Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Thursday 2 May 2013

Chùa Hương Nghiêm hay còn gọi Hương Nham (chùa Hang, vì chùa nằm trong lòng động) ở dưới chân núi Hương Nghiêm thuộc xóm Phúc Thọ, xã An Khang, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.

Chùa Hương Nghiêm được xây dựng vào thời Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh), niên hiệu Đại Chính thứ 8 (năm 1537) tại thôn Thúc Thủy, xã Thúc Thủy, tổng Thường Túc, nay là thôn Phúc Thọ, xã An Khang.
Ngôi chùa được xây dựng từ sáng kiến của hai vị quan hiến sát là Ngô Thọ Khê và Vũ Trạch Xuyên.
Chùa nằm trong hang đá tự nhiên với 2 mái vòm đá và nhiều nhũ đá rủ xuống đủ mọi hình thù. Đặc biệt có nhũ đá hình cổ thụ, tạo cho hang đá một vẻ đẹp kỳ thú, bí ẩn.

Trước đây, trong hang đá còn có giếng sâu 8 đến 9m, gần giếng có dòng suối ngầm rộng khoảng 3m chảy ra sông Lô. Hang có nhiều lối đi lên đỉnh núi, lối xuống suối ngầm, ngoài cửa hang có một dãy núi hình con rồng, giữa hang có phiến đá to hình chiếc thuyền dài 8,7m rộng 4m.

Trong chùa còn có hai pho tượng Bồ Tát cổ bằng đồng và các vật dụng cổ như: giá đọc văn tế, hương án thời Nguyễn và một chiếc mâm đồng có hoa văn cũng từ thời Nguyễn. Đặc biệt là tấm bia “Hương Nghiêm tự bi” (văn bia chùa Hương Nghiêm) trước cửa chùa. Văn bia chùa Hương Nghiêm được tạc vào ngày 27 tháng 2 niên hiệu Đại Chính thứ 8 đời Thái Tông Mạc Đăng Doanh (năm 1537). “Hương Nghiêm tự bi”là một trong những tư liệu thành văn quý hiếm ở thế kỷ 16 được phát hiện ở Tuyên Quang.

Văn bia chùa Hương Nghiêm có chiều cao 1,25m, chiều rộng 1m gồm 2 phần trán bia và thân bia, trên trán bia có chạm hình lưỡng long chầu nguyệt, xung quanh bia được chạm văn dây đơn giản. Dưới trán bia là 4 chữ đại tự: Hương Nghiêm tự bi.

Văn bia do do 2 vị đồng Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1535), chức Tu thân doãn, Hiến sát sứ Thanh hình, Hiến sát các sứ Tuyên Quang, Triều liệt Đại phu Ngô Hoằng Trinh hiệu là Trinh Túc soạn và vị Thông chương đại phu, Tri phủ Yên Bình, hàng Công khanh là Đỗ Bá Chiêu hiệu là Huỳnh Phủ viết chữ.

Nội dung bài văn bia như sau:
“Dòng Long Vị như dải lụa trắng lượn vòng trước động. Phía sau động là đường cái quan, ngựa xe như nước. Phía tây động, nha môn tòa rộng dãy dài. Trong chùa khói hương nghi ngút, đó là cung Phạm Vương vậy. Trước cung tiền đường, trùng tu mái ngói đỏ tươi, có nơi thắp hương và tam quan. Cứ đến ngày rằm và mùng một, tín đồ thập phương nối gót cầu khấn, tăng ni cúi đầu về phương nam ba lần vái lạy. Những khi đất trời không hoà thuận, cầu nắng thì được trời quang tạnh, khấn mưa thì mưa trải khắp nơi. Chùa rất linh ứng, không thể ngờ được!”

Còn bài minh của người lập bia có nội dung:
Động u nhi cổ, nham sấu nhi hương,
Sáng tự khắc thạch, địa cửu thiên trường.

Dịch nghĩa:
Động sâu mà (có vẻ) cổ kính
Trái núi dáng nhỏ mà lại có hương thơm bay
(Nơi đó) xây dựng chùa và tạc bia đá
(Để cho) muôn thuở (cùng với) trời đất

Dịch thơ:
Động sâu in dấu tích xưa
Núi thanh thanh dáng, hương đưa ngạt ngào
Đất trời bền vững biết bao tháng ngày.
Dựng chùa bia tạc năm nào.

Trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, chùa Hương Nghiêm là nơi cất giấu, lắp ráp và sửa chữa hai chiếc máy bay đầu tiên của quân đội Việt Nam trước khi chuyển lên sân bay Soi Đúng. Từ năm 1951-1976, chùa Hương Nghiêm là kho chứa vũ khí, đạn dược của Trạm vận tải và Trung đoàn 331. Chùa Hương Nghiêm đã được công nhận là di tích cấp tỉnh. Hằng năm, vào ngày mùng 8 tháng giêng âm lịch sẽ diễn ra lễ hội chùa Hương Nghiêm.

Hiện nay, do nhu cầu mở rộng khuôn viên của chùa Hương Nghiêm, Thầy trụ trì đã cho khánh thiết thêm một số hạng mục của chùa. Đặc biệt nhất là pho tượng Phật nằm, được đánh giá là lớn nhất miền Bắc. Hương Nghiêm tự bi là một trong những tư liệu thành văn quý hiếm ở thế kỷ 16 được phát hiện ở Tuyên Quang, được công nhận là di tích cấp tỉnh.

Hằng năm, vào ngày mùng 8 tháng Giêng âm lịch sẽ diễn ra lễ hội chùa Hương Nghiêm. Du khách muốn đến Hương Nghiêm có thể đi từ thị xã Tuyên Quang qua Yên Sơn để tới Hương Nghiêm.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ Phatgiao.org, Vietgle.vn và nhiều nguồn khác.
Từ 22/4, tỉnh Hà Giang đã ấn định mức thu phí tham quan danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử trên địa bàn gồm: Di tích cột cờ Lũng Cú, Di tích kiến trúc nhà Vương (huyện Đồng Văn) và Bãi đá cổ Nấm Dẩn (huyện Xín Mần) với mức phí 20 nghìn đồng/ người lớn; 10 nghìn đồng/ trẻ em dưới 16 tuổi.

Nhóm đối tượng được miễn mua vé gồm: cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ tiền khởi nghĩa, thân nhân liệt sĩ, Anh hùng Lực lượng vũ trang, Anh hùng Lao động, Bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương binh, bệnh binh; đối tượng được hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh; đối tượng được hưởng chính sách tại các cơ sở nội dưỡng, điều dưỡng thương bệnh binh và người có công; người khuyết tật, người già cô đơn; cư dân biên giới.

Nhóm đối tượng gồm: người cao tuổi, học sinh các trường phổ thông dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh được giảm 50% phí tham quan.

UBND tỉnh Hà Giang hi vọng, qui định này sẽ khắc phục được tình trạng "thả nổi" việc thu, quản lý nguồn thu phí tham quan tại các địa phương, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực du lịch. Mức phí trên áp dụng thống nhất cho cả người Việt Nam và người nước ngoài.

Du lịch, GO! - Theo báo Nhân Dân
Con đường đèo nối đèo, dốc nối dốc để rồi bất ngờ mở ra một thung lũng trong mây. Mắt tôi ngợp trong màu xanh cốm giót của ngô non, mía nõn, màu xanh tím của những rặng núi mờ xa, màu xanh trong như lọc của nền trời miền thung Rếch…

< Cảnh sắc thung Rếch.

Một thời chưa xa, cán bộ xã Tú Sơn (Kim Bôi, Hòa Bình) lên họp trên thung phải vạch lau lách, bám vách đá mà leo, đi từ chiều hôm trước, ngủ lại đến sớm hôm sau mới kịp. Một thời chưa xa, chỉ có hai bản thung Dao, thung Mường bám ở rìa còn cả thung lũng hoang vắng đầy cỏ tranh, lau lách.

Một thời chưa xa, khi hai người đàn ông huyện Đà Bắc đi tìm miền đất hứa một lần đi lạc trong thung, giữa rừng già bỗng gặp một luồng khói lạ, lần theo luồng khói gặp khe nước Khặp Khẹ. Có nước là có tất cả. Hai người về thông báo cho mấy chục hộ gia đình Dao Tiền ở quê dỡ nhà sàn cho lên thuyền vượt lòng hồ sông Đà rồi từ thuyền lên ô tô, từ ô tô lên vai vác ngược thung Rếch. Đó là những năm đầu của thập niên 90.

< Đường vào bản Kim Bắc 1, xã Tú Sơn (Kim Bôi) được mở rộng giúp bà con đi lại và giao lưu hàng hóa thuận lợi hơn.

Trưởng bản Kim Bắc 1 Bàn Văn Thắng vốn gốc ở xã Vầy Nưa, huyện Đà Bắc kể khi xây dựng thủy điện Hòa Bình cả bản phải di lên đồi theo dạng di vén, mồ mả, nhà cửa còn chuyển được chứ ruộng nương đành để ngập dưới sâu vài chục mét nước. Không có đường xá, không ruộng nương, không trường học, không trạm xá, khổ quá bản mới cử người đi tìm chỗ di dân và chọn được thung Rếch.

Hành trang rời quê của họ mỗi hộ được 1,5 triệu đồng tiền vận chuyển, hỗ trợ sản xuất, 3 triệu đồng tiền làm nhà. Nhà chưa dựng xong phải ở tạm trong lán, sáng đi khẩn hoang, tối kê đầu xuống đất mà ngủ. Sáu tháng đầu còn có hỗ trợ, sáu tháng sau phải ăn củ mài, củ sắn cầm hơi, đói trũng sâu hố mắt, đói vàng bủng thịt da.

Cày bằng trâu thì sức trâu không kham nổi vì vướng rễ cỏ tranh đan kết nhiều đời tầng tầng, lớp lớp, vì mắc đá dắt nên phải cuốc bằng sức người. Một nhát cuốc giơ lên phải trải qua các công đoạn đập, rũ, nhặt từng cái rễ cỏ tranh gom lại mà đốt. Nhấc cuốc cả ngày đầu quyết chặt bụi đất lại thêm lẽ nước hiếm hoi, con trai bản ai nấy rủ nhau cạo trọc đầu cho đỡ bẩn.

< Màu xanh cây trồng tràn ngập Thung Rếch.

Đất mới độc, xuất hiện bệnh “sên” ăn, chân tay ngoằn nghèo những đường như giun đi rồi nổi phồng lên nhức đến mức phải lấy kim khều, buốt đến nỗi phải bóp hết nước độc rồi lấy thuốc nam mà đắp. Quần quật cuốc từ lúc mặt trời rạng đến khi gà lên chuồng mỗi người cũng chỉ được mảnh đất bằng hai manh chiếu. Mùa khô ba tháng khe cạn kiệt, cả bản chia nhau vét từng gáo nước đọng đầy mùn, lá mục ở hang Nai về ăn.

Trên thung lắm chuột rừng. Chúng ăn từ lúc hạt ngô giống ở dưới đất đến khi cây đã lên bắp, đóng hạt, có vụ mùa màng gần như xóa sổ. Hết vật họa lại đến nhân họa. Gừng trồng xuống có người vượt núi buổi đêm sang đào trộm, mỗi cân giống khi ấy giá trị bằng non nửa chỉ vàng. Gỗ quý trên rừng đầu nguồn lâm tặc cũng không tha, vác cưa rìu đến đốn. Đất đai tranh chấp giữa cư dân bản địa và người di cư lắm bận đánh nhau toạc máu đầu, trâu bò nhiều khi bị bắt làm “con tin” đòi tiền chuộc.

Bận ấy ở trên núi lại có con chim quỷ về kêu “oong oóc”, đêm đến người lớn không dám ra ngoài, trẻ con không dám đi đái, nhà nhà đóng chặt cửa. Nhiều người hoang mang vì nghĩ chim báo điềm xấu. Một phần ba dân chạy về quê vì sợ ma, sợ miền đất dữ. Trưởng thôn, Bí thư phải tổ chức họp bản gấp chỉ để giải thích đó là tiếng diều hâu kêu mùa giao phối.

< Người nông dân trong ruộng mía nguyên liệu.

Lời nói suông vẫn chưa đủ trọng lượng, cả bản lại bàn nhau góp sức lập một ngôi miếu thờ thành hoàng cho ngài phù trợ, kiên tâm mà ở lại. Khi đó hai bản cũ là thung Mường và thung Dao có ông Triệu Hệ mổ lợn mời người già bản mình cùng người ở bản mới xuống hòa giải.

Sau bữa rượu đoàn kết ấy ông Hệ còn cho bương, cho tre để dựng nhà, đám tang cho người đến giúp đóng hòm, đám cưới cử người đến góp rượu thịt. Những cuộc hôn nhân giữa người mới với người cũ càng thêm bền tình nghĩa thâm giao. Bền đến mức ngay cả cái tên bản ghép đôi Kim Bôi và Đà Bắc thành Kim Bắc 1, 2, 3, 4, 5.

Buổi hội hè, người Dao quần chẹt ở thung Dao, Hạ Sơn, người Mường ở thung Mường, người Tày ở Kim Bắc 2, Kim Bắc 3 đều đến dự. Đến năm 1998 thung Rếch giải phóng hết đất hoang, năm 2003 giải phóng cho cái chân khỏi cảnh đi bộ vì đã có đường vào, liền đó điện kéo về giải phóng nốt cảnh đốt đèn dầu tù mù.

Giờ người lên thung chỉ thấy một màu xanh mướt mát của cây cối, vườn tược mà không thấy biết bao mồ hôi đầm đẫm dân bản đổ xuống. Thế mà đào rễ tranh cấy lúa nương không kết quả, trồng mận sai quả mà không bán được, trồng sắn không có nơi tiêu thụ. Chỉ đến khi cây ngô lai, cây mía giống mới dân bản mới được mở mặt, mở mày.

< Nghề chăn nuôi của dân bản.

Kim Bắc 1 giờ có 20 nhà kiên cố, nhiều hộ như Đặng Văn Thu, Bàn Văn Tiền, Bàn Văn Phong, Bùi Văn Sự, Bạch Công Hợp mỗi năm thu 100-200 triệu đồng với năng suất ngô 6-7 tấn/ha, năng suất mía 70-130 tấn/ha. Vụ vừa rồi ông Triệu Văn Thu không bán ngô tươi mà xây lò sấy, tăng giá trị từ 4.000đ/kg lên 7.000đ/kg. Cả bản có 12 em đại học, cao đẳng, có nhà hai con đều đi như Triệu Văn Thu, Bàn Văn Hưng. Bản thành làng văn hóa vì kinh tế, vì giữ rừng, giữ thuần phong, mỹ tục, vì mấy năm liền không sinh con thứ ba thậm chí có người chỉ sinh một con dù trai hay gái.

“Trước không bao giờ dân chúng tôi mơ đến học đại học bởi trường xa, đi đò cả tiếng đồng hồ mới đến còn đi bộ cả ngày dù trường ở ngay trước mắt bởi vòng qua không biết bao nhiêu núi, bao nhiêu đồi”, trưởng bản Thắng bảo. Để khắc phục chuyện con gái của bản hiện không biết thêu thùa, in váy, nhuộm chàm, con trai của bản không biết đan, không biết chữ của ông cha, sắp tới Kim Bắc sẽ thành lập các lớp học đặc biệt.

Áo của người Dao Tiền cả nam lẫn nữ độc đáo ở chỗ không mặc đơn mà hai cái lồng vào nhau, áo trong dài hơn áo ngoài, áo nam cũng hoa văn, màu sắc như áo nữ. Trong bản nhà nào cũng dành một góc vườn trồng cây chàm nhuộm với những công đoạn cầu kỳ ngâm, lọc bã lấy bột, lấy bột trộn vôi rồi lọc với tro bếp. Ngoài trồng chàm nhuộm (có lá to rất độc) dân bản còn trồng loại chàm xôi chuyên dùng làm màu cho xôi ngũ sắc.

Lớp dạy chữ Dao đã có 50 học viên ở Kim Bắc 1, Kim Bắc 4 đăng ký còn trưởng bản Thắng sẽ đứng ra làm giáo viên. Anh giải thích: “Chữ là chìa khóa mở ra văn hóa cổ. Người Dao Tiền có 12 bộ sách chia làm 3 loại: sách giáo dục nhân cách con người, sách giáo dục lịch sử và sách văn chương, có bộ đã lưu truyền cả ngàn năm. Người Dao Tiền sinh con dăm ngày phải làm mâm cơm báo tổ tiên cho nhập khẩu.

Mỗi gia đình đều có sổ hộ khẩu ghi bằng chữ cổ chép họ tên, giờ, ngày, tháng, năm sinh. Nếu con trai đến 10 tuổi sẽ được đặt tên chính thức còn dưới 10 tuổi không có tên mà chỉ gọi theo thứ tự 1, 2, 3, 4, 5. Khi đứa bé 6-7 tuổi người nhà đã làm vài chĩnh thịt chua để đến lễ đặt tên thì khao bản. Con gái không có lễ đặt tên, lúc nhỏ gọi bằng những con số đến khi lấy chồng gọi theo tên chồng”.

+ Dạo mới mở đất, mỗi khi xuống chợ hễ trông dáng người ai thô kệch, quần áo lôi thôi đoan chắc mười mươi chỉ có người thung Rếch. Thế mà giờ đây nhờ có những “người rừng” ấy gộp vào thu nhập bình quân của cả xã Tú Sơn tăng trông thấy.

+ Dân thung Rếch ước mơ có nguồn nước ngầm để đỡ cực trong những tháng mùa khô khát. Họ bỏ tiền ra khoan thử, chỉ sâu chừng 30 m là chạm nước nhưng để đầu tư một hệ thống nước ngầm cần số tiền rất lớn.

Du lịch, GO! - Theo Nông nghiệp Việt Nam + Internet
Nằm bên dòng sông Cà Ty thơ mộng, tháp nước Phan Thiết là một điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước. Đây là một công trình kiến trúc độc đáo do kiến trúc sư trưởng Khu Công chánh Nha Trang, người Lào thiết kế, ông là Hoàng thân Souphanouvong, nguyên Chủ tịch nước CHDCND Lào.

Theo anh Lưu Ngọc Đức, người bảo vệ tháp nước: Tháp có chiều cao từ nền lên đỉnh là 32m, chia thành 2 phần. Phần lầu đài (bồn nước) hình bát giác, cao 5m, đường kính 9m. Phần dưới của tháp là kiến trúc hình trụ bát giác dưới to, trên nhỏ cao 22m, có đường kính chân tháp là 10m. Nóc của lầu đài có 3 tầng mái che hình bát giác lợp bằng ngói móc.

Tháp do nhà thầu Ưng Du thi công trong suốt từ năm 1928 đến 1934 mới hoàn thành và đưa vào sử dụng, cung cấp nước cho toàn vùng đô thị Phan Thiết. Tháp nước đến nay vẫn sừng sững như tòa pháo đài kiên cố, không hề hư hỏng.

Tháp nước Phan Thiết còn độc đáo hơn bởi dòng chữ “U.E.PT” (viết tắt chữ “Unise Des Eaux de Phan Thiet” - Nhà máy nước Phan Thiết) bao quanh tháp, được ghép bằng những mảnh chén sứ kiểu theo lối viết chữ hình tròn, nhìn từ xa luôn lấp lánh trong ánh nắng miền biển.

Với tuổi đời gần 80 năm, tháp nước Phan Thiết vẫn hiên ngang, lịch lãm đứng bên bờ sông Cà Ty, chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử nơi này. Tháp nước ngày nay đã không còn tích nước nữa, giờ nó trở thành một điểm tham quan du lịch của Phan Thiết.

Hiện ngành Du lịch ở tỉnh Bình Thuận đưa tháp nước vào danh mục giới thiệu rộng rãi về một công trình hữu nghị độc đáo, thể hiện tình cảm gắn bó keo sơn giữa hai dân tộc Việt - Lào anh em. Chính vì thế mà năm nào cũng có những đoàn khách Lào ghé thăm tháp nước như một kỷ niệm không bao giờ quên.

Du lịch, GO! - Theo Báo Ảnh Đất Mũi, ảnh internet

Wednesday 1 May 2013

Hai phút phun lửa và kế tiếp là 3 phút phun nước từ con rồng thép lớn nhất thế giới đã trở thành một điểm nhấn ấn tượng, độc đáo, hấp dẫn ở TP bên bờ sông Hàn.

Từ ngày 29/3/2013, vào các tối thứ bảy và chủ nhật hằng tuần, hệ thống phun lửa và phun nước tại cầu Rồng (Đà Nẵng) bắt đầu hoạt động. Ít ai biết rồng đã phun lửa, phun nước như thế nào.

Về phun lửa, lãnh đạo TP Đà Nẵng yêu cầu phải phun ngắt đoạn, tạo thành từng quầng lửa với đường kính từ 2 - 3m và đi xa từ 8 - 10m, quầng lửa phải đạt tính thẩm mỹ cao, hài hòa với cảnh quan môi trường, tuyệt đối không làm hư hại đến bề mặt và kết cấu các công trình kiến trúc.

Lửa của cầu Rồng "trường" hơn mong muốn

Ngọn lửa phải phun theo góc nghiêng từ 15 - 45 độ, hướng lên trên so với phương dọc cầu và không có tàn hoặc dầu rơi xuống. Dầu được đốt cháy hoàn toàn, tạo ra lửa và khói, tiện lợi cho việc vận hành, bảo trì, bảo dưỡng, còn các thiết bị phải hiện đại, an toàn tuyệt đối và hoạt động được trong các điều kiện thời tiết khác nhau.

Do nhiên liệu nén ở áp suất cao nên khi phun ra khỏi ống phun lửa, gặp áp suất của không khí thấp hơn nhiều và chính vì áp suất thay đổi đột ngột và hiệu ứng cháy, tạo nên hiệu ứng âm thanh, làm tăng sự độc đáo, hấp dẫn.

Trong thời gian 2 phút, thiết bị sẽ phun thành 3 đợt. Sau đợt phun đầu tiên, thiết bị tạm ngừng hoạt động và về vị trí chờ, đến thời điểm lập trình, thiết bị sẽ tự động mở ra phun đợt thứ hai. Tương tự, hết đợt phun thứ hai, thiết bị cũng tạm ngừng rồi tự động mở ra phun đợt thứ ba. Hết đợt phun thứ ba, thì thiết bị đóng lại hẳn.

Kỹ sư Nguyễn Quang Huy, người trực tiếp chỉ đạo phun thử đêm ngày 6/3/2013 cho biết, kết quả những lần phun thử vượt cả mong muốn. 9 quả cầu lửa đã được phun ra khỏi miệng Rồng, tạo ra hiệu ứng ánh sáng và âm thanh rất đẹp và ấn tượng. Đặc biệt, đường kính của từng quả cầu lửa ước đạt từ 3 - 4m và các quầng lửa đi xa từ 10 - 15m. Qua thử nghiệm, trong một đêm diễn, tiêu thụ lượng dầu từ 54 - 81lít và điện năng khoảng 2kWh. Tổng chi phí dầu và điện trong một đêm diễn theo thời giá hiện nay từ 2-2,5 triệu đồng.

Cũng theo kỹ sư Nguyễn Quang Huy, trong tương lai gần, hệ thống thiết bị phun lửa sẽ được cải tiến theo kiểu Rồng ngậm ngọc, khi phun, nửa phần phía trước của viên ngọc sẽ mở ra và khi phun xong, viên ngọc sẽ tự động đóng lại.

Nước Rồng cực mạnh, đẹp và... rẻ

Kỹ sư Phan Đình Phương, Tổng Giám đốc công ty cổ phần khoa học công nghệ An Sinh Xanh là chủ sở hữu trí tuệ công trình "Lắp đặt hệ thống phun nước ở cầu Rồng", cho biết, đây là công trình có yêu cầu kỹ thuật cao, không được phun dòng nước đặc mà phải phun nước thành luồng hơi cực mạnh và đẹp, thể hiện được khát vọng vươn xa của Đà Nẵng.

Sau khi được chỉ định thầu công trình phun nước tại cầu Rồng, kỹ sư Phương đã nghiên cứu, thiết kế và tổ chức lắp đặt hệ thống dẫn nước từ đường ống thủy cục chảy vào bồn 50m3. Tại bồn này, khí được máy nén nén vào cùng với nước, với dung lượng 325m3 khí nén và 20m3 nước. Nước và khí từ bồn chứa theo hệ thống đường ống đi lên bên trong trụ cầu và dải phân cách, vào tủ điều khiển thủy khí, qua tiếp tủ trình diễn đặt dưới cổ Rồng, tiếp tục theo hệ thống ống lên thiết bị phun nước ở miệng Rồng.

Theo kỹ sư Phương, vận dụng định luật khí lý tưởng về tính chất 1m3 nước có thể hóa thành 1.300m3 hơi nước, ông thiết kế bồn chứa 20m3 nước và 325m3 khí nén, hóa ra hàng vạn mét khối hơi lẫn nước và phun với lưu tốc 1.944 l/s, tạo nên sự hoành tráng, đẹp mắt, tương xứng với quy mô con rồng thép dài nhất, nặng nhất, to nhất thế giới.

"Sau 15 năm nghiên cứu, tôi và các đồng sự đã phát minh ra công nghệ phun nước hóa hơi ở nhiệt độ thường với 3 ưu điểm lớn: dễ vận hành, an toàn và chi phí thấp, và cùng chung tâm nguyện tạo ra những luồng hơi nước tuyệt đẹp để góp phần làm sống động thêm cây cầu Rồng huyền thoại trên sông Hàn", kỹ sư Phương chia sẻ.

Kỹ sư Phan Đình Phương cũng cho biết, trong tương lai gần, sẽ đề xuất với thành phố cho thực hiện nhiều kiểu phun mới, sáng tạo và phù hợp với chủ đề âm nhạc của từng đêm diễn, nhằm tăng sức hấp dẫn đối với người xem. Song trước mắt, chế độ phun nước của Rồng vẫn vận hành như hiện tại, bởi chi phí tiết kiệm.

Nhiều người sẽ rất ngạc nhiên khi được biết chi phí cho một đêm Rồng phun nước (tức 1 lần phun trong thời gian 3 phút) chỉ tốn khoảng 200-250 ngàn đồng theo thời giá hiện nay. Kỹ sư Phan Đình Phương giải thích, 1 lần phun (3 phút), tốn 20m3 nước và tiêu hao 40kWh điện, như vậy, rõ ràng theo giá nước và giá điện hiện tại là chưa tới 250.000 đồng.

Du lịch, GO! - Theo Công An TP Đà Nẵng, internet
Chúng tôi xuất phát chuyến du ngoạn An Giang từ đầu TL943 dầy đặc khói bụi do con đường đang sửa chữa với những đoạn hư hỏng nặng.

Đường về huyện Thoại Sơn bạt ngàn lúa xanh rì hứa hẹn mùa bội thu sắp tới. Đến xã Định Thành, xe bị cán đinh, nên phải dừng lại để vá. Thật ngạc nhiên khi nhiều điểm vá xe chỉ toàn là phụ nữ với nhưng thao tác rất nhuần nhuyễn.

Không khí oi bức tháng 11 dịu dần khi về đến núi Sập. Đường hẹp nhưng người mua bán 2 bên đường tấp nập minh chứng cho một cuộc sống mới của cư dân nơi đây.

Khu du lịch Hồ Thoại Sơn là sự kết hợp hài hoà giữa vẻ đẹp hoang sơ của đất trời  với sự hùng vĩ đầy bí ẩn của thiên nhiên đã  tạo nên khu du lịch hấp dẫn lạ thường. Đến đây, du khách có thể đạp  thuyền thiên nga trên nước, hoặc có thể  dừng lại bên tượng đài ông Thoại cao sững sững dưới chân núi Thoại Sơn.

Tương truyền núi này trước đây có tên là núi Sập, sau này để ghi nhớ công lao to lớn của Thoại Ngọc Hầu, triều đình Nguyễn mới đổi tên là Thoại Sơn, con sông chảy qua đất đặt tên là Thoại Hà, và địa danh huyện Thoại Sơn bây giờ cũng bắt đầu từ câu chuyện đó.

Rời Thoại Sơn, chúng tôi tiến dần về hướng huyện Tri Tôn. Đường hẹp dần. Khi đi qua những cái tên rất ngộ nghĩnh như: Xã Vọng Đông, Vọng Thê, thị trấn Óc Eo, núi Cô Tô, Ba Thê...
Đường lên núi Ba Thê khá nguy hiểm và trắc trở. Một số thành viên nữ phải dừng lại giữa chừng.

Nhớ lúc chuẩn bị xuất phát, người dẫn đường cảnh báo “mùa nắng còn đỡ chứ mùa mưa thì mấy ông chớ có liều mạng chạy lên đây bởi đường rất trơn và nguy hiểm...”. Theo số liệu xưa, núi Ba Thê cao 30 trượng, chu vi 13 dặm, phía Tây là sông Thoại Hà thơ mộng, trữ tình. Phía trước giáp với bưng biền, cỏ rậm bùn lầy.

Tương truyền, ông Thoại Ngọc Hầu chỉ huy đào cho sông rộng ra để thuyền bè đi lại, mua bán làm ăn dễ dàng. Nằm dưới chân núi Ba Thê hùng vĩ, Linh Sơn cổ tự còn gọi là chùa Phật Bốn Tay (thuộc thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang). Nơi chân núi còn là ngôi đình thờ ông Phan Thanh Giản.

Đỉnh núi còn có vết chân khổng lồ mà nhân dân tín ngưỡng gọi là Bàn chân tiên. Cách chùa Sơn Tiên chừng 10m còn có Nhà trưng bày cổ vật văn hóa Óc Eo - An Giang. Công trình này có lối kiến trúc mang dấu ấn của nền văn hóa Hindu giáo. Phía Bắc của núi Ba Thê còn có hang Ông Hổ, Chót Ông Tà, nơi thờ phượng thần Núi...

Càng về Tri Tôn, đường càng xấu. Thấp thoáng những sân phơi bong bóng cá Tra vốn là đặc sản của miền quê nơi đây. Mưa cuối mùa bất ngờ ập xuống. Chúng tôi trú mưa tại nhà ông Dương Văn Ẩn, xã Tân Tuyến được nghe ông kể nhiều câu chuyện thú vị về huyền thoại đồi Tức Dụp, vốn là căn cứ địa cách mạng trong những ngày chiến tranh ác liệt nay giờ đã thành khu du lịch tiềm năng.

Mưa tạnh, chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình. Tiếng máy xay đá đang hoạt động, tiếng xe ben gầm rú dưới chân núi Cô Tô tạo âm thanh rất khẩn trương. Chùa Xvay Ton (đọc trại thành Tri Tôn) rất uy nghi lộng lẫy trong ánh sáng lung linh và tĩnh lặng. Đây là ngôi chùa cổ nhất ở An Giang.

Đường về Châu Đốc thật đẹp, phẳng lì, nhiều cây Thốt Nốt mọc san sát 2 bên tỉnh lộ, nghe nói có cây đã hàng trăm năm tuổi.  Dù là buổi chiều nhưng chúng tôi thấy khá nhiều đoàn du khách tập trung tại chân núi Cấm. Đường vẫn chưa thông được lên đỉnh  sau sự cố sạt lở đá núi vừa qua làm chết nhiều người.

Trong màn đêm, hình tượng con kéc khổng lồ bằng đá đang chót vót trên đỉnh núi thật lạ lùng, hấp dẫn. Ngã 3 Nhà Bàn luôn đông đúc người và xe đi lại dù trời đang tối dần. Núi Sam đã hiện ra trước mắt. Khu vực xung quanh miếu bà Chúa Xứ vẫn mua bán nhộn nhịp dù đã rất khuya.

Dì Nguyễn Thị Bảy, người có thâm niên hơn 50 năm bán mắm cá lóc, mắm thái tại đây cho biết “Tháng giêng đến tháng 4 tụi tui bán “dữ trời” lắm, mấy tháng còn lại  cũng lai rai...”. Đêm Núi Sam thật sôi động với hàng trăm lô sạp bán quần áo “Si Đa”, đồ thờ cúng, quà lưu niệm, quán ăn...

Hừng đông, chúng tôi đến viếng Tây An cổ tự, mộ ông Thoại Ngọc Hầu và bà Châu Thị Tiếp, miếu bà Chúa Xứ đang chìm ngập trong khói nhang nghi ngút. Đây là những di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia đang được bảo tồn rất chu đáo, trang nghiêm. Ngang qua 2 khu vườn tượng điêu khắc quốc tế, chúng tôi nghe kể nhiều về quá trình hình thành tốn rất nhiều công sức của nhiều nhà điêu khắc gia trong và ngoài nước.

Thị xã Châu Đốc vẫn sầm uất nhộn nhịp như ngày nào với đủ chủng loại mặt hàng, nhất là hàng nhập khẩu từ Thái Lan và Cam Pu Chia. Cầu Cồn Tiên to rộng trong nắng mai. Qua cầu đã thấy thấp thoáng nhiều chiếc xe đẩy mua bán di động của người Chăm An Giang.

Thánh đường Ấp Hà Bao 2, xã Đa phước, huyện An Phú khá lộng lẫy và phủ màu trắng toát. Cạnh đó nhiều ngồi nhà dân tộc Chăm mới cất mọc lên. Đây Búng Bình Thiên thơ mộng tiêu biểu cho nền văn hóa sông nước nói chung, đồng bằng sông Cửu Long nói riêng thật hấp dẫn với nhiều sản phẩm rất đặc trưng.

Du lịch, GO! - Theo Song Anh (báo Giao Thông Vận Tải), ảnh internet
Nhắc về miền Tây, du khách không chỉ nghĩ ngay đến những đặc trưng của miệt vườn sông nước, cây lành trái ngọt... mà miền Tây còn nổi tiếng bởi những khu chợ như: Chợ nổi, chợ trái cây, chợ cá miệt đồng... Và, đặc biệt là ở vùng Cái Bè, tỉnh Tiền Giang, còn có một khu chợ chuyên bán gạo...

Từ Tp. Hồ Chí Minh về miền Tây, ngang qua địa phận xã An Cư, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang, người đi đường hay lấy làm lạ về cảnh tượng xe tải chở hàng nhộn nhịp trên một đoạn đường dài cả cây số. Nơi ấy, không phải là thị tứ hay thị trấn, cũng không phải là bến xe, nhưng xe tải các loại luôn đậu chật kín bên đường...

Đó là một khu chợ chuyên kinh doanh mặt hàng duy nhất là gạo, người địa phương thường gọi là “Chợ gạo Bà Đắc”; còn giới kinh doanh lúa gạo gọi là “Chợ gạo Cái Bè”. Chợ nằm trên dải đất hẹp giữa QL1 và sông An Cư.

Đầu tiên, chợ gạo này chỉ là một xóm nhỏ bên đường, với mấy nhà máy xay xát loại nhỏ... Khi đất nước chuyển sang kinh tế thị trường, lúa gạo trở thành hàng hóa, ĐBSCL trở thành nơi cung cấp gạo chủ yếu cho xuất khẩu..., đó là những cơ hội vàng để những chợ gạo miền Tây hình thành và phát triển. Nơi nào giao thông thuận lợi, sẽ trở thành chợ đầu mối, như chợ gạo Bà Đắc - Cái Bè, thuận cả đường sông và đường bộ.

Nhiều năm nay, chợ gạo đầu mối Bà Đắc làm ăn sung túc... Chủng loại gạo phong phú, đến từ nhiều địa phương khác nhau, như Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên, các tỉnh lân cận. Gạo đến từ các vùng nước ngọt, và cả các vùng nước lợ của đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có nhiều loại gạo thơm ngon nổi tiếng.

Bà Bùi Thị Nữ, khởi đầu là thương lái chuyên mua lúa cung ứng cho chợ Bà Đắc, bây giờ là chủ vựa gạo Tấn Vinh cho biết, trước đây mua ghe lúa nào là xay luôn ghe đó, gạo bán ngay cho các công ty. Bà đã xây kho để có gạo dự trữ theo xu thế chung của chợ đầu mối Bà Đắc. Một chủ “hàng xáo” tên Trần Thị Phương, cũng là dân làm gạo lâu năm kể: Trước đây, hàng xáo như chị luôn phải chạy đôn chạy đáo tìm sân phơi lúa. Tại chợ đầu mối chỉ nhận lúa đúng tiêu chuẩn, theo đặt hàng của các doanh nghiệp lớn. Chợ đầu mối này đã kích thích sự ra đời của gần 500 sân phơi, lò sấy lúa lớn nhỏ quanh vùng. Hiện chợ có trên 40 nhà máy gia công lau bóng gạo xuất khẩu và gần 80 doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo hoạt động ngày đêm...

An Cư được xem như là trung tâm của vùng sản xuất lúa cao sản Tiền Giang, lại có khả năng thu hút lúa gạo từ Long An, Đồng Tháp, Vĩnh Long. Đây là khu vực thuận tiện về giao thông đường thủy, xà lan trọng tải lớn cũng có thể đi lại. Tuy nhiên, khi chúng tôi đến chợ thì thấy phương tiện nhiều nhất trên sông lại là những chiếc thuyền có trọng tải vừa phải, bởi nó cơ động và phù hợp với thực tế giao thương.

Cả một đoạn sông trên bến dưới thuyền, nhộn nhịp và thơ mộng giữa đêm trăng sáng. Hai bên bờ sông An Cư, nhà cửa thuyền ghe san sát. Bên này là bến đậu của những chiếc ghe đang lên hàng, công nhân nối nhau cõng lúa lên bờ, cõng gạo xuống ghe. Bên kia bến sông ít nhà hơn, nhưng ghe từ các nơi về chờ lấy hàng cũng ken san sát.

Một ngày mới ở chợ gạo đầu mối Bà Đắc, thường được bắt đầu từ các bà bạn hàng xáo, hay tụ năm tụm bảy trên bờ sông. Họ vừa ăn cơm vừa trò chuyện, vừa trao đổi với nhau về công việc thu mua lúa gạo trong ngày. Những người ở đây làm nhiều nghề khác nhau, nhưng tựu trung đều là những người góp phần đưa hạt gạo của đồng bằng Nam Bộ đi xa... Họ là những thương lái chờ mua, những bạn hàng xáo đang chờ bán, những công nhân khuân vác, những hàng quán bình dân khuya sớm... Mỗi người mỗi việc, cùng nhau làm nên chợ gạo Bà Đắc sung túc mà vẫn giữ được nét riêng của chợ vùng sông nước phương Nam.

Đời chợ cũng không nhẹ nhàng, nhất là công nhân bốc vác. Gạo từ ghe lên vựa; từ vựa ra ghe hàng, xe tải. Những cây cầu ván chênh vênh thấm đẫm mồ hôi đêm ngày... Theo tổng hợp của xã An Cư, huyện Cái Bè, số công nhân bốc vác ở chợ Bà Đắc lên đến cả ngàn người, trong đó 2/3 là dân tứ xứ.

Một chủ quán cơm ở gần cầu Bà Đắc nói, ngày nào cũng bán sạch mấy nồi cơm, nấu gần 100kg gạo. Bán cũng cực, lời không bao nhiêu, nhưng đông vui là được. Từ chợ gạo đầu mối Bà Đắc này, theo thời gian làm ăn phát đạt, đã hình thành nên chuỗi chuyên doanh lúa gạo: Thu mua, xay xát, lau gạo theo hợp đồng, tiếp thị, cung ứng, vận chuyển... Nghề nào xem ra cũng phát đạt.

Cũng từ chợ gạo đầu mối, những thông tin về giá cả, chuẩn chất lượng hàng hóa theo hàng xáo về với nông dân, về với ruộng đồng, để cây lúa miền Tây chuyển động nhịp nhàng với thương trường, với cuộc sống hôm nay.

Chợ gạo Cái Bè không chỉ thu hút các thương lái gần xa, mà còn làm cho đời sống người dân địa phương thêm phần nhộn nhịp. Qua chợ, có thể thấy bức tranh nông nghiệp đồng bằng, với cây lúa vẫn là chủ lực. Câu chuyện về chợ Bà Đắc xem ra cũng chính là câu chuyện của những nhà nông đồng bằng.  

Du lịch, GO! - Theo Trần Trọng Triết (báo Giao Thông Vận Tải), ảnh internet
Chùa Munir Ansay là một ngôi chùa Khmer lớn ở thành phố Cần Thơ. Ngoài nét cổ kính, ngôi chùa còn rực lên một màu sắc rực rỡ khiến du khách phương xa chú ý, từ lâu đã thu hút đông đảo du khách tham quan, hành hương.

< Tháp tam bảo trên cổng chùa Munir Ansay.

Chùa Munir Ansay (Muni Răngsây) tọa lạc tại số 36 đại lộ Hòa Bình, thành phố Cần Thơ, được xây dựng năm 1948 bằng vật liệu tre lá đơn sơ. Sau nhiều đợt trùng tu, xây dựng chùa mới có dáng vẻ như ngày nay. Mãi đến năm 1954 thì cổng chùa mới được xây dựng với kiến trúc mô hình tháp (tam bảo) của Angkor Wat và đến năm 1964 mới xây dựng chánh điện. Cũng như các chùa Khmer khác, chánh điện luôn quay về hướng đông vì theo Phật giáo thì hướng Đông là hướng của các vị thần thánh.

< Chính điện chùa Munir Ansay.

Khi vừa đặt chân đến cổng chùa, du khách cảm thấy ngôi chùa nổi bật lên một màu vàng rực rỡ, óng ánh in trên nền trời xanh. Cổng chùa được xây theo kiểu hình tháp tam bảo, ba ngôi tháp nằm song song trên cổng đứng sừng sững giữa không trung, giúp du khách cảm nhận được sự tôn nghiêm nơi thờ tự. Ba ngọn tháp này cũng được sơn màu vàng rực rỡ. Đây là màu sắc truyền thống thường được trang trí trong các ngôi chùa Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long.

Mặc dù tọa lạc tại trung tâm thành phố nhưng sân chùa khá thoáng đãng, không gian rộng rãi và yên bình.

< Ngôi tháp trước sân chính điện.

Từ cổng nhìn vào, du khách sẽ bắt gặp một tòa bảo tháp màu vàng lộng lẫy đứng sừng sững giữa sân như bức bình phong che chắn cho khu vực chính điện. Mỗi tầng trong bảo tháp là một tượng phật nhỏ minh chứng cho sự sùng đạo của đồng bào Khmer hiền hòa, hiếu khách. Xung quanh bảo tháp được đắp nổi phù điêu tam bảo, tượng tiên nữ Keynor, tượng chim thần Kurd, tượng Phật bốn mặt…

Phía sau bảo tháp là cầu thang dẫn lên khu vực chính điện. Khu vực này được xây cao, cách mặt đất hơn 1 mét nên rất thoáng đãng và sạch sẽ. Xung quanh gian chính điện được trang trí bằng nhiều phù điêu đắp nổi làm cho bên ngoài gian chính điện khi nhìn vào trông thật lộng lẫy.

< Bàn thờ trong chính điện.

Bên trong gian chính điện là nơi thờ tượng Phật Thích Ca Mâu Ni và nhiều vị Phật khác. Đứng ở đây, du khách có thể nghe được hơi thở của mình cho dù bên ngoài rất náo nhiệt.

Hằng năm, tại chùa Munir Ansay đều có tổ chức các ngày lễ lớn như Cholchonam Thomay - tết năm mới (ngày 13, 14, 15 tháng 3 âm lịch), Ok-om-Book - lễ đưa nước (tháng 10 âm lịch), Donta - lễ cúng ông bà (tháng 8 âm lịch), lễ Dâng Y của đồng bào Khmer... Lễ được tổ chức vui tươi trang trọng, có nhiều trò chơi dân gian với nhiều hình thức phong phú.

Chùa Munir Ansay là một ngôi chùa Khmer lớn và lâu năm nhất tại Cần Thơ. Vì vậy, đây là điểm tham quan mà du khách không nên bỏ ngoài chương trình mỗi khi có dịp đặt chân đến Cần Thơ.

Du lịch, GO! - Theo Trần Kiều Quang (Thesaigontimes.vn)
Trao trảo là một loài chim thuộc họ chào mào, còn có tên hoành hoạch (hay quành quạch). Trao trảo biết hót, nhưng tiếng hót không mấy thanh tao, sang trọng, đài các như các “nàng” sơn ca, hoàng oanh, họa mi... nên chúng chẳng mấy khi được người chơi chim cho ở trong “lầu son gác tía”, thi đấu tưng bừng như các nàng ca sĩ có “sao” vừa nêu.

Trao trảo là loài chim được người ta liệt vào loài “phá họai vườn cây ăn trái” vì chúng rất thích ăn những trái chín treo lủng lẳng trên các cành cây đang trĩu quả, tỏa mùi thơm quyến rũ, như xoài, nhãn, sa-pô-chê, thanh long...



Đặc biệt trao trảo rất thích ăn những trái lá cách chín tím bầm. Dù vậy, để săn bắt chúng, người ta không giăng lưới, móc câu hay một phương cách nào khác, ngoài việc dùng cái giọng hót đặc trưng của con trao trảo mồi để quyến dụ chúng. Nếu trúng, một bữa người ta có cả chục con trao trảo mê nghe “ca hát” mà sa vào chốn hiểm nguy.

Chốn hiểm nguy ấy là bàn tay của những ông bợm nhậu, của những bà chủ quán lão luyện việc bếp núc. Như cái quán ở ấp Chông Nô 3 (xã Hòa Tân, huyện Cầu Kè), được xem là vườn cây trái của tỉnh Trà Vinh. Cái quán ấy có tên “Cháo dơi” (dơi sen) nhưng người dân địa phương đặt cái tên dân dã là quán “Côn trùng”. Gọi như vậy vì ngoài việc bán các thức ăn pha chế từ dơi sen, trao trảo, quán còn bán những món ăn từ dế cơm, bọ rầy, đuông đất.

Toàn là đặc sản, nên ngoài việc thu hút dân bản xứ, quán còn hấp dẫn những người sành ăn từ khắp nơi đến thưởng thức. Riêng trao trảo, lâu lâu quán mới có vài chục con, nên muốn thưởng thức, khách địa phương cũng phải “a lô” đặt trước. Còn khách phương xa may mắn lắm mới có dịp nếm thử. Tại đây, quán chỉ có mỗi một món duy nhất làm từ trao trảo là chiên giòn.

Chủ quán là một người phụ nữ Khmer lai Hoa, trắng trẻo, mập mạp, tiết lộ "bí quyết" món trao trảo chiên giòn. Chẳng khó khăn gì: Trao trảo sau khi nhổ sạch lông, gọi là “làm lông”, được móc bỏ nội tạng, rửa sạch để ráo. Sau đó, ướp chúng với một số gia vị, như muối, tiêu, bột ngọt, bột nêm, đường, tỏi vừa ăn, để thấm chừng mười phút. Bắc chảo lên bếp lửa, chảo khô, đổ nhiều dầu vào. Dầu sôi, gắp từng con trao trảo thả vào.

Trong chốc lát, những con chim lớn  hơn chim sẻ một chút ấy, từ màu trắng ngà đã trở thành màu vàng sậm, bắt mắt. Hấp dẫn hơn là từ trong chảo dầu sôi sùng sục ấy tỏa ra một mùi thơm “điếc mũi” của những con trao trảo chín đều. Vậy là gắp chúng ra, sắp đầymặt dĩa, dọn ra bàn. Bên cạnh dĩa trao trảo là một dĩa đầy ắp rau xanh, gồm húng, húng lủi, quế và những miếng dưa leo non choẹt gọi mời cùng một chén ớt sừng xắt lát bên cạnh mấy miếng chanh chờ sẵn.

Phục vụ cho mồi màng thêm phong phú, đủ chuẩn là hai loại thức chấm: một chén nhỏ nước mắm me, một chén nhỏ muối tiêu. Ai ăn thức chấm nào thì cho ớt vào đó. Riêng muối tiêu thì phải vắt miếng chanh để có vị chua thấm lưỡi.

Vậy là thực khách cầm đũa, gắp một con trao trảo chấm vào thức chấm mình ưa thích trước khi cho lên miệng cắn, nhai. Ôi chao! Giòn rụm, hương thơm quyện với vị mặn ngọt chua cay, quá đã! Rồi miếng dưa leo, những lá rau xanh mơn mởn hòa điệu trong miệng như một bản "hợp xướng" ẩm thực. Càng “tê người” hơn khi chiêu một ngụm rượu gạo đục ngầu chánh gốc Cầu Kè, cay, nóng nhưng nhẹ hều, phiêu phiêu như gió thổi giồng tre xào xạc bên hè. Khoái sướng làm sao. Càng khoái hơn khi anh em bù khú bảo nhau rằng nhậu trao trảo chiên giòn là tích cực bảo vệ trái cây của nông dân cực khổ xứ nầy.

Du lịch, GO! - Theo Phương Kiều (TBKTSG Online) + internet

Tuesday 30 April 2013

Sẽ rất khó để lột tả hết vẻ đẹp của đầm Cầu Hai bằng lời, bởi thiên nhiên, cảnh vật và đời sống con người nơi đây, dường như vượt quá xa những khái niệm, quy chuẩn về "vẻ đẹp".

Đã có rất nhiều những nghệ sỹ nhiếp ảnh chuyên lẫn không chuyên đến nơi đây và mang về cho người xem những tấm ảnh tuyệt diệu. Tuy nhiên, đầm Cầu Hai vẫn còn nguyên đó những vẻ đẹp kỳ thú mà bất cứ ai cũng có thể khai thác.

Đầm Cầu Hai là khu đầm lớn nhất trong hệ thống đầm của phá Tam Giang với chu vi lên đến hơn 100km, nằm ở phía Nam - trên địa phận huyện Phú Lộc, Thừa Thiên Huế.

< Đầm Cầu Hai ở cửa Tư Hiền.

Để đến được đây thì bạn có thể đi theo hai đường: một là từ ngã 3 sân bay Phú Bài, đi theo đường Phú Bài - Trường Hà hướng ra biển, gặp QL 49B rẽ phải khoảng 30km là cửa Tư Hiền, đó là nơi chụp đầm Cầu Hai đẹp nhất, hoặc là đi theo QL 1A từ Huế vào Đà Nẵng, đến khu vực Ga Cầu Hai sẽ thấy ngay bên trái là đầm Cầu Hai. Đi thêm khoảng 8km nữa là lại gặp QL 49B để rẽ trái vào cửa Tư Hiền được.

< Sửa lưới trên Phá Tam Giang.

Khi đến với Đầm Cầu Hai bạn đừng quên đem theo một chiếc máy ảnh vì đây sẽ là một nơi lý tưởng để bạn trổ tài chụp hình của mình đấy. Lúc sáng tinh mơ, chiều nắng vàng, hoàng hôn, hoặc ngày mây vần vũ là thời điểm thích hợp để có những bức ảnh tuyệt vời đấy.

Ảnh chụp lúc 8h sáng tại cầu Tư Hiền, cách Huế 70km, cầu này bắc ngang qua đầm Cầu Hai.
Đừng lo vì mình đến không đúng thời điểm, trong thời gian chờ đợi bạn có thể mua thức ăn của dân và ăn trên đầm cũng là một trải nghiệm khá thú vị.

Còn nếu bạn nào có nhu cầu ở lại thì có thể đi ven QL 1A hoặc sát biển, gần cửa Tư Hiền kiểu gì cũng có nhà nghỉ.

Một số địa điểm gợi ý để bạn chụp ảnh:
- Cửa Tư Hiền
- Khu ga Đá Bạc, Cầu Hai, Thừa Lưu
- Chùa Túy Vân (phía gần biển, cách cửa Tư Hiền khoảng 3km về phía Bắc)

Hệ đầm phá Tam Giang-Cầu Hai là tổng thể đầm phá ven biển miền Trung Việt Nam thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế. Khu đầm này trải dài 68 km thuộc địa phận năm huyện: Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang, và Phú Lộc.

Về mặt địa lý khu đầm này là bốn đầm nối nhau từ bắc xuống nam gồm:
- Đần Phá Tam Giang
- Đầm Sam
- Đầm Hà Trung-Thủy Tú
- Đầm Cầu Hai.
Các đầm có những dải đất dài gồm những đụn cát cao ngăn đầm với biển. Có nơi cồn cát cao đến 20 m.

Đầm Phá Tam Giang chạy dài khoảng 27 km bắt đầu từ cửa sông Ô Lâu đến cửa sông Hương với diện tích 5.200 ha. Phá thông với biển bằng mỗi cửa Thuận An. Còn Đầm Sam nhỏ hơn với diện tích 1.620 ha, không thông ra biển.
Đầm Hà Trung-Thủy Tú dài và hẹp với diện tích 3.600 ha cũng là đầm kín không thông ra biển. Riêng Đầm Cầu Hai là lớn nhất với diện tích 11.200 ha. Cửa Tư Hiền thông đầm Cầu Hai với biển Đông.
Hệ đầm hứng nước gần như tất cả các con sông lớn trong tỉnh Thừa Thiên nên nước đầm tương đối ngọt rồi chuyển sang nước lợ vào mùa khô.

Vì được cấu tạo bởi những động lực từ các nguồn sông, lũ, bão và sóng biển, quần thể đầm phá Tam Giang - Cầu Hai từng biến chuyển qua nhiều thời kỳ. Gần đây nhất năm 1953 cửa Tư Hiền bị cát lấp, mãi đến năm 1959 mới mở lại.

Cửa Thuận An cũng đã di dịch tùy vào thủy văn. Đặc biệt nhất là năm 1999 khi có lũ lớn, hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai mở thêm ba cửa thông ra biển: cửa Hòa Duân, cửa Vinh Hải, và cửa Lộc Thủy. Những cửa này không tồn tại lâu dài vì sau đó ít lâu lại bị cát bồi lấp đi.

Du lịch, GO! - Theo Xóm Nhiếp Ảnh, Wikipedia...

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống