Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Wednesday, 17 April 2013

Văn Chấn là một huyện miền núi, với điều kiện địa hình đối núi dốc mạnh, lượng mưa lớn tập trung. Do đó, sản xuất nông nghiệp ở Văn Chấn gặp không ít khó khăn, đặc biệt là trồng các loại cây hoa màu như cây ngô.

< Những đồi ngô lai CPA88 ngả vàng báo hiệu mùa thu hoạch sắp đến ở Văn Chấn – Yên Bái.

Nhưng dưới sự hỗ trợ về giống của chính quyền và sự mạnh dạn dám nghĩ, dám làm của người dân nơi đây, những giống ngô lai đã dần vươn mình cắm rễ trên đất Văn Chấn góp phần thay đổi bộ mặt đời sống người dân trong vùng.

< Những bắp ngô lai LVN99 vàng óng với các dãy hạt tròn đều, căng mọng.

Đến Văn Chấn vào thời điểm tháng 5, tháng 6 trong năm, dọc theo con đường quốc lộ từ thành phố Yên Bái đến hết vùng đất Suối Giàng (nơi có những cây chè San tuyết nổi tiếng), thay vì màu xanh của cây, của lá ngô thì đâu đâu cũng bạt ngàn màu vàng của những bắp ngô lai đang vào độ thu hoạch.

< Người Mông thu hoạch ngô trên nương.

Văn Chấn là huyện có diện tích trồng ngô lớn nhất nhì tỉnh Yên Bái với hơn 5000ha đất trồng ngô và chủ yếu tập trung ở các xã: Sơn Thịnh, Cát Thịnh, Suối Giàng, Gia Hội, Sơn Lương, Nậm Mười…

Chúng tôi được anh Hanh, cán bộ phòng Nông nghiệp huyện Văn Chấn đưa đi thăm những vùng trồng ngô tập trung ở các xã trong huyện.

< Nụ cười được mùa ngô của người Mông ở Văn Chấn – Yên Bái.

Đây đang là mùa thu hoạch ngô nên đâu đâu cũng dễ dàng bắt gặp cảnh những hộ gia đình người Tày, người Thái với những đống ngô vàng óng bên căn lều được dựng tạm ngay ở thửa ruộng nhà mình. Những đống ngô này để vận chuyển được về nhà là cả một “hành trình”, bởi ruộng ngô nào cũng nằm chót vót trên những quả đồi, sườn núi cao.

< Con trẻ sung sướng khi nhìn những bắp ngô vàng óng chất đầy sân nhà mình.

Thế nhưng hình ảnh những người dân đi bẻ ngô vui như đi trẩy hội khiến người ta không khỏi ngạc nhiên, thích thú. Tay bẻ, tay tước vỏ mà miệng thì vẫn nói cười, chuyện trò rôm rả. Tôi cảm nhận được niềm vui của một mùa màng bội thu, niềm vui của những người nông dân Văn Chấn yêu lao động sản xuất.

Có gia đình cả dòng họ cùng đi bẻ hộ như gia đình anh Trang A Lử, nhưng lại có gia đình chỉ có hai vợ chồng và một cậu con trai vẫn còn đang lò dò tập bò cũng được bố mẹ cho đi nương như gia đình anh Sổng A Hồng (người Mông, xã Suối Giàng).

< Cả nhà vui mùng khi ngô được mùa.

Sổng A Hồng cho biết: “Năm nay nhà em trồng giống ngô LVN919. Em thấy bắp to, hạt đều kín hết đầu và năng suất hơn giống C99 năm ngoái”. Gia đình A Hồng có gần 5000m2 đất đồi trồng ngô. Và trước khi bắt đầu gieo hạt cho vụ mới, A Hồng cũng như những hộ gia đình khác trong bản đều xuống huyện mua giống của những đại lí bán giống theo cơ cấu giống của huyện. “Bọn em được các đại lí tư vấn là vụ này huyện có giống gì mới, tốt đã được thử nghiệm để lựa chọn có mua và trồng thử trong vụ mới này hay không. Thấy đồn giống nào tốt hơn là em mua về trồng thử”, A Hồng chia sẻ.

< Được mùa ngô, mẹ và con sẽ được no ấm hơn.

Sau đó, anh Hanh dẫn tiếp chúng tôi qua thăm các thửa ruộng trồng thử nghiệm hai giống ngô lai PAC293 và PAC296. Đây là 2 giống ngô lai mới nhất của Công ty Attanta Thái Lan đang được thử nghiệm trên đất đồi Văn Chấn trong vụ xuân hè năm nay. Hai giống ngô này cũng đang vào độ thu hoạch và chuẩn bị được nghiệm thu để xem xét có đủ tiêu chuẩn đưa vào cơ cấu giống của huyện hay không. Do đặc điểm về địa hình đồi núi dốc mạnh nên đặc thù riêng của trồng cây hoa màu trên đất Văn Chấn là để cây cho năng suất cao thì phụ thuộc rất nhiều vào hai yếu tố: thời tiết và giống.

< Giống ngô mới làm cho cuộc sống đồng bào vùng cao Văn Chấn khấm khá hơn.

“Bởi vậy, năm nào huyện cũng liên kết và phối hợp với các công ty giống ngô lai cho trồng thử nghiệm ở một vài thửa ruộng trong huyện. Khi nghiệm thu nếu cây đạt đủ tiêu chuẩn, chịu hạn, chống đổ và cho năng suất cao thì sẽ được cho vào cơ cấu giống của huyện”, anh Hanh cho biết.

Với lý do đó, trong những năm qua, việc chuyển dịch cơ cấu giống, lựa chọn giống có năng suất cao, chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu thị trường và phục vụ chăn nuôi luôn được lãnh đạo huyện Văn Chấn rất chú trọng. Với địa hình thổ nhưỡng đặc thù, Văn Chấn đã xác định giống là yếu tố hàng đầu mà địa phương cần chú trọng để giúp bà con nông dân trong huyện đạt năng suất cao hơn trong trồng trọt hoa màu. Và hầu hết các giống ngô lai nổi tiếng trong nước và nước ngoài như LVN99, C919… đều có mặt trên đất đồi Văn Chấn. Gần đây nhất là hai giống ngô lai NK6654, NK4300 được trạm khuyến nông huyện Văn Chấn phối hợp với công ty TNHH Sygenta Việt Nam và công ty Vật tư Kỹ thuật Nông nghiệp Bắc Giang cho trồng khảo nghiệm ở một số xã trong huyện và cho đến nay đều đạt từ năng suất từ 6 - 6,5 tấn/ha. Đây là năm thứ tư giống ngô NK “cắm rễ” trên đất Văn Chấn và liên tiếp được mùa nên nó cũng đang ngày một khẳng định ưu thế vượt trội trên vùng đất đồi này.

< Ngô được cho vào máy để tách hạt.

Giống ngô NK4300 chịu hạn tốt, cây khỏe, bắp to màu hạt đẹp, năng suất cao; Giống ngô NK6654 trồng được 3 vụ/năm, có ưu điểm chịu hạn, chịu úng tốt năng suất trung bình 8 tấn/ha, năng suất tiềm năng có thể đạt tới 12-14 tấn/ha. Đây là hai giống ngô thuộc nhóm trung ngày, có thời gian sinh trưởng từ 105 – 110 ngày. Năng suất thực tế ở mô hình trình diễn tại xã Sơn Lương đạt 9 tấn/ha. Đây cũng là hai giống ngô có lượng tiêu thụ lớn nhất trong toàn tỉnh Yên Bái. Tính 6 tháng đầu năm 2012, lượng tiêu thụ của nó đã vào khoảng 60 tấn.

< Ngô lai sau khi tách hạt.

Ngoài ra, một số giống ngô khác trong huyện cũng cho năng suất cao như CPA88, CP333... Theo đánh giá của các hộ dân tham gia mô hình thử nghiệm giống ngô lai trên đất dốc, CP A88, CP 333 có ưu điểm vượt trội hơn các giống ngô khác đang được triển khai tại địa phương như: phát triển mạnh, tỉ lệ nảy mầm cao, thời gian sinh trưởng ngắn; trỗ cờ phun râu tập trung, lá ngô đứng, ngọn, thân cây to, dẻo; bộ rễ chân kiềng phát triển mạnh, khả năng chống hạn và chống đổ tốt, chống chịu sâu bệnh khá; độ đồng đều cao, hạt mẩy, hạt có mầu vàng cam dạng đá, lõi ngô nhỏ, vỏ bi kín nên hạn chế được sâu bệnh hại.

< Mua bán ngô ở vùng cao Văn Chấn.

Với việc xác định rõ đặc thù của địa phương, chính quyền nơi đây đã có những hướng đi mạnh dạn sáng tạo, luôn tìm tòi đổi mới trong việc lựa chọn, cung ứng những giống ngô lai tốt nhất cho người nông dân. Và với một vùng đất đồi dốc, xác định cây ngô là một trong những cây hoa màu chủ lực của địa phương thì đây đúng là một sự hỗ trợ cần thiết để người nông dân Văn Chấn vươn lên thoát nghèo, xây dựng đời sống kinh tế gia đình ngày một bền vững.

Du lịch, GO! - Theo Thảo Vy - Trịnh Văn Bộ (Vietnam.vnanet)
Những ai sinh ra và lớn lên nơi chốn ruộng đồng sông nước chắc hẳn sẽ không thể nào quên những món ăn ngon dân dã từ con tép nghệ thân thương mẹ vẫn nấu những ngày thơ bé.

< Tép nghệ tươi.

Tép nghệ, có nơi gọi là tép bạc nghệ hoặc tôm lóng, sống ở sông. Tép nghệ là loài ăn tạp, kiếm ăn vào ban đêm, ăn động vật giáp xác, tảo, bã mùn. Đôi chân ngực thứ hai của tép nghệ phát triển mạnh thành đôi càng, tròn, dài, vươn thẳng tới phía trước. Vỏ tép mỏng, màu trắng bạc nhưng khi chế biến xong lại chuyển sang màu đỏ vàng như màu nghệ tươi nên gọi là tép nghệ.

Người ta dùng lưới để đánh bắt tép nghệ trong đêm, sáng sớm hôm sau thì mang ra chợ bán. Tép nghệ sống trong môi trường tự nhiên không bị ô nhiễm, thịt chắc, béo, thơm nên luôn được các bà nội trợ chọn mua mang về chế biến thành nhiều món ăn ngon dân dã để đãi những người thân trong gia đình.

Những ngày còn nhỏ ở quê, thỉnh thoảng mẹ tôi lại làm món tép nghệ nướng để ba tôi lai rai cùng các bác trong thôn. Mẹ chọn những con tép nghệ lớn, dùng que tre nhỏ xuyên dọc qua mình tép rồi nướng trên than hồng cho đến khi tép chín, tỏa hương thơm nồng.

Hồi đó, tôi cũng thường được mẹ cho mấy con tép nghệ nướng chấm muối tiêu chanh. Thịt tép ngọt, thơm, béo hòa cùng vị đậm đà của muối tiêu ngon đến không ngờ. Trong buổi chiều yên ả, dìu dịu với những làn gió mát từ sóng nước sông quê, câu chuyện hàn huyên, tâm sự của ba và mấy bác bên đĩa tép nướng của mẹ cũng trở nên rộn ràng, rôm rả hơn rất nhiều.

Cho những bữa cơm quê mùa ngon lành, tép nghệ còn được chế biến thành nhiều món ăn ngon thú vị. Trong đó tép nghệ rang là món ăn gắn bó với người dân chốn sông nước từ bao đời nay. Tép mang về lột bỏ phần vỏ đầu, cắt bỏ các chân, rửa sạch, để ráo rồi ướp muối, hạt nêm, mì chính, hành, tiêu, tỏi nửa giờ cho thấm gia vị.

Phi thơm mỡ hoặc dầu phộng rồi cho tép vào đảo đều, để lửa vừa phải chờ cho tép chín, tỏa hương thơm quyến rũ thì thêm một ít tiêu bột rồi tắt bếp. Cách điệu hơn một chút là rang cùng nước cốt dừa hay cho thêm một ít lá chanh thái chỉ, lá hẹ vào rang cùng. Món tép rang lúc này sẽ ngon và thêm nhiều hương vị.
Đĩa tép rang nóng hổi, thơm ngát ăn với cơm nóng rất ngon với vị ngọt, béo, giòn, thơm và màu sắc bắt mắt của tép, mang đến cho người ăn cảm giác ấm áp và lạ miệng.

Bữa cơm gia đình ở quê thường có thêm món canh rau nấu với tép nghệ. Nguyên liệu chỉ là một ít tép nghệ ướp sẵn nấu với bất cứ loại rau gì, từ rau lang, mồng tơi, rau má, rau ngót, bầu, bí... đến các loại rau rừng như rau sấn, rau lủi tím, rau dớn…
Tất cả đều cho ra món canh mát lành, thơm ngon, ngọt nước, giúp giải nhiệt ngày nắng nóng, mang đến cho người ăn cảm giác khỏe khoắn, dễ chịu.

Ngoài ra, người vùng sông nước còn dùng tép nghệ để làm nhân đúc bánh xèo, làm bánh bột lọc, bánh nậm, bánh gói… giúp các món ăn thêm thơm ngon và hấp dẫn hơn nhiều.

Du lịch, GO! - Theo K.Loan (báo Tuổi Trẻ)
Làng Then, thuộc xã Thái Đào – Lạng Giang - Bắc Giang, ngôi làng duy nhất tại Việt Nam có truyền thống chơi vĩ cầm suốt gần 60 năm nay. Đây là ngôi làng đã sinh ra những người làm văn hóa – nghệ thuật, âm nhạc như: Trần Vinh, Bùi Đắc Sừ, Quốc Minh, Hà Huy Bái, Lê Văn Khách, Nguyễn Văn Đưa, là những nghệ sĩ, diễn viên, đạo diễn, nhạc công đã nổi danh trên làng văn hóa nghệ thuật.

Cách Hà Nội khoảng 70 km theo đường quốc lộ 1A, làng Then đơn sơ và bình dị, chắc không ai ngờ được đây là ngôi “làng vĩ cầm” độc nhất vô nhị tại Việt Nam, trải qua bao nhiêu thế hệ, đào tạo biết bao nghệ nhân vĩ cầm, nét chất phát của thôn quê và dòng máu nghệ thuật như hòa quyện vào nhau, tạo ra một nét đẹp rất riêng của vùng đất văn hóa này.

Đường làng quanh co và yên tĩnh, chúng tôi hỏi thăm về nhà một nghệ nhân chơi vĩ cầm lâu năm, người ta cười nói: “Làng này chơi vĩ cầm thì nhiều lắm”, rồi nhanh tay chỉ hướng đi. Ông Nguyễn Hữu Hùng, một trong những thế hệ vĩ cầm của làng, ông được làm quen với chiếc đàn từ khi còn trẻ, đến nay đã mấy chục năm, "tôi chơi đàn từ năm 13 tuổi, đến nay cũng vài chục năm rồi, trước trẻ thì ham, giờ có tuổi, cũng nhiều việc phải làm, thỉnh thoảng có thời gian mới tập hợp anh em ngồi chơi violon" -ông chia sẻ.

Rời khỏi nhà ông Hùng, với những câu chuyện về chiến tích của Làng Then về văn hóa nghệ thuật từ thời kháng chiến, ông Hùng nói: "Muốn tìm hiểu thật kĩ về truyền thống chơi vĩ cầm, cô sang gặp ông Nguyễn Hữu Đưa, ông ấy là người thầy đầu tiên dạy chúng tôi, ông học đàn từ những năm 1956, có công đào tạo biết bao thế hệ học trò vĩ cầm của ngôi làng này"

Nhà ông Đưa nằm sâu trong đồi, khi bước tới cổng, tôi bắt gặp một nụ cười rạng rỡ của một cụ bà: "các cháu tìm ai", một cụ ông đang gánh nước vào sân giếng. Biết chúng tôi tìm ông Đưa, bà mời vào nhà uống nước, "khổ, ông già rồi, tai nghe không còn rõ nữa, nhưng kéo đàn vẫn còn minh mẫn lắm" - bà cười nói.

Trong ngôi nhà nhỏ đơn sơ của ông bà, chắc không ai ngờ được cũng chính là lớp dạy violon của ông Đưa, tóc ông đã bạc, tay chân cũng nhăn nheo vì tuổi già, sức yếu, nhưng cứ hễ động đến cây đàn ông lại say sưa kéo đủ các bản nhạc. Trên tường, trong ngăn tủ, đầy những bức ảnh ông đi biểu diễn, những cuốn sách viết những bản nhạc ông yêu thích được lưu giữ cẩn thận mấy chục năm nay. Ông kể: "Ngày xưa, cứ mỗi lần dạy đàn cho mấy đứa trẻ, tôi sáng đạp xe ra Hà Nội chọn đàn, rồi tối lại đem về để hôm sau có đàn cho bọn trẻ học, nhưng giờ già rồi, không đi nổi nữa". Cây đàn ông đang giữ đã theo ông mấy chục năm nay, cứ hễ hỏng ông lại tự ngồi sửa, ông quý cây đàn đó, ví nó đã theo ông suốt cả cuộc đời.

Tiếng vĩ cầm vang dưới lũy tre làng, ông say sưa kể về một thời tuổi trẻ của mình, đến với vĩ cầm cũng là một cái duyên, một niềm đam mê lớn của đời ông, ông đã dành gần cả cuộc đời cống hiến cho nó. "Giờ ông già rồi, có thể quên nọ quên kia, nhưng vĩ cầm chắc không bao giờ quên được"- cụ bà chia sẻ.

Ngôi làng nhỏ, nhưng lưu giữ một truyền thống lớn, về thăm làng Then, du khách có thể thưởng thức âm thanh violon vô cùng mộc mạc của những người dân giản dị nơi đây. Được chiêm ngưỡng những cây đàn lâu đời và được nghe về lịch sử hào hùng trong truyền thống nghệ thuật của làng Then.

- TS Nguyễn Xuân Diện, Viện Nghiên cứu Hán Nôm: Làng Then chính là quê của nhiều diễn viên, nhạc công nổi tiếng như: đạo diễn - NSND Bùi Đắc Sừ và Hà Quốc Minh (nguyên Giám đốc và đương kim Giám đốc Nhà hát Chèo Việt Nam), nhạc sĩ Trần Vinh (Nhà hát Chèo Việt Nam)… Người già trong làng kể rằng xưa vào mỗi dịp xuân hội, làng mời một gánh tuồng về diễn mấy đêm liền, lại còn mời cả giáo phường ca trù về hát thờ trước cửa đình.

- Nhạc sĩ Phạm Chỉnh, Phó Giám đốc Trung tâm Văn hóa Thông tin Thành phố Hà Nội cho biết rất bất ngờ khi thấy những người nông dân làng Then đọc được tổng phổ và dù tiếng đàn chưa thực sự chuyên nghiệp nhưng cách chơi đã rất chuyên nghiệp. Những người dân làng Then thực sự là những nghệ sĩ rất có phong cách và đầy tính ngẫu hứng.

- GS Lê Văn Cường, Đại học Paris 1, Pháp bảo ông đã đi nhiều nơi trên thế giới nhưng chưa thấy có một làng nào yêu nhạc và có một dàn nhạc độc đáo như làng Then.

Du lịch, GO! - Theo Nguyễn Nhung (Vietnamnet), SaigonGP...

Tuesday, 16 April 2013

Di tích chiến thắng La Ngà trải dài trên 9km đoạn quốc lộ 20 từ cây số 104 đến 113 qua các xã Phú Ngọc Ngọc Định và Phú Hiệp của huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai.

< Tượng đài Chiến thắng nhìn từ cầu La Ngà.

Quốc lộ 20 được người Pháp xây dựng từ đầu thứ kỷ 20, là đường giao thông chiến lược nối liền Sài Gòn với Đà Lạt. Từ Đà Lạt còn có nhiều con đường nối với các tỉnh Tây nguyên đến trung Hạ Lào và xuống các tỉnh vùng duyên hải miền Trung.

Thuở ấy, đoạn quốc lộ 20 qua các di tích chiến thắng La Ngà chỉ là con đường trải nhựa nhỏ bé (khoảng 5 - 6 mét) quanh co khúc khuỷu men bên sườn núi, có những đoạn dốc cao kéo dài, độ dốc trung bình từ 10 - 15 độ.

< Cầu La Ngà năm 1969.

Phía đông, đường dốc thoải dần xuống thung lũng, có những chỗ là vực sâu. Phía tây, đường chạy theo những triền núi cao, cách sông Đồng Nai 7km. Hai bên đường toàn rừng già, không có dân cư sinh sống. Buổi sáng có thể nhìn thấy những bãi phân voi to như chiếc rổ rải rác trên mặt đường. Buổi chiều rừng nguyên sinh tĩnh lặng đến độ người ta có thể nghe tiếng xào xạc trên các tán cây hay tiếng bước chân của các loài thú rừng. Vào mùa mưa, sương mù bao trùm cả cánh rừng làm cho môi trường càng âm u, tĩnh lặng.

< Làm chủ trận địa La Ngà trong trận tập kích ngày 1-3-1948.

Ngày 01 tháng 3 năm 1948, sau một thời gian dài chuẩn bị, Chi đội 10 phối hợp với Liên quân 17 phục kích tấn công đoàn xe quân sự Pháp từ Sài Gòn đi Đà Lạt trên lộ 20. Tuyến phục kích trải dài trên 9 km từ cây số 104 đến 113 nay thuộc địa bàn Định Quán. Lực lượng vũ trang cách mạng tập kết quân và bố trí phục kích trên ba mặt trận với tên gọi: A, B, C nhằm khóa đuôi, chăn viện và đánh thẳng vào đoàn xe quân sự địch - Trên các mặt trận được bố trí nhiều địa lôi.

15 giờ 12 phút, chiếc thiết giáp dẫn đầu đoàn xe địch lọt vào trận địa phục kích. Quân cách mạng tấn công, ba trái địa lôi và viên đạn chống tăng gần như nổ cùng một lúc tạo nên một cột lửa khói bao trùm mục tiêu. Chiếc thiết giáp bị đẩy hất lên nằm chắn ngang đường rồi bốc cháy. Chỉ huy đoàn xe cùng bộ phận thông tin bị tiêu diệt tại chỗ. Hai chiếc xe chở lính hộ tống đi tiếp sau đâm sầm vào xác chiếc xe trước bắt lửa cháy luôn. Quân cách mạng dùng hỏa lực tiêu diệt đám lính còn lại và vận động xung phong tấn công trực diện đoàn xe địch trên lộ.

Số xe địch đi sau lọt hẳn vào trận địa và tiếp tục tiến lên, không hay biết về bộ phận đi đầu đã bị tiêu diệt. Khắp cả hai mặt trận B và C, quân ta tập trung hỏa lực vào những xe quân sự, chiến đấu quyết liệt với địch và nhanh chóng làm chủ trận địa. 16 giờ trận đánh kết thúc, 59 xe địch bị tiêu diệt hoàn toàn, 150 lính lê dương đi hộ tống, 25 sĩ quan Pháp, trong đó có đại tá De Sérigné - chỉ huy lữ đoàn lê dương thứ 13 và đại tá Patruit - phó tham mưu trưởng thứ nhất quân viển chinh Pháp ở Đông Dương bị thiệt mạng, trung úy Joeffrey - chỉ huy đội hộ tống bị bắt sống. Cùng với bộ đội Chi đội 10 và liên quân 17, lực lượng vũ trang địa phương tham gia trận đánh rút về căn cứ an toàn.

Chiến thắng La Ngà gây một tiếng vang lớn trong cả nước ta, làm chấn động dư luận nước Pháp. Quốc hội Pháp phải chất vấn chính phủ về trận La Ngà. Viên đại tá Thalès, chỉ huy trưởng khu vực Đồng Nai thượng bị giáng chức nên đã tự tử.
Đây là một chiến thắng quân sự lớn nhất từ đầu cuộc kháng chiến đến lúc bấy giờ của lực lượng vũ trang Biên Hòa. Trận đánh giao thông La Ngà đánh dấu bước tiến vượt bậc về khả năng phối hợp, tổ chức, trình độ chiến thuật, kỹ thuật của lực lượng vũ trang tỉnh Biên Hoà. Các đơn vị tham gia trận đánh được vinh dự nhận Huân chương Quân công hạng II do Bác Hồ trao tặng.

< Tượng đài chiến thắng La Ngà.

Tại chiến trường xưa, trên ngọn đồi Gió bên dòng sông La Ngà, tượng đài Chiến thắng La Ngà được xây dựng như một biểu tượng tình cảm thiêng liêng của hậu thế khắc ghi công lao to lớn của cha ông đã tạo nên một chiến công bất tử, một dấu son chói lọi trong lịch sử đấu tranh của dân tộc. Cụm di tích chiến thắng La Ngà trải dài trên 9 km đoạn quốc lộ 20 từ km 104 đến 113 qua các xã Phú Ngọc, Ngọc Định và Phú Hiệp, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai.

Cụm di tích tượng đài chiến thắng La Ngà được Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích, lịch sử cấp quốc gia theo Quyết định số 235/VH- QĐ ngày 12 tháng 12 năm 1986.

Ngày nay, Quốc lộ 20 được mở rộng nâng cấp những cánh rừng nguyên sinh không còn nữa, thay vào đó là những khu dân cư đông vui tấp nập. Bên tả ngạn sông La Ngà, trên đỉnh đồi, là khu công viên tượng đài “Chiến thắng La Ngà” hoành tráng sừng sững giữa bầu trời xanh lộng gió, soi bóng xuống dòng sông.

Hơn 55 năm trôi qua vết tích về một trận đánh giao thông táo bạo, hùng tráng gần như không còn, nhưng âm vang chiến thắng La Ngà vẫn còn đó. Tượng đài La Ngà như một biểu tượng tình cảm thiêng liêng của đất nước khắc ghi công lao to lớn của chiến sĩ đồng bào đã hy sinh góp phần làm nên chiến công vang dội “Chiến thắng La Ngà”. Một mốc son chói lọi của lịch sử đấu tranh dân tộc.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ SVHTT&DL-Đồng Nai và nhiều nguồn thông tin, hình ảnh khác trên internet
Leo lên đỉnh Phu Song Sung, Yên Bái mùa khô đã khó, đi vào trúng đợt rét đậm rét hại, trời sương mù mịt còn khó khăn hơn gấp nhiều lần.
Con đường mòn khúc khuỷu bình thường bỗng trở nên trơn trượt như bôi mỡ. Cây cối đóng băng, gió thốc như muốn thổi tung người. Nhưng cái máu "ngông", ưa thử thách bản thân đã khiến chúng tôi quyết định thực hiện chuyến du lịch leo núi vào một ngày đông lạnh giá cũng chính là cơ hội trải nghiệm những điều thú vị hiếm hoi.

Chúng tôi đến xã Xà Hồ, huyện Trạm Tấu, Yên Bái sau gần một ngày chạy xe máy từ Hà Nội. Trời mùa đông đã bắt đầu nhá nhem tối. Do đã liên lạc trước với Giàng A Sinh, nên chúng tôi đến thẳng nhà ông bí thư xã này.

Tới muộn nên ông Sinh bảo không thể lo cho cả đoàn mười người chỗ ăn, ngủ. Ông bảo, trước đoàn chúng tôi cũng đã có hai, ba đoàn tới đây rồi nhưng không thể leo được vì trời quá nhiều sương mù, ẩm ướt, thậm chí trên núi đã có băng. Nhưng chúng tôi nghĩ, đã đến được đây rồi mà quay về, không tới được đích là phí phạm một kì nghỉ; nên cả nhóm khăng khăng đề nghị ông giới thiệu người dẫn đi.

Ông bảo chúng tôi xuống nhà anh Thào A Măng nghỉ đêm và hôm sau anh ta sẽ dẫn đường cho chúng tôi luôn. Chỗ nghỉ chỉ là cái một cái nhà tạm, không có giường chiếu gì. Nấu nướng, ăn uống xong, cả nhóm trải túi ngủ ra nằm. Căn nhà trống đủ cho gió tự do lùa vào. Rét run cầm cập, mọi người hầu như suốt đêm không ngủ, chỉ mong trời mau sáng để leo lên đỉnh.

Sáng sớm, chúng tôi khởi hành trong tình trạng sức khỏe không được sung mãn nhất vì trải qua một đêm mất ngủ. Sương mù vẫn phủ xuống mờ mịt, lẫn trong đó là những hạt mưa bay bay, gió thốc buốt lên tận đầu, dấu hiệu cho một ngày vất vả. Hai người Mông vừa dẫn đường vừa vác thực phẩm và đồ dùng của cả đoàn. Chúng tôi cũng chỉ mang theo những gì đơn giản nhất trên người, túi ngủ, nước, đồ ăn. Xe máy được gửi lại lán của những công nhân làm trong khu khai thác mỏ.

Thời tiết nghiệt ngã

Từ đây, đã thấy những dốc núi dựng đứng, leo lên đầu phải chạm gối, chỉ có đi lên đến vô tận, không có điểm xuống. Vượt hơn chừng cây số, lên trên một đỉnh núi cao, chúng tôi thấy một đoàn cũng đang dựng lều, cắm trại nấu ăn. Đoàn này đã tới từ hôm qua nhưng do trời nhiều sương, mù mịt nên quyết định bỏ cuộc, không leo nữa. Chúng tôi đã chuẩn bị tinh thần rồi nên cũng cứ thế mà leo lên.

Anh Măng, người dẫn đường cho chúng tôi bảo, tuần nào anh cũng leo lên đỉnh này để xem đàn gia súc nhà anh thả rong trên đó như thế nào. Anh gọi đỉnh Phu Sung Song là đỉnh Cột Cờ. Người Mông còn gọi đỉnh núi này bằng cái tên khác là Chung Chua Nhà (đỉnh núi có nhiều kim loại). Trước kia trên đỉnh núi có dựng một cột cờ lớn để đánh dấu đỉnh cao nhất của dãy núi này. Nhưng giờ không còn nữa, chúng tôi có muốn xem cũng không được.

< Chặng dừng chân đầu tiên sau bốn tiếng đồng hồ leo núi.

So với đỉnh Fanxipan, Phu Song Sung thấp hơn, vào khoảng 2.955 mét so với mực nước biển, nhưng độ khó thì hơn Fanxipan rất nhiều lần vì toàn dốc đứng lên, không có những khoảng nghỉ như leo Fan. Trời nhiều mù nên cũng chẳng thấy gì nhiều, chỉ thấy chân mình đi qua hết con núi đến con núi khác, dò dẫm trên con đường mòn ướt đẫm nhỏ tí dành cho bò, dê đi đã trở nên trơn trượt, nhão nhoẹt. Đoàn chúng tôi thay nhau trượt ngã, có những đoạn anh dẫn đường phải dùng một cây gậy kéo từng người một lên khỏi đoạn dốc trơn.

Khó nhọc leo lên từng con dốc một, nhưng mệt quá dừng lại nghỉ lâu một chút là cái lạnh bắt đầu ngấm vào người nên chúng tôi có mệt cũng không dám nghỉ lâu, cứ dò dẫm đi về phía trước. Càng lên cao gió thốc càng mạnh. Có những đoạn gió thổi bay đi đám bây mù, để lộ ra khoảng rừng rậm xanh rì, những ngọn núi hùng vĩ. Cả đoàn chúng tôi không khỏi choáng ngợp trước cảnh tượng tuyệt đẹp của thiên nhiên. Nhưng chỉ được một khoảnh khắc rất nhanh sương mù lại che kín tất cả.

Khoảnh khắc kỳ diệu

< Sương bám trên chùm lá non đông thành băng trông như chùm hoa thủy tinh trong suốt.

Qua vùng rừng thấp mịt mù, chúng tôi leo lên những triền núi cao hơn, hai bên là vực sâu thăm thẳm, gió thổi mạnh như muốn hất tung người chúng tôi. Có những đoạn gió mạnh quá, chúng tôi phải thụp người xuống lùm cây nhỏ để tránh gió. Những con đường sống trâu tưởng chừng như dài vô tận. Lúc đó, chúng tôi mới biết cảm giác sợ chết là như thế nào. Chỉ cần hẫng chân và gió đẩy một chút là có thể rơi xuống hai bên vực sâu thăm thẳm!

Sương mù dày đặc nên chỉ nhìn thấy những con đường mờ mờ phía trước. Nhiệt độ xuống thấp đến độ cây cối đóng băng. Có thể lấy ra một lớp băng từ trên những chiếc lá. Cây cối nhuốm màu trắng bàng bạc. Giữa sương giá như vậy, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn bắt gặp những bông hoa dại nở đẹp rực rỡ. Những cơn gió mạnh cứ liên tục đẩy những đám mây mù đi làm cho khung cảnh thiên nhiên không ngừng thay đổi. Có những khoảnh khắc, bầu trời bỗng nhiên sáng bừng lên, để lộ những đám mây trắng bồng bềnh trôi trên những đỉnh núi xanh mướt.

< Trên đường lên đỉnh, thỉnh thoảng, gió xua hơi mù đá núi, để lộ những đám mây trắng bồng bềnh tuyệt đẹp giữa núi non hùng vĩ.

Ở độ cao 2.400 mét, giữa không gian mênh mông, hùng vĩ như vậy, chúng tôi thấy mình thật nhỏ bé. Không gian tĩnh lặng đến kỳ lạ, chỉ nghe thấy tiếng chim và tiếng bước chân dồn dập, tiếng thở nặng nhọc của chúng tôi. Nếu đi quá cách xa nhau, chúng tôi chỉ cần đứng trên đỉnh núi này hú lên, là nhóm kia ở đỉnh bên kia có thể nghe thấy rõ mồn một. Cảm giác yên tĩnh đến rợn người.

Chúng tôi cứ thế cắm đầu leo lên ròng rã từ 7 giờ sáng đến tận chiều. Đôi chân đã mỏi nhừ nhưng vẫn chưa thấy đích đến đâu. Đoạn đường cuối cùng chỉ có thể đi bằng ý chí, mặt cắm xuống đất, lê từng bước một. Trời đã bắt đầu tối và vẫn sương mù mịt nên có lên đỉnh cũng không thể nhìn ngắm thấy gì. Chúng tôi quyết định chỉ đi tới lán chăn gia súc của gia đình bác Sinh. Từ lán còn phải mất gần tiếng đi bộ mới lên tới đỉnh.

< Suốt chặng đường lên đỉnh không hề có đoạn đi xuống, chỉ leo hết ngọn núi này đến ngọn núi khác.

Cả bọn đang thất thểu đi về lán, bỗng dưng chúng tôi thấy sáng rực ở chân trời. Giống như một điều kì diệu, nắng bỗng xuất hiện trên đỉnh núi, giữa lòng thung lũng là biển mây trắng bồng bềnh. Những tia nắng phản chiếu làm lóe lên nhưng tia sáng lấp lánh như pháo hoa. Khoảnh khắc chỉ diễn ra trong chớp mắt, rồi lại bị mây mù bao phủ. Chúng tôi không kịp lôi máy ảnh ra chụp. Nhưng cảm giác lâng lâng thì vẫn còn. Cứ ngỡ như mình đang ở một chốn thần tiên nào đó. Lúc trước, chúng tôi vẫn tiếc là mình không đi vào một ngày đẹp trời lắm. Nhưng chứng kiến bức tranh tuyệt đẹp đó chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi thôi cũng đủ bù đắp cho tất cả những khó khăn mà chúng tôi phải trải qua.

Hành trình của ý chí

< Lán gỗ dành cho gia súc tránh rét của gia đình ông Giàng A Sinh, bí thư xã xã Xà Hồ.

Lúc này, khu lán trại của ông Sinh đã hiện ra mờ mờ ở phía xa. Chúng tôi như có động lực để tăng tốc. Khu lán nằm lọt thỏm giữa khoảng đất bằng phẳng, xung quanh núi bao phủ. Gió thốc vào như muốn thổi tung từng mảnh gỗ. Toàn bộ đều là nơi để gia súc tránh rét, chỉ có một tầng trên được ghép tạm bợ bằng những miếng gỗ để cho người trú.

Cảm giác như ngôi nhà đang rung rinh kẽo cọt trong gió. Thế mà vào bên trong lại rất ấm. Cứ tưởng tượng nếu không có cái trạm này, cả đoàn mắc lều cắm trại chắc chắn sẽ bị thổi bay đi lúc nào không biết. Đoàn chúng tôi đến trước, một lát sau cũng có một đoàn khác đến cùng tá túc trong cái lán bé tí xíu. Chúng tôi chia đôi ra, mỗi bên một nửa, nằm quanh bếp lửa. Đêm xuống, chỉ nghe tiếng gió rít xuyên qua những phiến gỗ và tiếng lửa kêu tí tách, tiếng gió đưa đẩy những chiếc lục lạc của đám gia súc kêu leng keng.

Mùa đông khắc nghiệt không còn lạnh lẽo nữa, bởi hơi ấm của người, bởi cảm giác đã làm được một cái gì đó, đã trông thấy những cảnh tượng tuyệt đẹp. Chúng tôi có một đêm ngon giấc trong giấc mơ ngọt ngào.

Buổi sáng, cả hai đoàn cùng sẵn sàng leo lên đỉnh. Khoảng cách chỉ chưa đầy một tiếng đi bộ. Nhưng trời vẫn mù mịt. Cả đoàn cặm cụi leo lên đỉnh nhưng cũng chẳng nhìn thấy gì nhiều hơn ngày hôm qua. Đành tiếc rẻ bắt đầu leo xuống, hứa với lòng mình sẽ trở lại, leo lên đỉnh vào một ngày ánh nắng tràn ngập để thấy mình như nằm trên mây, bồng bềnh trôi; để nhìn thấy phía dưới kia, chân núi thăm thẳm xanh mướt và hít căng tràn lồng ngực không khí buổi sớm tinh nguyên.

Chặng đường đi xuống cũng vất vả không kém. Hết đổ dốc này, đến dốc khác. Có những lúc không phanh lại được trước con dốc dựng dứng, cứ lao người chạy xuống. Đầu ngón chân bám vào đường sưng tấy lên. Chúng tôi thử tất cả các kiểu đi xuống, đi ngang, đi dọc và cuối cùng là lết xuống bằng... mông. Thế mà vẫn có vài người ngã lăn lông lốc. Hai đầu gối tôi run lẩy bẩy, trong đầu chỉ lẩm nhẩm “Dê leo được, mình cũng leo được” để tự khích lệ quyết tâm.

Trong khi đó, anh Măng chỉ mang đôi ủng nhựa lại đi nhẹ nhàng như không. Nhìn anh leo xuống thoăn thoắt giống như con sóc. Chúng tôi có động lực để đi xuống. Giống như kiểu đi nhiều sẽ quen chân thôi.

Cuối cùng, chúng tôi cũng xuống được tới chỗ gửi xe, người ngợm quần áo bẩn thỉu nhưng bù lại mặt ai cũng tươi rói. Cuối cùng, cũng đã chinh phục được mục tiêu. Quan trọng hơn cả, như người ta vẫn nói, “Niềm vui là hành trình, chứ không phải là điểm đến”. Cả chuyến đi, mỗi người chúng tôi đều có trải nghiệm của riêng mình và cảm giác đã vượt qua chính bản thân mình.

Du lịch, GO! - Theo Lê San (Thesaigontimes), internet
Trước đây bà con phật tử thường gọi Thiền viện Đông Lai (khóm Xuân Phú, thị trấn huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang) là chùa Phật Nằm. Về sau, chùa lại được bá tánh gần xa gọi bằng một cái tên nôm na, gần gũi là chùa Bánh Xèo.

< Đông Lai thiền viện trước khi xây mới, thường được dân chúng địa phương gọi là chùa Phật Nằm hoặc gần gũi hơn là chùa Bánh Xèo.

Có tên gọi chùa Phật Nằm là vì bên phải chùa có tượng Phật Thích Ca nhập niết bàn, trong tư thế nằm nghiêng với chiều dài 6 mét. Trong khi xây mới chánh điện, thượng tọa Thích Thiện Chí cho xây dựng đài Quan Âm bên trái chánh điện, gồm tượng Quan Âm Bồ tát, sau lưng tượng là hòn non bộ có dòng nước mát ngày đêm chảy róc rách.

Thiền viện Đông Lai xây mới (dự kiến khánh thành vào ngày 13 tháng 3 năm Quý Tỵ, nhằm ngày 22-4-2013), kiến trúc theo phong cách chùa chiền Việt Nam với ba lớp mái nhỏ dần, với những hình tượng đầu đao truyền thống. Trước hàng hiên tiền điện có hai cặp đối. Một cặp bên ngoài ghi dọc hai câu đối âm Hán tự: “Hoằng pháp vi gia vụ / Lợi sanh vi bổn hoài”. Cặp đối bên trong, cũng bằng âm Hán tự, ghi dọc: “Đông độ Tây thiên trụ đại pháp / Lai nhân duyên hữu thoát trẩn ai”, tạm dịch nghĩa: Tây thiên là nơi đất Phật, người có duyên đến sẽ thoát được não phiền. Cặp đối này mỗi câu được khởi đầu bằng chữ: “Đông” và “Lai”. Ghép hai chữ này lại thành Đông Lai. Chánh điện sắp xếp khá hiện đại với hương án thờ Tam thế chư Phật, gọn gàng, thếp vàng lộng lẫy, uy nghi. Dọc dài hai bức tường là phù điêu Thập bát La hán được chạm khắc tinh xảo, mỹ thuật.

< Chánh điện Đông Lai thiền viện được xây mới hoàn toàn, bên phải ảnh là đào Quan Âm và hòn non bộ.

Việc xây mới, nới rộng khiến chùa thêm ngăn nắp, sạch sẽ, đảm bảo vệ sinh môi trường. Phía sau chánh điện là nhà ăn, có hai khu vực. Khu vực ngoài sắp 20 bàn (200 ghế). Bên trong 10 bàn (100 ghế). Bàn ghế bằng inox sáng bóng. Trên bàn luôn để sẵn chén, đũa, dĩa, muỗng, hũ nước chấm chanh đường, hũ tăm xỉa răng, chén ớt... Phía trong cùng là khu vực bếp, gồm nơi rửa chén dĩa, đũa muỗng, nơi làm nhưn bánh xèo, nơi nấu cơm và thức ăn. Tất cả đều được lót gạch men sáng bóng. Khu vực đổ bánh xèo nằm bên phải chánh điện, cách một lối đi, vừa phân biệt vừa giúp tránh gây nóng nực cho nhà ăn, nhà bếp.

Nơi đổ bánh xèo có bốn nhóm, mỗi nhóm có hai hoặc ba người, anh Ngô Văn Vũ (31 tuổi, đổ bánh xèo cho chùa khoảng 5 năm nay) cho biết. Một người đổ bánh mọt lúc 10 chảo, sắp hình vòng cung; một người phụ việc, chuyển bánh lên nhà ăn. Khi có khách đến lập tức bếp lửa cháy phừng phực, các đầu bếp rộn ràng vào việc ngay. Bánh xèo được đổ liên tục, đáp ứng nhu cầu. Nhìn “thợ” đổ bánh xèo làm việc nhanh nhẹn, khéo léo, ai cũng quên cái nóng bức của bếp lò. Đáng quan tâm là khu nhà vệ sinh được tách biệt với khu chánh điện, nhà bếp. Nhà vệ sinh lót gạch men bóng láng, khách bước vào đều để giày dép bên ngoài...

< Anh Ngô Văn Vũ “tả xung hữu đột” với 10 chảo bánh xèo nóng lửa.

Cô Trương Thị Kim Thùy, 32 tuổi, phụ trách bếp cho biết việc tổ chức đổ bánh xèo và bánh tét khởi phát từ năm 1999, khi thượng tọa Thích Thiện Chí về trụ trì, nhân kỷ niệm ngày sư ông cất chùa viên tịch. Tất nhiên, sau khi thưởng thức bánh xèo, bánh tét, khách gần xa đều không ngớt lời khen ngợi, từ đó nhà chùa đổ bánh xèo phục vụ khách hằng ngày. Cô tâm sự, sáng nào cô cũng đều ra chợ thị trấn Tịnh Biên mua rau cải, gạo, củi... Biết chùa làm việc thiện, một số người bán hàng “hiến cúng” một số rau cải, giá, đậu...

Đặc biệt, vào mùa mưa, một số phật tử lên núi hái ngành ngạnh, kim thất, lá sung, cát lồi, đọt bứa, lá vông, mã đề, măng tươi… đem “cúng”. Đây là những loại rau rừng ngoài việc giúp thực khách ngon miệng với món bánh xèo, còn giúp họ bồi bổ cơ thể, ngăn ngừa một số bệnh. Đặc biệt, vào các ngày rằm, mồng Một âm lịch, chùa có phục vụ bánh tét cho khách thập phương, có hôm lên đến 800 - 900 đòn/ngày. Phần việc nầy do bà con phật tử ở địa phương tự nguyện đến chùa gói và nấu bánh. Ngoài bánh xèo, bánh tét, chùa còn khoản đãi cơm chay cho khách viếng chùa. Những đoàn khách hành hương muốn dùng cơm chay cần đặt trước.

< Từ 6 giờ sáng đến 7 - 8 giờ tối, khách viếng chùa lúc nào cũng có thể ăn bánh xèo mà không cần đặt trước.

Từ 6 giờ sáng đến 7 - 8 giờ tối, khách viếng chùa lúc nào cũng có thể ăn bánh xèo mà không cần đặt trước. Khi khách ít, người phục vụ liên tục chuyển bánh đến. Những lúc khách đông, khách phải tự mình xuống bếp mang bánh lên. Những ngày khách viếng chùa đông, những người làm công quả lâu năm đều biết nên mạnh ai nấy tới lãnh một vài nhiệm vụ. Nhà ăn có 30 bàn với 300 ghế, vậy mà ngày rằm, mồng Một hoặc lễ vía lớn, lúc nào cũng “hết chỗ”, khách phải đứng chờ.

Nhờ lực lượng làm công quả mà việc phục vụ ăn uống cho khách lúc nào cũng khá chu tất. Càng chu đáo hơn, sau khi khách ăn (cứ ăn thoải mái đến no bụng thì thôi) xong còn được tráng miệng bằng ly cà phê đá. Bà Vương Thị Kim Loan, khách hành hương từ Long An, nhận xét: “Ăn uống hoàn toàn miễn phí, nhưng bánh xèo cái nào cũng giòn rụm, ngon hết ý. Cà phê đá đắng ngọt không thua quán xá. Đáng ca ngợi nhất là thái độ phục vụ của những người làm công quả, ai cũng vui vẻ, nhiệt tình với khách”.

< Vào các ngày rằm, mồng Một, chùa có phục vụ bánh tét cho khách thập phương, có hôm lên đến 800 - 900 đòn/ngày. Phần việc nầy do bà con phật tử ở địa phương tự nguyện đến chùa gói và nấu bánh.

Hơn thế nữa, việc phục vụ ăn uống miễn phí của chùa còn giúp giải quyết bữa ăn cho một số người nghèo khó ở địa phương, như những người lao động chân tay, bán vé số dạo. Cô Đoàn Thị Luyến, 32 tuổi, vừa ăn bánh xèo vừa tâm sự: “Nhờ có bánh xèo và cơm mà tôi no bụng sáng chiều. Tiền bán vé số tôi trích vài ngàn cúng chùa, phần còn lại đem về lo cơm nước cho hai đứa con và thuốc men cho ông xã bị bịnh sạn thận. Chùa tổ chức đổ bánh xèo là việc làm phước đức rất đáng trân trọng”.

Vâng, phục vụ bánh xèo, bánh tét của Thiền viện Đông Lai là một việc làm phúc đức, một hạnh từ bi theo chánh pháp nhà Phật. Chính vì vậy mà Thiền viện Đông Lai ngày càng thu hút khách thập phương, ngoài khách khu vực đồng bằng sông Cửu Long còn có khách từ miền Đông Nam bộ, Tây nguyên. Và, khu nhà bên kia đường trước chùa ngày càng sầm uất với hàng quán khang trang, sân chùa lúc nào cũng có xe đò, xe khách vãng lai đậu thành hàng.

Du lịch, GO! - Theo Phương Kiều, Cúc Tần (TBKTSG Online)

Monday, 15 April 2013

Không có vẻ đẹp huyền bí, lộng lẫy được tạo bởi những khối thạch nhũ như các hang động có nguồn gốc đá vôi tại một số tỉnh miền núi phía Bắc, những hang dơi tại khu vực rừng giá tỵ nằm dọc quốc lộ 20 (thuộc địa bàn 2 huyện Định Quán và Tân Phú - Đồng Nai) còn giữ được nhiều nét nguyên sơ.

< Chỗ rộng nhất của hang dơi.

Nhóm hang động này đang được nhiều người biết đến khi nắm giữ một kỷ lục mới về hang động có nguồn gốc dung nham tại khu vực Đông Nam Á.

Từ những thông tin do Viện Sinh học nhiệt đới và Hội Hang động Berlin (Đức) cung cấp, chúng tôi đã tìm đến các hang dơi tại khu vực này để cùng trải nghiệm và tìm hiểu những nét hoang sơ, mang nhiều màu sắc huyền bí tại đây.

Bí ẩn hang Dơi

Ông Đỗ Hữu Đức, Trưởng trạm giống nông nghiệp La Ngà (thuộc Công ty cổ phần giống lâm nghiệp vùng Đông Nam bộ), cho biết, nằm sâu bên trong lòng đất, ngay dưới khu rừng giá tỵ chạy dọc theo hai bên quốc lộ 20 có 7 hang dơi.

< Miệng hang rộng đủ để nhiều người chui qua cùng lúc.

Ẩn khuất trong nương rẫy của nhiều hộ nông dân thuộc các xã: Phú Lợi, Phú Tân (huyện Định Quán) còn có thêm 4 hang dơi nữa. Những hang động này đều có điểm chung là hầu như chỉ có dơi sinh sống. Có lẽ vì thế mà khi phát hiện, người dân nơi đây gọi chúng là những hang dơi.

Dẫn chúng tôi vào thám hiểm hang dơi nằm trên phần diện tích đất canh tác của một gia đình thuộc thị trấn Tân Phú, huyện Tân Phú (đoạn giáp ranh giữa 2 huyện Tân Phú và Định Quán), ông Nguyễn Văn Trạng (ngụ xã Phú Tân, huyện Định Quán), cho biết: “Tôi đã từng hướng dẫn cho nhiều đoàn khách trong và ngoài nước đến tham quan, khảo sát các hang dơi ở khu vực này từ năm 2005. Tuy nhiên, tôi cũng không dám mạo hiểm tìm hiểu hết những hang động nơi đây bởi mỗi hang còn đang ẩn chứa nhiều điều huyền bí.

< Sơ đồ miêu tả ngăn hang Dơi 1 (vòng cung bên trên - cave 1) và hang Dơi 2 (cave 2). Hình tròn ở giữa là đoạn đứt gãy mà nếu tính cả đoạn này, hang Dơi 1 là hang động dung nham dài nhất Đông Nam Á.

Càng đi vào sâu bên trong mức độ hiểm nguy, cộng với môi trường sống khắc nghiệt (thiếu khí oxy, thiếu ánh sáng, chênh lệch nhiệt độ với môi trường bên ngoài…) càng lớn.  Do đó, nếu không có những thiết bị hỗ trợ cần thiết, thì rất dễ làm chùn chân, thậm chí gây nguy hiểm cho bất cứ ai muốn khám phá các hang động nơi đây”.

Để chuyến đi vào hang dơi được an toàn, ông Trạng phải chuẩn bị một loại đèn soi đội đầu và một cây đèn măng-sông lớn. 3 giờ chiều, chúng tôi bắt đầu tiến vào hang dơi nằm trên phần đất của ông Trạng. Miệng hang ở đây rộng hơn 3 m, 2 - 3 người có thể chui vào cùng lúc. Mới vào bên trong, mùi hôi đặc trưng của phân dơi ngay lập tức xộc vào mũi.

Bên trong hang, nhiều đoạn rộng gần chục mét, cao hơn 4m, nhưng cũng có đoạn lối đi hẹp, thỉnh thoảng lại có những ụ đất, đá chắn ngang khiến cả đoàn phải khom người, rồi bò mới qua được. Trên suốt quãng đường dài hơn 300 m (tính từ miệng hang), đâu đâu cũng thấy những con dơi treo mình trên trần hang. Bị ánh đèn soi chói mắt, chúng đồng loạt vỗ cánh bay loạn xạ.


Theo tài liệu báo cáo khảo sát vừa thực hiện tại các hang động này của Viện Sinh học nhiệt đới và Hội Hang động Berlin, các nhà khoa học còn tìm thấy sự sống phong phú với nhiều chủng loại động vật khác, như: các loài động vật thuộc nhóm nhện, rết, bọ cạp, dế hang, ruồi, nhiều loài ếch nhái, động vật có vú, cùng những rễ cây to  của rừng giá tỵ ăn sâu xuống đây.


Ở km 123 và km 122 Quốc lộ 20, đi về phía bên trái, vào khoảng 150 m (tính theo hướng từ Dầu Giây đi Đà Lạt), chúng tôi đã có chuyến thám hiểm tại 3 trong tổng số 7 hang dơi nằm bên trong khu rừng giá tỵ (thuộc huyện Định Quán). Tại những hang này, bên cạnh những miệng hang lớn còn có những hang rất nhỏ, chỉ vừa đủ cho một người có thể trạng trung bình chui lọt qua.

“Tất cả những hang dơi nằm ở bên trong khu rừng giá tỵ và các hang dơi khác nằm trên phần đất của các hộ dân trong khu vực có đặc điểm giống nhau, là đều được hình thành từ những dòng chảy dung nham núi lửa hoạt động từ thời xa xưa với vô số những con dơi trú ẩn bên trong. Trong đó, có nhiều hang đã được phát hiện là ăn thông với nhau” - ông Trương Bá Vương, thành viên đoàn khảo sát (Viện Sinh học nhiệt đới thuộc Viện hàn lâm Khoa học - công nghệ Việt Nam), cho biết.

Cần được bảo tồn

Hệ thống hang động tại Đồng Nai không nhiều. Tuy nhiên, theo tài liệu của Viện Sinh học nhiệt đới và Hội Hang động Berlin, chỉ tại địa bàn thuộc 2 huyện Định Quán và Tân Phú, đoàn đã tiến hành khảo sát tổng cộng được 11 ống/hang dung nham với tổng chiều dài 1,8km.

“Trong số này, hang động dài nhất được tìm thấy là hang dơi được ngăn cách bởi sự sụp đổ, đứt gẫy tạo ra 2 hang: hang dơi 1 và hang dơi 2 (tại km 122). Trong đó, hang dơi 1 có chiều dài là 426 m, nơi được ghi nhận là rộng nhất của hang này có chiều cao lên tới 4 m và chiều rộng 10 m” - ông Vương cho biết thêm.

< Scutigère: Loài Thereuopoda longicornis (Fabricius 1793)

Đây quả là một sự ưu ái của thiên nhiên đối với khu vực 2 huyện miền núi của tỉnh. Tuy nhiên, để phát triển và bảo tồn những món quà thiên nhiên ban tặng và còn mang nhiều nét nguyên sơ, mới lạ này rất cần các nhà khoa học, các ngành chức năng tiến hành nghiên cứu làm rõ và có hướng bảo vệ thích hợp. Bởi hiện nay, theo phản ánh của nhiều hộ dân, hàng ngày vào lúc chập choạng tối, khu vực này có nhiều đoàn người xách theo đèn pin, lưới mắt cáo tìm đến các cửa hang để bắt dơi.

Ông Nguyễn Văn Trạng cho biết, trước kia thịt dơi chỉ dùng để chế biến thức ăn của người dân trong những ngày nông nhàn. Nhưng hiện nay, những món ăn chế biến từ thịt dơi đã trở thành đặc sản. Chính vì bị đánh bắt thường xuyên nên nhiều đàn dơi đã chọn cách chuyển đến các hang động tại những địa phương khác để sinh sống. Điều này đã làm cho một số hang trong vùng không còn cảnh sinh sống đông đúc của dơi như trước.

< Amblypyge: Loài Phrynichus orientalis - Weygoldt,1998

Ông Trương Bá Vương (Nghiên cứu viên, Viện Sinh học nhiệt đới (thuộc Viện hàn lâm Khoa học - công nghệ Việt Nam), thành viên đoàn khảo sát:

Với kết quả tìm được thì hang động dơi tại khu vực giáp ranh giữa 2 huyện Tân Phú và Định Quán sẽ trở thành hang dung nham dài nhất khu vực Đông Nam Á tính cho đến thời điểm hiện nay (dài hơn ống dung nham Gua Lawah có chiều dài 400 m của Indonesia). Phát hiện này dự kiến sẽ được Hội Hang động Berlin xuất bản thành một báo cáo đầy đủ bằng tiếng Anh, bao gồm: phần bản đồ và phần mô tả về các hang động. Dự kiến sẽ được xuất bản trên ấn phẩm Speleological Berlin Speleoclub của hội.

Bà Võ Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm xúc tiến du lịch tỉnh (Sở Văn hóa - thể thao và du lịch):

< Loài Dơi, có thể loài cf. Hipposideros pomona

Đã từng dẫn nhiều đoàn học sinh, sinh viên của nhiều trường đại học trong khu vực Đông Nam bộ đến tìm hiểu và nghiên cứu tại hang dơi ở 2 huyện Tân Phú và Định Quán, tôi nhận thấy những địa điểm này rất có tiềm năng phát triển du lịch sinh thái, thám hiểm hang động. Đây là hoạt động sẽ góp phần quảng bá hình ảnh du lịch tỉnh nhà đến với bạn bè trong và ngoài nước. Tuy nhiên, để có thể biến mong muốn đó thành hiện thực thì đòi hỏi các cơ quan chức năng, các nhà nghiên cứu khoa học cần thực hiện nhiều đợt khảo sát để đánh giá mức độ an toàn, tác động của du lịch đối với môi trường sinh thái.

Du lịch, GO! - Theo Văn Truyên (Đồng Nai Online), ảnh internet
Công trình thủy điện, thủy nông Ayun Hạ hoàn thành năm 1994, nằm trên địa bàn 2 huyện Chư Sê và Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Với diện tích mặt nước 37 km², công trình vĩ đại, tuyệt đẹp này không chỉ khiến Gia Lai trở thành vựa lúa của Tây Nguyên, nó còn giúp hàng ngàn nông dân mưu sinh, thoát nghèo bằng nghề đánh bắt cá.

Sung túc nhờ hồ

Những ngày lang thang quanh khu vực hồ Ayun Hạ, một lần đứng trên đỉnh đèo Chư Sê phóng tầm mắt nhìn xuống hồ, tôi mới thực sự ngỡ ngàng trước cảnh thiên nhiên đẹp như một bức tranh. Toàn cảnh bức tranh nền là một màu xanh trù phú.

Hai bên hồ là hai dãy núi sừng sững ôm lấy dòng sông Ayun hiền hòa. Phía dưới là nhà máy thủy điện Ayun Hạ và dòng nước trong xanh chảy theo kênh chính dài ngút tầm mắt, uốn lượn theo những cánh đồng chạy dài xuống thị trấn Ayun Pa tạo nên bức tranh đồng quê tự nhiên, hài hòa. Những mái nhà tranh cất tạm của ngư dân nằm lúp xúp bên bờ hồ. Dưới lòng hồ, những chiếc thuyền của ngư dân lững thững trôi… khung cảnh thật êm đềm.

Hỏi thăm mãi, cuối cùng tôi cũng tìm được nhà của già làng của làng T’lâm, xã Ayun. Năm nay đã gần 80 tuổi, già làng K’puih từng trải qua biết bao thăng trầm của quê hương, từng có những tháng năm dài tham gia nuôi giấu bộ đội trong cả 2 thời kỳ chống Pháp, Mỹ. Đêm đêm, già làng cùng thanh niên trong làng chèo thuyền độc mộc chở bộ đội vượt sông, mai phục dưới chân đèo Tung Kê tiêu diệt kẻ thù.

Già làng khoe: “Từ lúc có hồ đến nay, bà con hết nghèo đói, sống khỏe. Giờ nhiều người thích xuống nước bắt cá hơn lên rừng rồi”. Theo già làng K’puih, chỉ tính riêng xã Ayun đã khoảng hơn 300 hộ làm nghề đánh bắt cá trên hồ. Trẻ con trong làng khi vừa biết đi cũng là lúc phải tập bơi, lên 10 tuổi đã biết câu cá, thậm chí có đứa giăng lưới thành thục, biết canh con nước, ngọn gió để đặt câu, buông lưới. Quả thật, hồ Ayun Hạ đã cho bà con cuộc sống sung túc.

Tôi gặp ngư dân Đ’Breng, ở làng T’Lâm, xã Ayun, giữa lúc anh vừa đi thả lưới về. Tôi ngạc nhiên thấy quần áo anh sũng nước nhưng chẳng thấy cá đâu. Anh cười bảo: “Bây giờ mình chỉ thả lưới xuống thôi, về ngủ 1 giấc rồi sáng dậy sớm đi mang cá về bán thôi”. Tôi hỏi: “Thả lưới không có người trông người khác xuống lấy mất thì sao?”. “Không đâu, ai cũng có mà”, anh thật thà đáp.

Già làng K’puih cũng nói với tôi rằng từ xưa đến giờ chưa từng xảy ra mất trộm lưới. Đ’Breng năm nay gần 50 tuổi và anh chẳng nhớ đã gắn bó với dòng sông từ lúc nào. “Ngày xưa theo cha đi bắt cá dưới sông, cũng có cá. Bây giờ có hồ rồi, nhiều cá lắm, không phải ngược lên thượng nguồn nữa”, anh nói tiếp. “Thả lưới một đêm được bao nhiêu cá?”, tôi hỏi Đ’Breng. Anh đáp: “Nhiều lắm, con nào cũng to, mang nặng vai. Ở đây nhiều người thả lưới giỏi lắm”. Đ’Breng bảo, cách đánh cá của những ngư phủ trên sông Ayun rất khác người. Buổi chiều sau khi đi rẫy về họ chỉ ra sông buông lưới xuống để sáng mai ra thu lưới và mang cá về bán.

Đối diện các làng thuộc xã Ayun, huyện Chư Sê là các làng ngu phủ Kim Piêng, Plei Bông, Plei Trơk, Plei Hek… của xã Chư A Thai, huyện Phú Thiện đang có cuộc sống sung túc nhờ hồ Ayun Hạ.

Buổi chiều, hoàng hôn buông xuống thật nhanh. Những ngôi nhà sàn bắt đầu sáng đèn. Tôi ngỏ ý muốn ở lại một đêm, già làng K’puih gật đầu, cười bảo: “Rừng đủ thức ăn, đủ chỗ ngủ mà”.

Kiêng kỵ khi buông lưới

Buổi sáng, khi mặt trời chưa ló rạng tôi đã giật mình choàng tỉnh bởi tiếng khua mái chèo, tiếng gọi í ới bằng tiếng bản địa. Già làng K’puih đang ngồi thư thái nhìn ra khoảng sân đầy heo gà, miệng phì phèo tẩu thuốc. Tối qua, tôi đã được xúc miệng bằng rượu cần, có vị thuốc, được thưởng thức món cá hồ Auyn Hạ nướng, nấu măng chua, và sau đó, ngủ một giấc thật say trong tiếng ru của cây rừng…

Bên ngoài, bờ hồ tấp nập, mọi người đang hối hả xuống xuồng, đi gỡ lưới. Tôi nhanh chân theo bước theo Đ’Breng. Biết tôi có ý định theo ra hồ, anh bảo: “Hồ sâu lắm, anh có biết bơi không?”, thấy tôi gật đầu, anh tiếp: “Hồ cũng có thần linh cai quản, phải khấn trước nếu không thần không cho xuống, không cho cá đâu”. Nói rồi anh chắp tay, ngửa mặt rì rầm một lát rồi nói: “Xong rồi”.

Chúng tôi bước xuống thuyền. Những chiếc thuyền khác cũng bắt đầu ra sông. Đ’Breng bảo, không chỉ khấn, xin phép thần trước khi ra hồ, còn phải hứa không được làm điều xằng bậy như phóng uế, bắt cá nhỏ, gian lận… Lưới của Đ’Breng thả không xa bờ, nhưng khi anh vừa kéo lên, đã thấy mấy con cá mè khá to giãy giụa.

Suốt thời gian gỡ cá, Đ’Breng không nói một lời. Mẻ cá từ nắm lưới dài chừng 30 m Đ’Breng thu chừng 40 con cá mè, cá lóc, cá trôi. Ước cũng hơn chục ký cá. “Mình bán bao nhiêu tiền một ký?”, tôi hỏi anh. “Có khi 20 ngàn, có khi cao hơn. Tùy hôm, khi nào họ bảo hôm nay cá rẻ thì mua thấp, hôm nào đắt thì họ trả cao”.

Hồ Ayun Hạ có rất nhiều cá. Cá tự nhiên vốn đã nhiều nay được Cty Thuỷ sản miền Trung thả giống chăn nuôi nên cuộc sống của hàng trăm hộ dân sống quanh lòng hồ Ayun Hạ càng sung túc hơn xưa. “Ở đây nhiều cá to lắm. Vì nó sống lâu nên rất khôn. Lưới không bắt được nó đâu. Có khi nó được thần nước bảo vệ rồi cũng nên”, Đ’Breng nói.

Hằng ngày vào buổi trưa, sau khi thuyền đánh bắt cập bến, những xe tải đông lạnh lại chở cá nước ngọt đi khắp mọi miền đất nước. Cá ở đây nhiều vô kể và đa dạng về chủng loại như: trôi, chép, mè, lăng, trắm cỏ… và đặc biệt là cá thát lát, một trong những đặc sản nức tiếng của Gia Lai.

“Hữu xạ tự nhiên hương”, hồ Ayun Hạ và cả những vùng đất xung quanh nó đã trở thành mảnh “đất lành”, thu hút nhiều người đến mưu sinh. Anh Đ’Đôk, một ngư dân mới chuyển đến làng Plei Trơk, xã Ayun va cũng sống nhờ nguồn cá trên hồ nói: Lúc trước, anh sống ở xã H’Bông, huyện Chư Sê nhưng đời sống gặp nhiều khó khăn vì khô hạn, đất đai cằn cỗi.

Nhưng từ lúc chuyển cả gia đình về đây, lòng hồ Ayun Hạ đã giúp anh và cả gia đình thoát khỏi cảnh đói nghèo. “Tôi biết ơn hồ, biết ơn thần linh đã chỉ dường cho tôi gặp hồ, biết ơn nhà nước đã làm hồ nước này cho bà con”.

Ngày xưa, ở các buôn làng Tây Nguyên, ai cũng biết câu ca dao: “Ai về nhắn với nậu nguồn/Măng le gửi xuống cá chuồn gửi lên”. Nhưng bây giờ, câu ca ấy đã đi vào dĩ vãng, chẳng còn ai nhắc đến nữa. Hồ Ayun Hạ đã mang rất nhiều cá đến cho họ rồi, nên họ chỉ gửi sản vật của rừng về xuôi thôi chứ không cần dưới đó gửi cá lên nữa.

Du lịch, GO! - Theo Báo Nông Nghiệp, internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống