rục… và cả người Kinh dưới xuôi của dòng sông Gianh...” - giọng già làng Hồ Xếp lầm rầm.

Bởi vậy, địa thế của người Mày ở bản mới có được hai nguồn nước như chảy xuống từ trời, một ngọn Hong Tà Râu, một nguồn Hong Pà Ài, rì rào chảy qua nương rẫy, đổ xuống dòng Rào Nậy để nuôi nấng các bản làng phía dưới. Già làng Hồ Xếp nói: “Nước không dành riêng cho người Mày mà dành cho những anh em khác nữa, chiếm nguồn nước là điều không thể ác hơn”.

Người Mày cuối năm thường có lễ chia nước ngọt hứng từ mái nhà sàn hoặc lấy ở nguồn nước suối. Lễ chia nước cho các gia đình trong bản đều do người có trọng vọng (già làng, trưởng bản) chia, mỗi nhà chừng một lít nước. Đó là cách họ muốn ẩn ý sự chia sẻ tài nguyên tự nhiên để bảo tồn cuộc sống. Có nước, người Mày mới nhớ đến nhau và nhớ đến những người anh em láng giềng khác.

Cùng với lãnh nhiệm bảo vệ nguồn nước, đạo chia nước của người Mày khiến những tộc người anh em kính trọng, nể vì. Nước như một vị thần bản thể đi ra từ ý thức của họ, không có nước thì không có sự sống, không có sự tồn tại.

Chia thịt mùa săn

Cứ vào tháng 7 mùa mưa rừng, người đàn ông Mày chuẩn bị ná, tên độc từ một loại cây họ sung mọc bên suối có nhựa cực độc. Vào lễ săn, già làng cúng mở cửa bản, hòn đá thiêng của bản đặt bên gốc cây khô, quanh bản có một cửa ra được gọi là cửa lên trời. Những cây lồ ô được rút ra, mỗi thợ săn được mời bước qua đó và dùng máu gà sống bôi lên trán, chỉ dấu về hùng mạnh của các chiến binh người Mày năm xưa.

Những chuyến đi săn của người Mày thường kéo dài từ một tuần đến cả tháng. Lương thực họ mang đi chỉ là ít bắp ngô và sắn, còn gạo thì phải nhường cho trẻ em, phụ nữ và người già. Già Hồ Xếp nói: “Không bới gạo đi cũng là chứng tỏ bản lĩnh của con trai Mày dẻo dai như cây rừng”.

Họ đi vào rừng và phân công tốp săn một cách thông minh. nếu dùng bẫy họ đi theo dấu vết của thú rừng, phát hiện đường đi, họ sẽ làm một cái bẫy cạnh nơi có nước, thú đến đó sẽ mắc bẫy. Nếu là săn bằng ná và tên độc, họ thường có người tiền trạm đi trước, phát hiện có thú, một tiếng huýt như tiếng chim ưng được phát ra, cả nhóm bủa thành hình vòng cung và xả tên vào con thú. Chưa bao giờ người Mày đi săn trở về tay không.

Một con heo rừng, con nai, con mang hay bất cứ loài thú nào bắt được, người Mày đều chia cho tất cả thành viên trong bản. Ngoài phần thịt như mọi người, người đầu tiên phát hiện con thú được chia thêm cái đầu - biểu tượng của một chiến binh, một thợ săn thiện nghệ.

Tôi được trưởng bản Hồ Khiên dẫn đi săn thú. Một ngày quần rừng trời mưa, những động loạn khiến mọi con vật lẩn trốn. Tưởng phải tay không ra về nhưng cuối buổi, trưởng bản Hồ Khiên cũng bắt được một con rắn to và một chú thỏ rừng. Ông không vội đưa chiến lợi phẩm về nhà mà kính cẩn mang đến nhà già làng Hồ Xếp để vị già làng phân chia. Số thịt làm ra không nhiều, già Xếp nói chỉ phân cho một số nhà khó khăn và gia đình Hồ Khiên. Riêng tôi được già phân cho một miếng thịt thỏ và một khúc thịt rắn, bởi tôi có công đi với Hồ Khiên, đồng thời là vị khách đặc biệt của bản.

Con thú có bầy, con chim có đàn

Bạn có hình dung nổi không, ngay trong thế kỷ 21 này, vẫn còn có nơi sau mùa rẫy, người ta thu hoạch lúa, ngô, khoai sắn xong bỏ vào cái lán trên nương. Ở đó, dòng họ, anh em đều được phép mang về nhà ăn, ai đói cũng có quyền nói với trưởng tộc hoặc già làng rồi xin chủ nhân được ra lán lấy ít lương thực về ăn. Anh em Mày chia nhau miếng ăn như chia nhau những câu chuyện kể về nguồn gốc của tộc người mình.

Già làng Hồ Xếp nói: “Cái người Mày nhà này có mà người Mày nhà khác không có thì phải cho nhau, vì có khi mình không có thì người khác cho. Người Mày mỗi bản vài nóc nhà, không cưu mang nhau để sống bền với rừng thì thua con thú, con chim - chúng sống còn có bầy, có đàn, huống chi người Mày mình, chẳng lẽ không hơn con chim, con thú!”.

Với người Mày, nhà cửa là cái chỉ để ở, để che mưa che nắng cho các thành viên trong gia đình, không cần thiết phải nhà to, thang rộng, nhà này phải hoành tráng hơn nhà kia. Cho nên nhà cũ của họ (khi chưa được bộ đội biên phòng Quảng Bình chuyển đến quả đồi Mơ Leng hùng vĩ như tổ chim đại bàng) nó đơn sơ, giản dị đến cùng cực. Chỉ đến khi bộ đội biên phòng giúp dựng nhà mới, họ mới nghe kể về sự trọng đại của việc làm nhà trong đời, như lễ trưởng thành của người Mày trở thành chiến binh của bản.

Người Mày cũng biết chăn nuôi gia súc, gia cầm nhưng mới chỉ dừng lại ở vài con gà, con heo, con chó. Và có lẽ đó cũng là một trong những thứ họ tư hữu đầu tiên trong ý thức của mình bên cạnh những vật dụng đơn sơ nhất trong mỗi gia đình.

Người Mày còn truyền tụng nhau nhiều lời ca điệu hát. Cùng với tập tục và nghi lễ cưới vợ, những làn điệu hát ru của người Mày có thể coi là một gia tài văn hóa độc đáo của một tộc người được sinh ra và lớn lên giữa núi rừng Trường Sơn đại ngàn. Mặc dù đã đi qua chiến tranh, đã ít nhiều bị văn hóa hiện đại xâm nhập… nhưng đến nay bà con người Mày ở Minh Hóa Quảng Bình vẫn còn giữ được bản sắc văn hóa độc đáo ấy.

Nếu có dịp trở lại Trường Sơn huyền thoại, qua địa phận Quảng Bình, du khách hãy dừng chân ở Minh Hóa để biết thêm một tộc người anh em bản địa, dân số tuy chỉ ngàn người có lẻ, nhưng họ có một tư duy triết lý thông minh, một gia tài văn hóa độc đáo rất cần được tìm hiểu và chung tay gìn giữ bảo tồn…

Du lịch, GO! - Tổng hợp theo báo Pháp Luật TP, Quảng Bình 24...

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống