Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Tuesday, 23 April 2013

Được biết đến là tỉnh có nhiều đồng bào dân tộc cư trú như: Chăm, Khmer, Hoa, Việt…với những nền văn hóa đa dạng. Vì thế mà những món ăn của An Giang đều mang đậm bản sắc riêng.

Gỏi sầu đâu

Cây sầu đâu còn gọi là cây xoan ăn gỏi, một loài cây mọc hoang, nhiều nhất ở Châu Đốc và vùng Bảy Núi - An Giang. Lá sầu đâu nhỏ, dài và mỏng. Lúc còn non, đọt có màu tim tím.
Lá sầu đâu được chế biến thành nhiều món ăn, phổ biến nhất là sầu đâu chấm cá kho, thịt kho hoặc ăn kèm với mắm thái, mắm chưng, từng được coi là món ngon hiếm có trên đời.

Chính vị mặn nồng của mắm hòa hợp với vị đăng đắng, hậu ngọt của lá sầu đâu sẽ làm cho vị giác lâng lâng khó tả, càng ăn càng cảm thấy khoái khẩu. Nhưng thực đơn nổi tiếng nhất ở An Giang xưa nay vẫn là món gỏi sầu đâu. Từ gỏi tôm, gỏi thịt, gỏi cá cho đến gỏi khô, thứ nào cũng tuyệt hảo.

Trước hết phải chọn cho được những đọt non kèm với bông. Khô cá lóc sau khi nướng chín, xé ra từng miếng nhỏ rồi trộn chung với đọt sầu đâu. Bí quyết của món gỏi này là phải trộn với nước me chua (dùng me chín ngâm trong nước ấm cho tan), thêm chút đường, ớt cho thấm độ 10 phút. Nước chấm cũng là thứ nước mắm me đậm đặc, cay, chua nhưng vừa ăn, không mặn, nhằm làm tăng thêm hương vị đậm đà.

Ai thích cầu kỳ và sang trọng hơn có thể trộn với tôm sú và thịt ba rọi xắt mỏng, kèm thêm dưa leo hoặc xoài chua bằm nhỏ sẽ hết chỗ chê. Món này mà có thêm chai rượu nếp nhất định buổi tiệc sẽ hào hứng không thua gì khi đang dùng cao lương mỹ vị.

Vị đắng dìu dịu của sầu đâu và vị mặn, ngọt, dai dai của cá quyện với nhau càng làm cho khẩu vị thăng hoa nhờ mùi đặc trưng, lạ miệng, hoàn toàn không giống với bất cứ loại gỏi nào.

Sầu đâu không những là đặc sản của An Giang mà còn là món ăn vị thuốc. Nhiều tài liệu về y dược cho biết trong vỏ, lá, quả và gỗ của cây sầu đâu đều có chất khổ vị tố (chất đắng) có tác dụng chữa giun rất tốt.

Mắm ruột

An Giang nổi tiếng về mắm và mắm ruột là món ăn làm từ ruột cá ngon, trộn với thính gạo lứt để chừng ba tháng. Mắm ngấu chao với đường thốt nốt lên vị rất ngon.

Ruột cá làm mắm phải chọn từ cá to, mập và phải có thêm chùm trứng to vàng. Sau khi moi mổ bụng cá lấy bộ ruột phải thật khéo tay lột bớt lớp mỡ bao quanh, sau cho thứ chất béo này đủ làm tươm bóng miếng mắm mà không gây mùi.

Đây cũng là khâu quyết định đến chất lượng mẻ mắm. Chỉ cần bớt tý mỡ, ruột mắm thiếu độ mướt, nét căng da thẳng thịt. Nhiều mỡ quá, miếng mắm sẽ bị lên dầu, chất lượng kém ngay. Sau đó dùng dao mũi nhọn tách bỏ bớt ruột già, đoạn "chần" bao tử, ruột non cho thật sạch rồi mang ra rửa thật kỹ bằng nước sông, ngâm vào dung dịch muối được pha chế theo công thức gia truyền.

Vài hôm sau khi ruột cá đã "ăn" muối, vớt ra rổ lại đợi ráo đoạn trộn với thính (gạo lứt rang vàng, xay mịn) đổ vào hũ gài vỉ tre thật khít chặt. Sau đó đổ nước mắm ngon loại thượng hảo hạng vào vừa xâm xấp ướt. Chờ khoảng một tháng, thắng đường thốt nốt "chao" mắm, ba tháng sau đã có hũ mắm ruột ngon tuyệt rồi.

Mắm sống ra ăn kèm với rau thơm, ớt "sừng trâu". Người cầu kỳ ham thích đậm đà hương vị thì cho mắm chưng với thịt ba rọi, hột vịt, rắc chút hành tiêu, vài lát gừng xắt mỏng. Người ta thích ăn nóng hôi hổi, thoang thoảng hơi cay của sả ớt thì chọn mắm kho ăn kèm mớ rau đồng xanh mơn mởn.

Xôi phồng chợ Mới

Chợ Mới được phù sa bồi đắp quanh năm nên cây nếp bản địa chất lượng cao, hạt tròn, đẹp. Nếp kết hợp với đậu trồng trên đất rẫy cho ra món xôi dẻo thơm. Đậu và nếp được hấp chín như nấu xôi truyền thống. Sau đó, phụ nữ đất cù lao dùng chày quết nhuyễn hỗn hợp nếp và đậu này lại với nhau.
Càng quết xôi càng dẻo dai, được cho thêm dầu ăn vào để “chống” dính và tạo độ bóng. Xôi ở Chợ Mới sau khi quết được cho vào khay hoặc quấn lại thành cuốn tròn để tiện bảo quản trong tủ lạnh. Khi dùng, khách chỉ cần cắt từng khoanh vừa ăn, chiên với dầu nóng. Xôi chiên có màu vàng ươm, thơm, ăn rất ngon.

Ăn xôi chiên phồng Chợ Mới có thể chấm với tương ớt, xì dầu hoặc ăn không vẫn “bắt”. Khách đến Chợ Mới, cù lao Giêng có thể thưởng thức xôi chiên với gà quay. Gà được nuôi thả vườn nên thịt dai và ngọt, được quay thủ công nên giữ được vị thơm của gà và mùi vị đặc trưng.

Món gà quay ăn với xôi phồng mới nghe đã ngán - nhưng khi thưởng thức tại Chợ Mới này thì có vị khác lạ, làm khách cứ ăn mãi, quên thôi. Nhiều du khách đến đây chỉ yêu cầu luộc gà hoặc quay gà rồi ăn với xôi chiên phồng thay cho bữa ăn chính.

Chợ Mới có nhiều cơ sở làm xôi để phục vụ trước hết cho người dân địa phương. Trong mâm quả đi cưới ở đây hiện vẫn phải có mâm xôi truyền thống. Xôi phồng Kim Hương của bà Hồng Thu ở thị trấn Chợ Mới được nhiều người biết đến không chỉ chế biến ngon miệng mà còn biết cách xây dựng thương hiệu...

Tung lò mò

"Tung lò mò" chính là một tên gọi khác của món lạp xưởng bò. Đây là món ngon độc đáo của người Chăm ở An Giang. Là đồng bào theo đạo Hồi, đồng bào người Chăm không ăn thịt lợn mà chỉ ăn thịt bò. Món “tung lò mò” theo ngôn ngữ của người dân nơi đây chính là để chỉ món lạp xưởng làm từ thịt bò.

Từ lâu, người Kinh cũng ưa thích và chế biến món lạp xưởng bò gần giống như của người Chăm và hiện phổ biến rộng rãi ở phường Núi Sam, Châu Đốc, Tịnh Biên và Tri Tôn.

Thịt bò vụn sau khi loại bỏ hết gân và mỡ giắt được xắt miếng, được băm hoặc xay nhỏ sau khi khử mùi bò bằng rượu và gừng. Thịt và mỡ bò phải theo tỷ lệ hai thịt một mỡ và mỡ bò dùng làm lạp xưởng là loại mỡ sa, mỡ chày vừa mỏng, vừa không nặng mùi như mỡ thăn. Sau đó họ trộn đều hỗn hợp thịt với hạt tiêu, tỏi, bột ngọt, đường cùng một vài loại gia vị bí truyền.

Thế nhưng nguyên liệu nhất thiết phải có trong món ăn này đó là cơm nguội. Đây chính là bí quyết để “tung lò mò” trở thành món ngon độc đáo hơn lạp xưởng bò bình thường nhờ cơm nguội lên men có vị chua lạ miệng.

Muốn cho món lạp xưởng bò này thơm, ngon và có mùi hấp dẫn ngoài những gia vị trên phải có thêm gia vị đại hồi và tiểu hồi.

Khác lạp xưởng lợn, lạp xưởng bò sau khi làm xong chỉ cần phơi cho khô là có thể đem chiên hoặc nướng. Hấp dẫn nhất là lạp xưởng nướng trên bếp than hồng. Khi nướng chín xong cắt ra thành viên có màu đỏ hồng, hương bay thơm phức không còn mùi mỡ bò.

“Tung lò mò” nướng nên chín tới đâu, ăn tới đó. Bạn sẽ thấy vị ngọt bùi của thịt và mỡ bò, vị chua chua của cơm nguội lên men hòa cùng gia vị cay của ớt, lại ăn kèm với rau sống, rau cần tươi, vị chua của khế, vị chát của chuối sống. Lạp xưởng bò khi ăn phải chấm muối tiêu chanh hoặc tương ớt. Hấp dẫn hơn là có ăn kèm rau sống và ăn chung với bún hoặc bánh mì.

Món ăn này để ăn cơm hay nhâm nhi đều hấp dẫn. Không riêng gì người Chăm mà người Việt, người Hoa cũng khoái món này. Để phù hợp với khẩu vị của người Kinh, “tung lò mò” được cải biến bằng cách bỏ phần cơm nguội, không còn mùi chua gốc, nhưng có mùi thơm lạ rất được ưa chuộng.

Bánh phồng Phú Mỹ

Làng nghề bánh phồng Phú Mỹ hình thành, tồn tại và phát triển gần 70 năm nay, có 50 cơ sở sản xuất, thu hút khoảng 300 lao động. Trong đó, các gia đình nổi tiếng có truyền thống làm bánh như gia đình cụ Lê Minh Dơn, Ngô Thị Dờn, Trần Văn Tâm...

Theo các bậc cao niên tại làng nghề, nguyên liệu làm bánh phồng là loại nếp đặc sản được trồng tại địa phương. Các công đoạn làm bánh rất công phu. Người làm bánh chọn loại nếp rặt, ngon. Nếp được ngâm đúng ba ngày ba đêm, đãi cho sạch nước đục, đem xôi lên rồi bỏ vào cối quết.

Sau khi nếp được quết nhuyễn, đem ra cán thành bánh, phơi nắng rồi đem vào nhúng nước đường và phơi lại lần nữa cho khô mới đóng gói. Các phụ gia như đậu, mè, sữa... được đưa lần lượt vào bánh theo từng công đoạn.

Trước đây, người làm bánh quết bột bằng chày tay, nay đã có máy kéo chày thay thế nên người làm bánh đỡ nhọc công và sản phẩm được cải thiện rõ nét cả về chất lượng lẫn số lượng.

Bánh phồng Phú Mỹ nhỏ bằng cái dĩa nhưng nướng chín phồng to hơn cái quạt nan. Bánh vừa xốp, vừa mềm, cắn vào nghe “phao” miệng bởi vị béo của nếp, vị ngọt của đường, mùi thơm của sữa, mè, đậu nành, đậu phộng... tạo nên hương vị đặc trưng và không thể thiếu trong bữa ăn ngày Tết hay các dịp đám tiệc, cưới hỏi.

Thời gian qua, bánh phồng Phú Mỹ được người tiêu dùng ưa chuộng nên làng nghề phát triển mạnh và sản xuất quanh năm, nhộn nhịp nhất là tháng giáp Tết.

Những kỳ hội chợ hay triển lãm tại An Giang, Cần Thơ hoặc TP Hồ Chí Minh, bánh phồng Phú Mỹ đều có mặt trong gian hàng trưng bày sản phẩm đặc sản của An Giang. Làng bánh phồng Phú Mỹ đã được UBND tỉnh An Giang công nhận làng nghề truyền thống vào cuối năm 2006. Nếu có dịp đến An Giang, bánh phồng Phú Mỹ là một món quà rất có ý nghĩa để bạn mang về làm quà cho người thân.

Gà hấp lá trúc

Đây là món ngon trên núi Cấm (Châu Đốc, An Giang). Trúc là loại cây có múi, mọc ở núi Cấm, hương vị độc đáo. Gà để hấp phải là gà thả vườn có trọng lượng 0,8-1kg, để nguyên con ướp sơ với muối, gia vị… rồi mang đi hấp cách thuỷ khoảng 20 phút.

Thịt gà vừa chín tới dùng dao bén chặt thành miếng to cỡ 2 ngón tay, lá trúc xắt nhuyễn rải lên. Món ăn này mang đến cho thực khách cảm nhận được vị ngọt mềm của thịt, vị béo dai của da gà tơ hoà quyện với hương vị nồng the của lá trúc, ngọt chát của bắp chuối, cay cay của muối ớt…

Du lịch, GO! - Theo Hiền Anh (Vietnamnet), internet
Những bãi biển trải dài tít tắp, những con suối mát lạnh hiền hòa, những dòng thác tung bọt trắng xóa đang sẵn sàng đem đến cho du khách những hương vị tươi mát khi đến Huế vào những ngày nắng nóng.

Bãi biển Lăng Cô

Nằm cách TP Huế 70km về phía Nam và TP Đà Nẵng 20km về phía Bắc, Lăng Cô từ lâu đã rất nổi tiếng là một trong những bãi biển đẹp nhất Việt Nam, với bãi cát trắng dài hơn 10km, cùng làn nước biển trong xanh. Vào khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 7, không khí nơi đây rất dễ chịu và dịu mát.

Du khách đến với Lăng Cô sẽ thích thú với các trò vui như câu cá, lặn biển. Thưởng thức các món ăn địa phương như bánh canh chả cua, bát bún riêu càng cua hay món sò huyết Lăng Cô.

Bãi biển Thuận An

Nơi sông Hương đổ ra phá Tam Giang rồi chảy ra biển Đông, cách Kinh thành Huế về hướng Đông khoảng 13 km, vua Thiệu Trị xếp là cảnh đẹp thứ 10 trong Thần kinh nhị thập cảnh. Cách trung tâm thành phố khoảng 30 phút đi xe máy, bãi biển Thuận An dài 12 km với những con sóng vỗ hiền hòa mát lạnh. Du khách thường đến đây vào khoảng tháng 4 đến tháng 9 lúc tiết trời nóng bức nhất.

Du khách có thể thuê lều trại, ở hoang dã ngay trên bãi biển và thỏa sức thả mình trong làn nước mát lạnh. Đêm đến, du khách có thể đi dạo dọc bờ biển, hoặc thưởng thức hương vị những món hải sản tươi nguyên nướng trên bếp than thơm lừng.

Bãi biển Cảnh Dương

Từ Huế theo Quốc lộ 1A xuôi về Nam khoảng 70 km là đến địa bàn xã Lộc Tiến (Phú Lộc). Từ đây rẽ trái vào gần 8 km nữa là đến biển Cảnh Dương, nằm cạnh cảng Chân Mây, thuộc xã Lộc Vĩnh. Trải dài hơn 8 nghìn mét, rộng khoảng 200 mét, bãi cát trắng mịn trải dài, những hàng phi lao rợp bóng, nước biển trong xanh như ngọc…

Tất cả tạo nên một khung cảnh thiên nhiên thơ mộng đến say lòng bao du khách. Đến với biển Cảnh Dương là đến với vẻ đẹp nguyên sơ, tận hưởng không khí trong lành mát dịu, xua đi những oi bức, mệt mỏi, những hối hả của cuộc sống thường nhật.

Ngoài ra, du khách sẽ còn bị lôi cuốn bởi những món hải sản tươi sống đa dạng với giá cả rất bình dân như ghẹ hấp, mực nướng, tôm, cá hanh, cá dìa…

Bãi biển Vinh Thanh

Cách thành phố Huế 30 km về phía Đông Nam, bãi biển Vinh Thanh chan hòa ánh nắng với trời xanh mây trắng, sóng vỗ rì rào, bọt tung trắng xóa, dải cát trắng trải dài, nước biển xanh ngắt một màu.

Giao thông thuận tiện cộng với bãi biển sạch, hải sản tươi và rẻ, Vinh Thanh đang là sự lựa chọn của không ít du khách đến đây vào mùa Hè.

Bãi biển Hàm Rồng

Nằm bên kia phá Tam Giang – Cầu Hai thuộc xã Vinh Hiền (Phú Lộc), bãi biển Hàm Rồng là một địa chỉ mà du khách đã một lần đến đều mong có dịp trở lại. Tuy chưa có “thương hiệu” như các bãi biển Lăng Cô, Cảnh Dương, Thuận An, bãi biển Hàm Rồng lại có một vị trí khá đẹp, cảnh quan nên thơ bởi có núi Linh Thái cao gần 800 mét án ngữ phía sau với những mảng rừng xanh thẳm, uốn lượn theo nhiều vòng cung ôm lấy bãi biển dài gần 6 km.

Ở đây có 3 bãi tắm là bãi Hàm Rồng, Đông Dương và bãi Đầm. Nước biển ở Hàm Rồng lúc nào cũng trong xanh, lại được điểm xuyết những quần thể đá lớn nhỏ sắp xếp chồng lên nhau tạo nên một khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, du khách có thể thỏa sức ngâm tắm, vui đùa cùng những con sóng bạc đầu để xua đi bao mệt nhọc, nóng bức.

Suối Voi

Từ thành phố Huế chạy về phía Nam 60 km, hay Đà Nẵng chạy ra 40 km, rồi chạy thêm 3 km lên phía Tây, ngang địa phận Thừa Lưu, xã Lộc Tiến, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên Huế, men theo con đường nhỏ được phủ lớp bê tông, du khách sẽ đến suối Voi, một con suối với nhiều ngọn thác lớn tuôn ra dưới một cánh rừng nguyên sinh khá dày thảm thực vật.

Suối được đặt tên là Suối Voi vì tại đây có một tảng đá hình y hệt một con voi đang thả vòi uống nước dưới chân thác. Nơi đây còn có một hồ nước được đặt tên là Đầm Voi, đây là một hồ tắm thiên nhiên rộng khoảng 30 m2, sâu trên 2 m, nằm giữa hai ngọn thác. Hồ nước mát lạnh trong xanh có thể nhìn thấy tận đáy. Từ nơi đây đi ngược lên khoảng trên 1km là suối Đá Bàng. Tại đỉnh đầu của thác Đá Bàng, du khách có thể thỏa thích khám phá thiên nhiên, rồi sau đó đi bắt cá nia, hái lá giang để nấu món canh chua, hay luộc rau tàu bay chấm với nước cá bóng thệ.

Suối hồ Truồi

Từ thành phố Huế đi về cầu Truồi xã Lộc Hòa, huyện Phú Lộc, rẽ phải thêm 10km sẽ gặp đỉnh Bạch Mã quanh năm chìm trong mây trắng. Mênh mang dưới chân Bạch Mã là hồ Truồi xanh biếc chạy dài hết tầm mắt.

Có bốn con suối đổ vào hồ Truồi là suối Hợp Hai, Vũng Thông, Ông Viên và Ba Trại, mỗi suối đều có những vẻ đẹp đặc trưng khác nhau.Vào mùa nắng nóng, mỗi ngày có hàng trăm khách tham quan và dã ngoại ở đây. Vào suối, du khác có thể ngâm mình dưới làn nước suối mát lạnh, tham gia những thú vui như câu cá, thả lưới hết sức hấp dẫn. Thưởng thức các món cá nướng, hay cháo cá tươi ngon từ thành quả lao động của mình.

Thác Nhị Hồ

Thác Nhị Hồ thuộc thôn Hoà Mậu, xã Lộc Trì (Phú Lộc), cách trung tâm thành phố Huế khoảng 45km về phía Nam, cách Quốc lộ 1A gần 4km. Thác như một tuyệt tác của thiên nhiên với dòng thác đổ xuống từ vách núi tạo thành hai hồ nước xanh mát cạnh nhau.Từ khá lâu, Nhị Hồ đã thu hút được nhiều du khách tới tham quan, đặc biệt là với giới trẻ.

Du khách đến đây để tránh cái nóng của mùa Hè, hòa mình vào thiên nhiên, thưởng thức những đặc sản phong phú của địa phương. Đặc biệt, vị trí của Thác Nhị Hồ rất thuận tiện cho du khách có thể kết hợp tham quan những địa điểm khác như Đập Truồi - Suối Voi - Lăng Cô.

Du lịch, GO! - Theo N.V.T (Doanh nhân Sài Gòn)
Đá Dăm là một ngọn thác nhỏ ở Dương Hòa, thị xã Hương Thủy. Bạn có thể tổ chức cùng gia đình, bạn bè đến đây vui chơi, tắm mát vào những ngày nghỉ. 

Từ trung tâm TP Huế, có hai đường đến thác: một là men theo đường qua công trình hồ Tả Trạch; hai là đi theo hướng cầu Tuần, qua bến đò Tân Ba.

Xuất phát theo hướng cầu Tuần, chúng ta sẽ dễ dàng mua được thức ăn tươi hoặc một số nông sản địa phương ở chợ quê. Gặp mùa thanh trà, đừng quên ghé vào một số vườn cây bên đường, vừa thưởng ngoạn phong cảnh, vừa mua đặc sản này mang theo giải khát.

Đường đến thác khá hoang sơ nên rất thích hợp với những người thích phiêu lưu bằng xe máy, đặc biệt là các bạn trẻ. Muốn chinh phục độ cao, đón dòng nước đầu nguồn, hãy chuẩn bị thật kỹ để không bị trượt chân khi men theo những vách đá dựng đứng; bạn cũng có thể thỏa sức vui đùa ở hồ nước mát lạnh bên dưới thác. Ai lãng mạn thì đi hái hoa rừng, tìm sim chín...

Trên đường vào thác có một căn nhà nhỏ của Kiểm lâm Hương Thủy. Các anh nhân viên sẽ là những “thổ địa” cung cấp nhiều thông tin bổ ích về con người, sinh vật khu vực này. Nếu gặp khó khăn trong việc đi lại, tìm kiếm nước uống… đừng ngần ngại mở lời xin giúp đỡ.

Một người dân địa phương cho biết: “Thác Đá Dăm là điểm đến thú vị của nhiều học sinh, sinh viên Huế vào mùa hè. Phong cảnh còn nét nguyên sơ nên các bạn trẻ sẽ có những bức ảnh cực đẹp. Nếu trong đoàn có trẻ nhỏ, phải cẩn thận do hồ nước khá sâu và vách đá khá cheo leo”.

Du lịch, GO! - Theo Báo Thừa Thiên - Huế
Bánh cộ (bánh in) được sư cô ở các chùa Huế làm quanh năm, chủ yếu cung cấp cho thị trường nội địa để cúng trong các nghi lễ của Phật giáo như Rằm tháng 4, Rằm tháng 7, các ngày vía Quan Âm (19.2, 19.6,19.9).

< Quý sư cô đang làm bánh in hình tháp.

Chúng tôi gọi các cô làm bánh cộ ở chùa Hồng Ân (thôn Thượng I, xã Thủy Xuân, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên-Huế) là những người “xây tháp". Bởi họ không chỉ đơn thuần tạo ra chiếc bánh cộ rực rỡ sắc màu, mà còn thể hiện tài trang trí, liên kết các bánh thành từng tầng, tháp có hình tròn hoặc hình lục giác, bát giác, trông rất đẹp mắt.

Bên cạnh việc kinh kệ sớm khuya hay công tác Phật sự, học hành.., quý cô, quý sư còn tổ chức làm các nghề như bánh cộ, làm nước tương, làm hương, trầm.., để có thêm thu nhập đảm bảo cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của nhà chùa. Có thể nói, nghề bánh cộ ở Huế ra đời, tồn tại hàng chục thập kỷ qua và đang ngày càng phát triển theo chiều hướng tích cực, đáp ứng phần nào nhu cầu lễ nghi cúng tế của người dân xứ Huế và các vùng lân cận.

< Quý sư chùa Liên Trì-Huế đang thực hiện công đoạn gói bánh và “xây tháp”.

Trong các ngày lễ, ngày rằm, mồng một hàng tháng, và nhất là dịp Tết Nguyên đán, trên bàn thờ tổ tiên, ngoài hoa quả còn có bánh cộ rực rỡ sắc màu được thờ cúng trang nghiêm và ấm cúng. Đó là thành quả lao động miệt mài và bàn tay khéo léo của quý cô, quý sư ở các chùa Huế.

Bánh cộ có nhiều loại như bánh đậu xanh, bánh nếp, bánh bột bình tinh. Hình dạng của bánh cũng rất phong phú như hình tròn, hình vuông, hình chữ nhật, lục giác, bát giác…Kích cỡ bánh to nhỏ, dày mỏng cũng khác nhau để khách hàng tùy sở thích mà chọn lựa. Nguyên vật liệu để làm bánh, quý cô mua ở các chợ, siêu thị hoặc đặt hàng cho các Phật tử đem đến tận chùa.

Loại bánh cộ thông dụng nhất mà quý cô hay làm là bánh đậu xanh. Cô Thích Nữ Tịnh Thảo (chùa Hồng Ân-Huế) cho biết: "Bánh đậu xanh muốn để được lâu khi cúng (khoảng 6 tháng đối với bánh đã được xây tháp) thì khâu quan trọng nhất là phải sấy bột cho thật kỹ, thật khô, đều. Nếu không bánh sẽ bị nhanh mốc.
Bánh bột nếp thì các công đoạn làm đơn giản hơn, nhưng khâu quan trọng vẫn là sấy bánh cho thật khô, đều và tỷ lệ pha trộn giữa đường và bột thế nào là thích hợp. Điều này đòi hỏi kinh nghiệm của người làm, chứ rất khó diễn giải chính xác".

Bánh bột nếp có 2 loại: bánh không nhân (nhụy) và bánh có nhân. Nhân bánh làm bằng chuối sấy khô, mè, đậu phụng, gừng, đường. Bánh bột nếp có thể để ở bàn thờ một năm ở dạng bọc kính giấy nilon (đã xây tháp). Cô Huệ Từ ( chùa Liên Trì-Huế) chia sẻ: "Bánh bình tinh thì khi nào có khách đặt hàng mới làm, bởi bột bình tinh có giá cao hơn các loại bột khác và nhu cầu của thị trường cũng ít hơn.


< Phật tử ở chùa cũng góp sức làm đẹp thêm cho mâm cỗ ngày Tết.

Bánh cộ ở các chùa Huế được bán với giá rất “mềm”: khoảng 42.000đ/cặp đối với tháp bánh cao 6 tầng.
Còn bánh “xây tháp” cao 20 tầng thì giá từ 450.000-480.000đ/cặp. Bánh đã được xây thành từng tầng, tháp thì giá thành cao hơn bánh thường vì tốn nhiều công gói, giấy nilon, keo dán…". Điều đáng nói, thị trường tiêu thụ của bánh cộ do các nhà chùa làm rất rộng lớn. Bánh không những tiêu thụ mạnh trong tỉnh Thừa Thiên Huế mà còn vươn ra một số thị trường lân cận như: Quảng Trị, Quảng Bình, Đà Nẵng, TP.HCM, Hà Nội.

Bánh cộ được các sư cô ở các chùa Huế làm quanh năm, chủ yếu cung cấp cho thị trường nội địa, để cúng trong các nghi lễ của Phật giáo như Rằm tháng 4, Rằm tháng 7, các ngày vía Quan Âm (19.2, 19.6,19.9). Đặc biệt, thị trường tiêu thụ mạnh nhất, bán với số lượng lớn nhất vẫn là dịp Tết Nguyên đán. Vì thế, ngay từ tháng 10 Âm lịch, các cô phải cho máy chạy hết công suất mới đáp ứng được yêu cầu của khách hàng đặt mua.

Sư cô Thích Nữ Huệ Phước ( chùa Liên Trì-Huế) cho biết thêm: "Bánh cộ do nhà chùa sản xuất còn có mặt ở một số nước bạn như Campuchia, Lào, Myanma…Khi có đại lễ cầu siêu, chẩn tế cô hồn, Phật tử ở nước ngoài thường gọi điện về các chùa Huế đặt “xây tháp” với số lượng lớn, có tháp bánh cao từ 1-1,5m, đường kính đáy rộng từ 0,6-1m và đóng thùng vận chuyển sang rất công phu.

Huế là một trong những trung tâm Phật giáo lớn của cả nước, toàn tỉnh Thừa Thiên Huế có hàng trăm ngôi chùa lớn nhỏ, số đạo hữu và giới Phật tử cũng rất đông. Chỉ ngần ấy thôi cũng hình dung được “sức sống”, mức tiêu thụ bánh cộ ở đây lớn đến mức nào. Hiện nay, ở các chùa Huế làm bánh cộ nhiều nhất phải kể đến chùa Hồng Ân, Diệu Nghiêm, Liên Trì, Hoàng Liên, Tịnh Đức…

Những ngày giáp Tết Quý Tỵ 2013, du khách có dịp ghé thăm các chùa sư nữ ở TP. Huế đều cảm nhận được cái không khí rộn ràng của tiếng máy quay, giã bánh, sự tất bật làm việc của quý cô, quý sư nơi đây. Không chỉ đơn thuần là chiếc bánh, những tầng tháp ấy còn mang “thông điệp”của quý sư, quý cô về một năm mới 2013 hòa bình, an lạc cho tất cả mọi người.

Điều dễ nhận thấy trong vài thập kỷ qua, bánh cộ do các chùa Huế sản xuất mặc dù không đăng ký thương hiệu, không dán nhãn mác, không quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhưng trên thực tế, nó đã, đang chiếm lĩnh thị trường gần xa, làm hài lòng biết bao du khách trong nước, quốc tế khi họ có dịp đến tham quan, viếng cảnh ở các chùa Huế.

Không ai lí giải được điều đó nhưng người ta thầm công nhận với nhau: Bánh do chính tay các cô, các sư làm ra thì chắc chắn sẽ sạch sẽ hơn, tinh khiết, chất lượng và thơm ngon hơn, giá thành lại hợp lí, phù hợp với túi tiền của nhiều tầng lớp trong xã hội.

Cuộc sống vẫn cứ tiếp tục trôi qua, quý cô, quý sư vẫn ngày đêm âm thầm, cần mẫn “xây tháp” để dệt thêm hương vị cho đạo, cho đời, góp phần tô điểm cho mâm lễ vật trong mỗi gia đình càng thêm phong phú, cho bàn thờ gia tiên càng thêm ấm cúng và trang nghiêm trong những ngày Tết.
Với ý nghĩa giàu tính tâm linh đó, hình ảnh những chiếc bánh cộ rực rỡ sắc màu sẽ mãi mãi là hình ảnh quen thuộc trong tâm khảm mỗi người dân xứ Huế, của Phật tử ở phương xa, nhất là đối với những người mặc áo lam trong các chùa Huế hôm nay và ngày mai.

Du lịch, GO! - Theo Võ Văn Dần (Báo Dân Việt), internet
Từ thị trấn Nhà Bàng rẽ về thị trấn Tịnh Biên, đi chừng 150 m, rẽ phải theo con đường dốc đá cạnh một tiệm bán thuốc núi là con đường độc nhất đi thẳng lên núi Trà Sư, thuộc khóm Trà Sư, thị trấn Nhà Bàng (Tịnh Biên, An Giang).

Núi Trà Sư không cao (chỉ khoảng 200m), có diện tích nhỏ... nhưng nơi đây có nhiều địa điểm tâm linh - du khách không chỉ đến để ngắm cảnh thiên nhiên kỳ thú mà còn hành hương về vùng đất thiêng tìm kiếm sự bình yên cho tâm hồn.

Đi chừng 50m theo con đường dốc thoai thoải, chúng ta gặp ngay ngôi chùa Bồng Lai với phong cảnh u tịch. Thêm 200m nữa là đến miễu thờ hòn đá lăn. Theo ông Lê Văn Xom, ông từ lo nhang khói ở miễu thờ hòn đá lăn và miễu thờ Cửu Thiên Huyền Nữ, cho biết, vào ngày 25/7/1991, hai hòn đá lăn từ đỉnh núi xuống, nặng khoảng 1 tấn và 300 kg.

Nhưng có điều lạ là hai tảng đá không lăn thẳng xuống triền dốc mà lăn vòng ngay vào miễu thờ của bà Cửu Thiên Huyền Nữ. Bà con cho là rất lạ, tảng đá nặng cả tấn chỉ làm văng tượng thờ bà ra ngoài và miễu thờ chỉ bể vách tường phía sau, còn ba mặt đều còn y nguyên.

< Sân Tiên núi Trà Sư.

Từ đó, 2 tảng đá được thờ tại chỗ, gọi là Chư vị Sơn thần. Riêng bà chúa được xây miễu thờ cạnh miễu Sơn thần. Địa điểm này rộng thoáng mát, du khách thường ghé lại tham quan và cúng bái, có nhiều đoàn tìm đến nghỉ ngơi, tổ chức ăn uống rồi mới tiếp tục đi tham quan các danh thắng khác.

Bước lần theo bậc thang lên khoảng 100 m, chúng ta gặp ngay hang Ông Hổ. Nơi đây có hai động đá, một bên là điện Ngũ Hổ và một bên là điện Cửu Phẩm được thờ sâu trong động đá.

Sau khi tham quan, chúng ta theo hướng điện Cửu Phẩm đi lên khoảng 25 m. Nơi đây thờ Miễu Bà Chúa và tảng đá thần.

< Điện Huỳnh Long thờ các vị thần.

Tiếp tục đi lên phía đỉnh núi, gió lồng lộng, người thư thái dễ chịu được gọi là sân Tiên. Khu vực sân Tiên diện tích khoảng 80 m2, chia làm 4 điểm thờ: Sân Tiên, Cửu quyền, Chánh soái và Trăm quan. Sau khi ngồi thư giãn với gió núi lồng lộng, hướng tầm mắt nhìn xuống Nhà Bàng nhà cửa san sát, con người cảm thấy nhẹ nhàng, quên bao mệt nhọc.

Tiếp tục lần bước xuống núi vòng về phía tay trái, đi xuống khoảng chừng 50 m, chúng ta bắt gặp điện Huỳnh Long. Ra sau điện Huỳnh Long, bạn có thể tìm hiểu truyền thuyết dấu chân tiên ở tảng đá dựng đứng cao khoảng 12 m.

Leo núi ở Trà Sư, vừa được chiêm ngưỡng vẻ đẹp huyền bí vùng Thất Sơn, du khách sẽ thoả mãn tính tò mò cũng như lòng thành kính muốn tìm hiểu những điều kỳ bí về hang động.

Du lịch, GO! - Theo Phước Hưng (Cà Mau Online), internet
Trang trí ánh sáng nghệ thuật trên đường Lê Duẩn, đua thuyền truyền thống trên kênh Tàu Hủ - Bến Nghé, chạy việt dã trên đường Hoàng Sa - Trường Sa... là hàng loạt hoạt động chào mừng ngày 30/4 tại TP HCM.

Từ ngày 25/4 đến 10/5, đại lộ Lê Duẩn trước dinh Độc Lập (quận 1) sẽ được trang trí ánh sáng nghệ thuật để chào mừng 38 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam và 127 năm ngày Quốc tế lao động.
Triển lãm ảnh kỷ niệm ngày thống nhất đất nước được khai mạc lúc 8h ngày 26/4 tại Công viên Lam Sơn, Công viên Chi Lăng và đường Đồng Khởi (từ ngã tư đường Lê Thánh Tôn đến ngã tư đường Nguyễn Du).

Cùng với đó, giải đua thuyền truyền thống sẽ được tổ chức ngày 27/4 trên kênh Tàu Hũ - Bến Nghé và giải việt dã truyền thống 30/4 lần thứ 37 vô địch thành phố sẽ diễn ra sáng 28/4 tại tuyến đường Hoàng Sa - Trường Sa.

Ngoài ra, trong đêm 30/4 và 1/5, các công viên 23/9 (quận 1), sân khấu Sen Hồng, Công viên Gia Định 2 (huyện Củ Chi), Khu Tưởng niệm liệt sĩ Ngã Ba Giồng (huyện Hóc Môn), Trung tâm Văn hóa quận 12, Khu Di tích Lịch sử Láng Le - Bàu Cò (huyện Bình Chánh), Công viên Lịch sử - Văn hóa Dân tộc (quận 9) và thị trấn Cần Thạnh (huyện Cần Giờ) đều có chương trình biểu diễn nghệ thuật.

Nhân dịp này, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tổ chức lễ động thổ công trình xây dựng Trung tâm Nghệ thuật Cải lương Hưng Đạo vào ngày 28/4. Cùng ngày, Sở Giao thông Vận tải tổ chức thông xe cầu vượt Lăng Cha Cả và khởi công 3 cầu khác là cầu vượt nút giao Nguyễn Tri Phương (quận 10); cầu vượt vòng xoay Cây Gõ (quận 6) và cầu vượt nút giao Cộng Hòa/Hoàng Hoa Thám (quận Tân Bình).

Kỷ niệm 38 năm Giải phóng miền Nam, TP HCM sẽ bắn pháo hoa tại 2 điểm trong 15 phút. Pháo hoa tầm thấp được bắn với thời lượng 15 phút (21h – 21h15 ngày 30/4) tại khu vực đầu Đường hầm sông Sài Gòn (phường Thủ Thiêm, quận 2) và Công viên Văn hóa Đầm Sen (quận 11).

Trước đó, UBND TP HCM cũng có thông báo dịp lễ 30/4 và 1/5 năm nay, cán bộ, công viên chức được nghỉ liên tục 5 ngày (27/4-1/5) và đi làm bù ngày 4/5. Dự báo, dịp này nhu cầu đi lại, vui chơi nghỉ lễ của người dân sẽ tăng cao. Các bến xe, bến phà và ga Sài Gòn cũng đã có kế hoạch tăng thêm xe, thêm chuyến để phục vụ hành khách.

Du lịch, GO! - Theo VnExpress, Petrotimes

Monday, 22 April 2013

Làng Đọi Tam, xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, không chỉ nổi tiếng với nghề làm trống truyền thống. Nhiều năm nay, Đọi Tam còn nổi tiếng về đội trống nữ có một không hai của cả vùng.

Làng trống Đọi Tam

Với ý tưởng ban đầu là phục vụ cho các lễ hội truyền thống của làng, đồng thời quảng bá hình ảnh và văn hóa truyền thống của quê mình, gần mười năm qua những nỗ lực, cố gắng của các thành viên đội trống nữ làng Đọi Tam đã được nhiều người mến mộ với những màn biểu diễn trống làm say đắm lòng người, tạo nên nét đặc sắc riêng của vùng đồng bằng chiêm trũng Hà Nam.

Khi cây lúa trên đồng bắt đầu bén rễ chồi xanh, công việc đồng áng được nông nhàn, cũng là lúc những thành viên của đội trống nữ làng Đọi Tam lại thu xếp việc gia đình, đồng áng để cùng đoàn mang tiếng trống làng mình đi phục vụ lễ hội khắp bốn phương.

Gặp chị Lê Thị Thúy Thường, một trong những người tham gia đội trống ngay từ những ngày đầu thành lập, khi chị vừa cùng đoàn đi biểu diễn tại TP Hải Phòng về. Không còn cảm giác mệt nhọc của một chuyến đi đường dài, chị Thường say xưa nói về những hoạt động của đội trống làng mình.

Chị bảo: Là người con của làng trống, từ tấm bé tôi đã biết làm trống cùng bố mẹ, những công đoạn khó nhất của việc làm trống là “bưng trống” tôi cũng luôn làm thành thạo với tất cả các loại trống to, nhỏ.  Tuy mỗi loại có cái khó riêng nhưng mình làm nhiều và giành hết tâm huyết thì sẽ thành công.

Có lẽ vì thế, chẳng biết từ bao giờ, những âm thanh của trống như đã ngấm vào máu của chị rồi. Bây giờ, dù có nhắm mắt lại, chị cũng vẫn đánh được đúng các làn điệu. Nhớ những ngày đầu sung vào đội, nghe tiếng trống như đinh tai, nhức óc, ai nấy đều tim đập thình thình. Giờ cảm giác đó với các chị em đều không còn nữa. Thay vào đó là sự cảm nhận được những âm thanh khi du dương huyền bí, khi khí thế tưng bừng, khi dồn dập tiến công…

Nhờ các cán bộ phòng Văn hóa huyện Duy Tiên dày công sưu tầm các bài trống cổ rồi dàn dựng lại và tham gia huấn luyện, các thành viên trong đội trống, đội trống nữ của làng Đọi Tam đã đánh thuần thục được sáu bài trống, có thể biến tấu đa dạng để phục vụ cho nhiều lễ hội, sự kiện khác nhau như: khai hội, bài đệm, kết hội... Tiếng lành đồn xa, mỗi năm, đội trống nữ làng Đọi Tam được mời đi biểu diễn tại hàng chục địa điểm ở nhiều địa phương khác nhau như: Hà Nội, Thanh Hóa, Ninh Bình, Hải Phòng....

Mỗi đợt đi biểu diễn như vậy, dù công xá chẳng được là bao, nhưng những thành viên trong đội đều rất nhiệt tình phấn khởi, tự hào bởi đó là dịp để những âm điệu của tiếng trống Đọi Tam đến được với nhiều vùng quê trong mọi miền đất nước, góp phần bảo tồn, quảng bá văn hóa làng nghề truyền thống của quê hương.

Với nghề truyền thống đã có từ 200 năm, làng Đọi Tam hiện có 656 hộ với hơn 2.400 nhân khẩu, có tới 80% số hộ theo nghề làm trống. Với đặc thù làng nghề truyền thống, nên không riêng gì nam giới, các chị em của làng Đọi Tam không chỉ thành thạo với việc làm trống mà họ còn có một tình yêu và cảm nhận được những âm điệu từ trống. Từ đó đã hun đúc ý tưởng thành lập đội trống nữ của làng đối với người trưởng thôn Đinh Văn Lương.

Ông Lương tâm sự: Là một làng nghề truyền thống hàng trăm năm, việc chọn hình thức nào để phát triển và quảng bá cho nghề truyền thống làng mình luôn được người dân chúng tôi trăn trở. Xuất phát từ thực tế những nam giới trong làng hiện là lực lượng chính trong các khâu sản xuất trống và nhiều người lại thường xuyên đi làm xa. Do vậy để huy động các anh em tham gia đội trống rất khó. Khi chúng tôi đưa ra ý tưởng thành lập đội trống nữ, đã nhận được sự đồng thuận của nhân dân và sự chung sức đóng góp của con em người dân làng Đọi Tam đi làm ăn xa.

Năm 2004, đội trống nữ làng Đọi Tam được thành lập. Họ được trang bị dàn trống hoành tráng, bao gồm một trống sấm có đường kính 1,5 m, hai trống đại có đường kính 1,2 m và 45 chiếc trống các loại từ trống giả đồng đến trống cầm tay với tổng trị giá hơn 100 triệu đồng. Hiện đội có 48 thành viên nữ đều ở độ tuổi từ 30 đến 50, là độ tuổi lao động hiệu quả nhất. Việc họ bỏ ra thời gian, công sức để tham gia đội là một điều đáng coi trọng.

Đó là lý do lực lượng chủ lực của đội trống đều là nữ giới và chỉ là những người con dâu của làng Đọi Tam mới được tuyển dụng vào đội trống nữ. Đó là nét đặc sắc riêng của đội trống nữ vùng đồng chiêm trũng Hà Nam.

Du lịch, GO! - Theo Đào Phương (báo Nhân Dân), internet
Từ Thiên ấn, Long Đầu xuôi về hướng đông chừng 15 km, ta sẽ bắt gặp những cảnh đẹp từ Sa Kỳ đến Cổ Lũy, thuộc vùng Mỹ khê. Bờ biển Mỹ Khê dài trên 10km, có 3 cảnh đẹp là : Cổ Lũy cô thôn Thạch Cơ điếu tẩu, An Hải sa bàn.

Bờ biển Sa kỳ - Cổ Lũy có hình cong lưỡi liềm, nước biển ngát xanh, bãi cát vàng, sạch sẽ, có rừng phi lao rì rào quanh năm, không khí trong lành, là nơi nghỉ mát và tắm biển rất tốt. Người dân Quảng Ngãi vùng xa thường đến đây nghỉ mát trong những ngày hè.

Thôn Cổ Lũy nằm cách trung tâm thành phố Quảng Ngãi khoảng 10km về hướng đông, thuộc Nghĩa Phú, Tư Nghĩa, Quảng Ngãi. Đây là một mảnh đất rợp mát bóng dừa, vây bọc bởi sông nước và biển cả.

Mặt sau thôn là sông Kinh với rừng dừa nước xanh tốt. Vào những chiều sương khói mờ ảo, hoàng hôn vây phủ, từ trong đất liền nhìn ra: Cổ Lũy như bị tách biệt, gợi cảm giác cô liêu, nên được gọi là "cô thôn".

Giặc giã đời mô đã dẹp rồi
Lũy xưa còn đắp xóm mồ côi.
Đá xây quanh quất theo bờ biển,
Người ở cheo leo dưới cửa lồi.
Trông thấy thuyền tình ba bốn phía,
Vẳng nghe trống giục một đôi hồi.
 Hỏi thăm tạo hóa bao giờ đó
Thạch trận về đây mới đắp bồi.

Ngồi đọc lại "Vịnh Cổ Lũy cô thôn” của Nguyễn Cư Trinh mà nhớ cái vùng đất đã từng ghi dấu một thời, từng là 1 trong 12 anh thắng của đất Quảng Ngãi. Đến Cổ Lũy hôm nay, ta không còn cảm nhận được những hình ảnh dân dã và quen thuộc của một làng quê việt như trong bài vịnh của Nguyễn Cư Trinh nữa, nhưng vẫn đọng lại trong lòng người thưởng ngoạn chút gì đó thiêng liêng của vùng đất đã đi vào lòng người.

Cổ Lũy Cô Thôn nổi tiếng gắn liền với địa danh núi và sông Phú Thọ. Hai địa danh này là thắng cảnh đã nổi tiếng từ xa xưa với quần thể đá Granit nhiều hình dáng, ngọn núi thấp cùng bóng dừa bao quanh đổ bóng xuống dòng sông phẳng lặng như một bức tranh sơn thủy hữu tình. Và điều làm hấp dẫn người thưởng ngoạn chính là quang cảnh bao la, mênh mông của đồng lúa, dòng sông uốn lượn cùng dải biển dài xa tít khi đứng nhìn từ những tảng đá khổng lồ trên đỉnh núi.

Không những thế, đây còn là nơi tọa lạc của rất nhiều thành cổ của người chăm cùng với nhiều truyền thuyết có giá trị lịch sử cao được ghi lại. Tuy nhiên, đến với Cổ Lũy hôm nay ta không còn tìm lại cảnh tường thành đồ sộ của nơi được mệnh danh là án ngữ cửa biển của người chăm, quang cảnh chỉ còn sót lại một vài di tích nhỏ đổ nát, tuy nhiên chừng đó thôi cũng đủ giúp ta cảm nhận về một vùng đất có bề dày lịch sử.

Điều điều khiến vùng đất này để lại nhiều ấn tượng cho cho du khách có lẽ chính là cảnh đẹp bình dị và đậm chất làng quê Việt. Giờ đây, Cô Thôn đã thay đổi nhiều, người xe tấp nập, điện đường trường trạm đã được nâng cấp, tất cả đã đổi thay. Nhưng trong mắt tôi nó vẫn chứa đựng một vẻ đẹp kỳ diệu như cái tên nó mang theo suốt bề dày lịch sử.

Từ Cổ Lũy đi theo hướng đông bắc tới cửa Sa Kỳ có mõm núi cao thuộc xã Tịnh Kỳ. Thôn An Kỳ, An Vĩnh của xã Tịnh Kỳ, huyện Sơn Tịnh hợp với thôn An Hải thuộc xã Bình Châu, huyện Bình Sơn thành vùng Ba Làng An. Tại mõm An Vĩnh với nhiều phiến đà hình thoi xếp thẳng hàng như có bàn tay vô hình nào sắp đặt, dựng thành vách đá cao. Tại đây có một hang đá lộ thiên, sóng biển dội vào, nước trong hang sủi bọt như đang sôi, nên được gọi là Hầm Rượu. Lại có những vết lõm xuống mặt đá, hình dạng như dấu bàn chân, nên gọi là "bàn chân ông khổng lồ".

Đứng chơi vơi ngoài mép nước là một tảng đá nhô cao, được gọi là "Thạch cơ điếu tẩu " (ông câu trên gành đá). Đất Tịnh Kỳ nằm sát cửa Sa Kỳ, đối diện đảo Lý Sơn, có đường biển nối liền với đảo. Tịnh Kỳ vừa nổi tiếng với nghề mắm (muối Xuân An, mắm Tịnh Kỳ- ca dao) vừa là một làng ven biển thơ mộng. Là một cửa biển được xây dựng thành cảng, một vùng nước rộng soi bóng những đồi thông, mõm núi, làng chài...

Sa Kỳ là một bức tranh hoành tráng và mỹ lệ. ở bờ bắc cửa biển có một bãi cát xoay tròn bốn phía và lõm xuống ở giữa, được gọi là "An Hải Sa bàn" (mâm cát An Hải). Vào thế kỷ thứ XIX, Trương Đăng Quế- một đại thần triều Nguyễn, lúc già về sống ở quê, có một câu nói đầy lòng tự hào: "Nhất Huế, nhì đây Cổ Lũy cô thôn".

Người Pháp đã so sánh Mỹ Khê với những bờ biển chan hòa ánh sáng và đẹp đẽ của họ ở miền nam nước Pháp. Các phi công và ký giả Mỹ cũng thừa nhận vùng bờ biển Sa Kỳ-Cổ Lũy là "một trong những bờ biển đẹp nhất Nam Việt Nam". Vùng biển này còn có khu chứng tích Sơn Mỹ nổi tiếng . Cảnh đẹp Sa Kỳ-Cổ Lũy là một điểm tham quan du lịch lý tưởng nếu được giữ gìn và tôn tạo tốt.

Cỗ Lũy Cô Thôn

Một dãy trường thành trấn ải biên,
Còn viền dương lạnh gác bên triền.
Cô thôn trúc lạnh - sương nhoà khói,
Cổ Luỹ thành trơ - gió thoảng nền.
Buồm cá nâu vênh - bờ bến đậu,
Đàn cò trắng nổi - cụm tùng lên.
"Cô thôn Cổ Luỹ" hư mà thực,
Dù chỉ nghe qua cũng chạnh niềm.
(Phạm Thiên Thư)

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ Yume, web Quảng Ngãi, internet
K’Long K’Lanh là tên một cây cầu, tên một trạm kiểm lâm, tên một thôn ở xã Đạ Chais (Lạc Dương - Lâm Đồng). Đạ Chais có nhiều cách phát âm nên mọi người bảo gọi là K’Long K’Lanh dễ hơn. Nếu bạn lên xe đò vào lúc sáng sớm mà xin bác tài cho xuống K’Long K’Lanh, thì điểm đến sẽ là nơi mơ màng sương khói.

Từng đám trẻ líu ríu kéo nhau đến trường. Cảnh mộc mạc, nhưng thanh bình ở vùng đất mà khí hậu, thổ nhưỡng rất gần với Đà Lạt: Sương mù giăng kín những con đường uốn lượn qua đồi núi, những cánh rừng thông ngút ngàn, khí hậu trong lành, dịu mát...

Mặt trời chiếu những tia nắng đầu tiên của ngày mới chưa đủ nóng để xua tan màn sương dày đặc khiến du khách nước ngoài cũng phải ngỡ ngàng dừng bước.

Ngay bên cạnh Trạm kiểm lâm K’Long K’Lanh là trại cá hồi của Công ty Yang Ly nằm dưới chân rừng đặc dụng của Vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà.

Trại cá này lấy nước từ con suối chảy qua thác Liêng Tưr* - cách trạm kiểm lâm chừng một cây số. Đây là con thác với những vỉa đá rộng, phẳng ngay sát mặt đường tỉnh lộ 723, chỉ vào giữa mùa mưa mới đủ nước tạo nên những ghềnh thác, nhưng lại khó mà tắm táp hoặc chơi đùa như thế.

Chiều chiều, những bước chân rắn rỏi từng tốp, từng tốp như những nốt nhạc trên “khuôn nhạc” tỉnh lộ ĐT 723 từ rẫy, từ rừng hối hả về nhà...

Cung đường K’Long K’Lanh chỉ cách thành phố Đà Lạt có một giờ ngồi xe, đây cũng là cung đường mà chúng ta có thể nghĩ nó bình thường như bao cung đường mình đã đi qua, nhưng, nếu có dịp dừng chân và khám phá sẽ thấy “nó” LONG LANH đến không ngờ!

Du lịch, GO! - Theo Lê Hoa (Lâm Đồng online)

* Thác Liêng Tưr này vào mùa mưa cũng rất hùng vĩ và đẹp - bạn xem thêm tại đây.
Cùng với món mì Quảng đã quá nổi tiếng và được du khách thập phương yêu thích mỗi khi đến với đất Quảng, bê thui Cầu Mống cũng là món ăn không thể không kể đến trên chặng đường ẩm thực.

Sở VHTT&DL Quảng Nam cho biết, món bê thui Cầu Mống vừa được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam công nhận đạt kỷ lục quốc gia về món ngon Việt Nam. Và tại Festival Di sản Quảng Nam vào tháng 6.2013 tới đây, Sở VHTT&DL sẽ tổ chức công bố kỷ lục Việt Nam về bê thui Cầu Mống và món mì Quảng vừa chính thức được Tổ chức Kỷ lục Châu Á công nhận là một trong 12 món ăn Việt Nam đạt giá trị ẩm thực Châu Á.

Được biết, một trong những yếu tố góp phần tạo nên “kỷ lục” cho món bê thui đó chính là sự khác biệt với các món ăn trên toàn quốc về cách thức thui/nướng thịt bê, về nước chấm hay rau sống, bánh tráng nướng ăn kèm...

Với người dân đất Quảng, bê thui thường được gọi với cái tên quen thuộc “bò tái Cầu Mống”, bởi miếng thịt bê khi được mang lên thực khách phải còn màu hồng đỏ tươi rói, hơi tái một chút ăn mới thấm được vị ngon, ngọt.

Còn vùng đất Cầu Mống vốn xưa kia là là một ngôi làng nhỏ nằm trên tuyến quốc lộ 1A thuộc địa bàn xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Quảng Nam Đà Nẵng ngày xưa). Nơi đây bắt đầu bày bán món bê thui từ thập niên 60 của thế kỷ XX. Và nếu thực khách thường xuyên đi lại trên dải đất miền Trung này sẽ dễ dàng nhận thấy “món ngon đặc sản” được bày bán rất nhiều và hàng quán nào cũng phục vụ món bê thui chất lượng, hương vị đậm đà bản sắc xứ Quảng không nơi nào sánh được.

Con bê được chọn để thui tầm khoảng 30-35kg, như vậy thịt mới không nhão. Sau khi được cắt tiết, lấy lòng ra khỏi bê thì dùng dây thép khâu lại, lấy thanh sắt dài xỏ dọc thân và cuối cùng gác bê ngang qua ngọn lửa than đang đỏ để thui bê. Yêu cầu thành phẩm, miếng thịt bê phải đạt đủ hai tầng thịt tái, chín rõ rệt, còn bì (da) thì phải chín đến độ trong suốt, giòn mềm vừa phải.

Điểm nhấn của món ăn có lẽ còn nằm ở cái nước chấm đặc trưng. Mắm phải là loại mắm cá cơm nguyên con, được chế biến từ những làng chài nổi tiếng ven biển. Mắm được pha cùng tỏi ớt xanh băm nhuyễn, thêm chút đường, gừng, dứa bằm và cả vừng trắng rang vàng.

Rau ăn kèm với bê thui cũng rất phong phú, bao gồm loại rau Trà Quế đặc trưng của vùng đất Hội An, xà lách, cải non kết hợp với khế chua, chuối chát xắt lát mỏng, ngò thơm, húng, quế và giá đỗ… tất cả hòa quyện tạo nên một hương vị đậm đà mà da diết.

Đặc biệt, vì là món bê được nướng chỉ đến độ còn hơi tái, nên bao giờ dọn ra, trên đĩa thịt cũng kèm theo vài miếng chanh tươi. Trước khi ăn, bạn phải vắt chanh thật đều lên khắp đĩa thịt, tạo vị chua chua dễ ăn đến lạ.

Trải lên lòng bàn tay bánh tráng cuốn, đặt lên vài lát thịt bê thui, cuốn chung với các loại rau sống, chỉ cần nhìn thôi đã thấy hấp dẫn mời gọi cái bụng rồi. Đến khi chấm nước mắm nêm đã pha, chậm rãi thưởng thức mới cảm nhận hết vị ngon ngọt của món ăn.

Đây, bê thui Cầu Mống!

Du lịch, GO! - Theo Hàn Giang (Báo Dân Việt), internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống