Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Friday, 5 August 2011

Theo lời kể, không gian của khu dinh thự này được bắt đầu từ con đường dài dẫn vào biệt phủ với 2 hàng phượng vĩ nở đỏ rực mỗi khi hè sang, 3 cái ao lớn xếp hình vòng cung ôm lấy khu biệt phủ tạo nên thế phòng thủ vững chắc cho cả khu vực với chỉ một đường ra, một đường vào...

Nghe theo tiếng gọi cách mạng của Hồ Chủ tịch, ông Vi Văn Định, người được mệnh danh là “ông vua” đất Bắc- từng làm tới Tổng đốc Thái Bình, rồi Tổng đốc Hà Đông- đã cùng gia đình rời Lạng Sơn chuyển về Hà Nội sinh sống. Khu biệt phủ của ông trước kia giờ chỉ còn mấy cái cổng uy nghi đứng lừng lững giữa Bản Chu, xã Khuất Xá, huyện Lộc Bình.

Những người đã từng được nhìn thấy khu dinh thự lúc còn nguyên vẹn đều không giấu nổi vẻ tiếc nuối khi nhắc đến công trình kiến trúc được xếp vào hàng đẹp nhất nhì miền Bắc thuộc một gia đình “danh gia vọng tộc” thời bấy giờ...
.
Vị Tổng đốc gắn với nhiều huyền thoại...

Theo các tài liệu ghi chép, dòng họ Vi trước đây ở Nghệ An, khi Lê Lợi dấy binh đánh đuổi nhà Minh, ông Vi Kim Thắng cùng con là Vi Phúc Hân theo Lê Lợi diệt Liễu Thăng tại ải Chi Lăng.

Sau khi nhà nước được bình định, ông được phong làm Thảo Lộ tướng quân Tả đô đốc trấn giữ ở miền quan ải Lạng Sơn. Bởi thấy Bản Chu (trước kia gọi là Lộc Mã) là đất địa linh, có thế phong thủy đẹp nên ông đã chọn làm nơi lập ấp. Từ đó, những người con cháu kế nghiệp tổ tiên đều sinh sống tại vùng đất này với hơn mười đời làm quan trấn ải biên cương, cha của ông Vi Văn Định là cụ Vi Văn Lý (1830 – 1905) hiện vẫn còn phần mộ tại Bản Chu.

Ông Vi Văn Định thuộc đời thứ 14 của dòng họ Vi, thay cha đảm trách việc quan trấn ải cả một vùng rộng lớn khu vực biên giới phía Bắc nhưng không được triều đình phong Tổng đốc.
Do lo ngại về thế lực của ông tại khu vực trọng yếu này, dưới sự giật dây của thực dân Pháp, năm 1928, triều đình đã điều ông về nhậm chức ở Thái Bình, thăng làm Tổng đốc để “dễ bề quản lý”, sau đó ông tiếp tục làm Tổng đốc Hà Đông thay cho Hoàng Trọng Phu.

Đến năm 1942, ông từ quan trở về Bản Chu an dưỡng tuổi già. Nghe đâu cái đận ông về, người ta còn làm lễ rước linh đình lắm, các quan viên lớn bé ra tận bờ sông đón (hồi ấy chưa có cầu Bản Chu bắc qua sông Kỳ Cùng).

Sau khi cách mạng nổ ra, Hồ Chủ tịch đã nhiệt thành mời ông về tham gia chính quyền cách mạng. Đi theo tiếng gọi của Bác, ông cùng gia đình chuyển hẳn về Hà Nội, từ độ ấy khu biệt phủ không còn ai ở. Sau đó, chính quyền cách mạng tiếp quản khu biệt phủ, các công trình được bảo vệ khá tốt trong một thời gian dài, vào cuối những năm 60 đây vẫn còn là chỗ ở của các chuyên gia Trung Quốc sang Việt Nam hỗ trợ kỹ thuật nuôi cá giống tại khu trại cá huyện Lộc Bình hiện nay.

Trải qua nhiều thăng trầm lịch sử, do chiến tranh tàn phá, cộng với việc khu biệt phủ dần dà không được bảo vệ chu đáo, người dân trong vùng đã đến dỡ gạch ngói, tháo gỗ về làm vật liệu xây dựng, thậm chí nhiều người còn đến đào bới để tìm vàng bạc vì nghe đồn ông Tổng đốc giàu nức tiếng miền Bắc chôn của đâu đó trong khu biệt phủ.

Qua gần 70 năm kể từ khi ông Tổng đốc rời Bản Chu, khu biệt phủ rơi vào cảnh hoang tàn, phế tích, toàn bộ các công trình quan trọng đều bị phá bỏ, chỉ còn lại mấy cái cổng đứng trơ trọi đến tận bây giờ...

Khu biệt phủ là quần thể kiến trúc được xây dựng qua nhiều đời, nhưng ông Vi Văn Định là người cuối cùng cai quản nên nó gắn liền với tên tuổi và cuộc đời mang đầy huyền thoại của vị Tổng đốc họ Vi này. Đến nay, nhiều người ở Bản Chu cũng khẳng định: trước đây, cha ông họ đã từng làm gia nhân trong phủ hoặc làm thuê cho ông Tổng đốc.

Câu chuyện về tính cách, con người của ông đến nay cũng chẳng biết thực hư ra sao, người thì bảo ông “ác” có tiếng, người thì nói ông nghiêm khắc vô cùng, người thì khen ông hiền lắm, tốt với dân bản lắm, có người kể ông đã từng cho một gia nhân chăm chỉ hẳn miếng đất đối diện cổng phủ để lấy kế sinh nhai, lập nghiệp... Chẳng ai kiểm chứng được những điều ấy nữa, bởi những người được chứng kiến ông lúc sinh thời, chứng kiến khu biệt phủ ngày hoàng kim đều đã về cõi cả.

< Tấm phả hệ họ Vi bằng đồng nạm bác rất đẹp... bị người dân ở đây lấy làm nắm chum!

Những cậu bé chơi lang thang trong khu biệt phủ uy nghi, trầm mặc, cây cối rậm rạp và không khí lúc nào cũng mát rười rượi ấy, giờ đây cũng đã là những người già ở Bản Chu cả rồi...

Một ngày nắng như dội lửa, Bản Chu đang rộ mùa cấy, chỉ còn lác đác mấy người đứng tuổi ở nhà, đó vô tình lại là điều kiện thuận lợi để chúng tôi thu thập chút thông tin, bởi chỉ dựa vào mấy cái cổng hoang tàn, phế tích thì quả là quá khó để hình dung về quy mô của cả khu biệt phủ. Hỏi han khắp nơi, mỗi người mang máng nhớ một chút.

Qua lời kể của ông Lộc Văn Cờ, Chủ tịch UBND xã Khuất Xá; ông Vũ Văn Héo, một ông lão mù nhà đối diện khu biệt phủ; ông Lộc Văn Phái người gốc thôn Bản Chu, lọ mọ lắp ghép lại thông tin, chúng tôi cũng sơ bộ hình dung ra đôi phần về khu biệt phủ có quy mô hoành tráng này. Và cần phải khẳng định rằng: Nếu còn đến bây giờ, khu biệt phủ của Tổng đốc Vi Văn Định chắc chắn sẽ được xếp vào hàng “siêu phủ” mà ít có khu biệt thự nào hiện nay có thể bì kịp.

< Bác Hồ và Vi Văn Định.

Theo lời kể, không gian của khu dinh thự này được bắt đầu từ con đường dài dẫn vào biệt phủ với 2 hàng phượng vĩ nở đỏ rực mỗi khi hè sang, 3 cái ao lớn xếp hình vòng cung ôm lấy khu biệt phủ tạo nên thế phòng thủ vững chắc cho cả khu vực với chỉ một đường ra, một đường vào.

Cách cổng chính của biệt phủ mấy chục mét, ở mỗi đầu đường có một chiếc cổng lớn xây theo kiểu cổng thành. Cổng chính được xây 2 cấp mái, lợp ngói âm dương, góc mái cong vút, trên đỉnh có gắn họa tiết tượng trưng cho hình ảnh rồng thăng.

Cổng được chia thành 3 lối đi riêng biệt đặc trưng của chế độ phong kiến, lối chính dành cho ông Tổng đốc và người thân, 2 lối nhỏ dành cho gia nhân và thuộc cấp. Từ cổng chính đi vào khoảng 10m là một cổng nhỏ xây hình trụ vuông với nhiều họa tiết tinh xảo.

< Gia đình Tổng đốc Vi Văn Định trong ngày cưới của con gái Vi Kim Ngọc với tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên.

Theo lời kể, ngày xưa ở khoảng giữa của 2 chiếc cổng này còn có 2 cây duối lớn trồng hai bên và được uốn tỉa tạo thành hình vòm với hàm ý nghênh đón khách đến thăm. Khu biệt phủ xây hình chữ U với khoảng sân rộng thênh thang, tường bao 2 bên phía trước được xây uốn tựa dáng hổ chầu, trong sân còn có cả một cái hồ cạn lớn hình bầu dục với hòn non bộ đắp cao.

Tòa nhà chính của biệt phủ được xây 2 tầng quy mô cực lớn với hiên rộng theo lối kiến trúc cổ mang đầy vẻ trầm mặc, uy nghiêm, 2 dãy nhà thứ cấp được xây 2 bên với dải hiên chạy dài tạo nên một quần thể kiến trúc độc lập, khép kín và hoàn chỉnh.
Phía bên phải khu biệt phủ còn có một tòa nhà lớn nữa, đó là tòa nhà ông Tổng đốc xây cho người con trai cả là Vi Văn Dư (người Bản Chu vẫn gọi là ông cả Diệm).

Đặc biệt, phía sau khu biệt phủ còn có hẳn một sân quần vợt riêng để ông Tổng đốc rèn luyện thể thao. Phía trước chỗ mấy cái ao, ông còn cho xây tạo hẳn một vườn hoa lớn để thưởng ngoạn mỗi khi rảnh rỗi... thời ông còn ở đây, tại mỗi cổng vào đều treo một chiếc trống, có lính canh gác ngày đêm, khi có khách, lính canh sẽ đánh trống để gia nhân trong nhà ra mở cổng đón tiếp.

Nội thất của khu biệt phủ thì đến bây giờ chẳng còn ai nhớ được, nhưng với quy mô như thế thì đồ đạc trong dinh thự chắc cũng toàn dòng quý hiếm cả. Chỉ biết rằng, sau năm 1979, khi biệt phủ bị tàn phá, người ta dỡ mái xuống thì hệ thống cột kèo của cả khu biệt phủ khổng lồ ấy đều rặt là gỗ nghiến nguyên thân, nguyên khối 100%... và đến bây giờ, ở Bản Chu, không ít gia đình vẫn còn giữ được những vật dụng chế tác từ những thân gỗ ấy, không ít những ngôi nhà được xây lên từ gạch ngói của khu biệt phủ uy nghi, lừng lẫy một thời ấy...

Trường mầm non xã Khuất Xá hiện nay được xây mới trên nền móng cũ của khu biệt phủ. Có thể đó cũng là một lẽ hay, bởi ai cũng biết ông Tổng đốc họ Vi - người được mệnh danh là “ông vua” đất Bắc có 2 người con rể, 1 người cháu rể đều là những nhân sĩ, trí thức, học giả lẫy lừng cả nước: 2 người con rể là vị Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Đại học Y Hà Nội, Giáo sư, bác sĩ Hồ Đắc Di (lấy tiểu thư Vi Kim Phú) và Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên, người giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam (nay là Bộ Giáo dục) lâu nhất (trong vòng 29 năm từ năm 1946) (lấy tiểu thư Vi Kim Ngọc). Người cháu rể là một bác sĩ nổi tiếng khắp thế giới, người có công lớn xây dựng nền y học Việt Nam hiện đại, Giáo sư, bác sĩ Tôn Thất Tùng (lấy cháu gái nội ông Tổng đốc là tiểu thư Vi Thị Nguyệt Hồ).

Giếng trăm năm không cạn

Ngoài câu chuyện về căn biệt phủ chôn vàng, người dân nơi đây còn góp thêm câu chuyện làm giai thoại về vị tổng đốc lẫy lừng thêm phần kỳ thú, ấy là về cái giếng làng do chính tay Vi Văn Định đào và xây đắp.
Theo những người già trong làng và dấu tích còn ghi trên miệng, giếng này được đào năm 1910. Đến nay đã hơn 100 năm nhưng vẫn được coi là mạch nước quý cho người dân bản Chu.

Dẫn chúng tôi đến bên giếng quý, ông Nông Văn Kê, Trưởng thôn bản Chu A khề khà: “Nếu Bản Chu được gọi là mảnh đất hình rồng thì giếng nước trên được đào ở đúng mắt rồng. Bởi thế, không như nhiều giếng khơi phải nối dây múc gầu khác, chỉ cần mở nút là nước tự chảy. Nước giếng ào ạt, tuôn chảy chẳng khác gì suối, đủ dùng cho cả mấy trăm hộ trong vùng. Cái giếng này cũng đã gắn với 3 đời nhà tôi đấy!
Dù bây giờ, người làng đã biết khoan giếng lấy nước sạch và nước giếng cũng không tuôn xối xả như xưa, nhưng cả bản này vẫn coi nước từ giếng này là nước quý”.

Theo lời ông Kê, người dân nơi đây tôn giếng này là “giếng thần”. Bởi, nằm nem nép bên con sông Kỳ Cùng, phù sa vẩn đục mà nước giếng vẫn trong vắt, ngọt lịm, người dân nơi đây còn tin rằng, nước trong “giếng thần” chữa được bách bệnh.

Số là trong làng có bà cụ mắc bệnh, phải lên viện tỉnh nằm. Nhưng chữa cả tháng trời mà bệnh tình không thuyên giảm. Bà cụ chắc mẩm là do không được uống nước giếng, uống cái thứ nước “tinh khiết, đóng chai” nhạt miệng nên càng làm bệnh thêm trầm trọng. Cụ nằng nặc đòi con cái về quê, mang cho cụ mấy lít nước giếng để dùng.
Chiều mẹ, mấy người con của cụ cũng vượt đoạn đường mấy chục cây số để tìm đến giếng thần mang lên cho mẹ yên tâm. Chỉ vài ngày sau đó, bệnh tình của cụ thuyên giảm hẳn và hơn một tuần đã xuất viện về nhà.

Câu chuyện cứ thế truyền tai từ người này sang người khác, và hơn bao giờ hết, dân bản tin rằng thứ nước quý ấy có thể chữa được bệnh. Thậm chí, nhiều người dân bản khác cũng lặn lội đến xin nước “giếng thần” về chữa bệnh.
Theo lời ông Kê, có thể việc uống nước giếng và khỏi bệnh của bà cụ nọ là chuyện trùng hợp ngẫu nhiên. Ông chỉ tin rằng, đây là thứ nước giếng trong lành nhất, ngon ngọt nhất, chứ cũng không tin nó có khả năng chữa bách bệnh như người ta đồn đoán.

Du lịch, GO! - Theo  Lạng Sơn Online, Landtoday và nhiều nguồn khác.
Tên ngọn thác do người Pháp phiên âm từ tiếng dân tộc bản địa (KHo: Pon-gou - với nghĩa ông chủ vùng đất sét trắng). Lối vào thác Pongour là con đường nhựa dài khoảng 7km (một nhánh rẽ trái của quốc lộ 20 Sài Gòn - Đà Lạt thuộc huyện Đức Trọng).

Thác đổ từ độ cao gần 40m, trải rộng hơn 100m, qua hệ thống đá bậc thang bảy tầng. Bao quanh là khu rừng nguyên sinh có diện tích khoảng 2,5ha với thảm thực vật đa dạng, phong phú. Pongour xứng danh được người Pháp tôn vinh là "ngọn thác hùng vĩ nhất Đông Dương".

Đón chúng ta là một cung đường thú vị. Những bước chân thành thị ắt sẽ sững sờ và thích thú trước những hoa dại đủ màu sắc. Tựa những con người luôn sống hết mình, hoa sao nhái ở đây cũng vàng lên rực rỡ như chưa từng có ở một nơi nào khác. Hoa điệp vàng như nắng trải đầy lối đi. Người dân ở đây nói rằng chín năm trước, để đến con thác này người ta phải phát cây băng rừng hoặc trôi thuyền theo dòng Đa Nhim, rồi bám rễ cây mà thả người men ra bờ thác.

< Thác Pongour năm 1968.

Rừng già Pongour mới chính thức mở cửa từ năm 1999. Gần 10 năm trôi qua, nhưng hiện nay thác vẫn còn nét đẹp hoang dã của núi rừng Tây nguyên. Đặc biệt, nơi đây có nhiều cảnh đẹp và lạ cho các phó nháy, "người mẫu" tha hồ dừng lại chụp ảnh.


Bạn có thể đứng ngắm dòng thác ở đài quan sát ngay gần khu trung tâm. Đây là góc nhìn đẹp nhất và cũng là nơi trước kia vua Bảo Đại thường dừng chân trong các chuyến xuyên rừng săn hổ dữ.

Bạn cũng có thể men theo những bậc thang uốn theo sườn núi lần xuống chân thác để thấy được vẻ đẹp hùng vĩ của thác nước từ góc nhìn bên dưới.


Dòng nước đang cuồn cuộn chảy bị các mỏm đá chặn lại, xé thành hàng chục dòng thác trải dọc vách đá thẳng đứng. Lớp lớp khối đá bàn xanh rêu xếp chồng lên nhau làm dòng nước đổ xuống tung bọt trắng xóa.

Thác nước trở thành mưa bụi mùa xuân mát rượi, bay đến nơi du khách đứng xa hàng chục mét. Giữa hai bờ đá dựng, thác nước lại hiền hòa trôi xuôi trên mặt hồ. Thác Pongour chưa có nhiều hàng quán và khách du lịch cũng thưa thớt nên dễ mang lại cảm giác tĩnh lặng, dễ chịu cho những ai đặt chân đến.

Nhiều người chỉ có dịp đến Pongour vào ban ngày nhưng họ không khỏi ao ước được trải qua một đêm ở đây, bởi Pongour còn đượm hương rừng hoang sơ, tiếng chim hót cùng tiếng thác reo quyến rũ... Và nếu có dịp đến Đức Trọng, ngoài Pongour, chúng ta còn có thể làm một "tour thác" hùng vĩ với Gougah, Liên Khương, Cà Đờn... gần đấy*.

< Pongour trong mùa khô: kiệt nước!

* Du lịch, GO!: Đẹp và hùng vĩ nhưng cụm thác trên sông Đa Nhim này sẽ kiệt nước vào mùa khô, ảnh hưởng nặng nhất trên các thác Liên Khương, thác Gougah do kết quả của việc xây đập thuỷ điện Đa Nhim. Chung quy thì chiêm ngưỡng thác Pongour: bạn phải đi vào mùa mưa vì mùa kiệt ít nước, thác Liên Khương (Đức Trọng) thì cạn nước, cảnh quan bị phá huỷ, cộng thêm việc mở rộng quốc lộ 20 và vòng xoay đường cao tốc nên đã đóng cửa khai thác. Còn thác Gougah thì ngược lại, do mực nước hồ Đại Ninh trong quá trình tích nước đã dâng cao, làm ngập hết chỉ còn lại vài mỏm đá. Vì vậy người ta đã đưa 2 di tích danh thắng này ra khỏi danh sách di tích cấp quốc gia - thật đáng tiếc!

Du lịch, GO! - Theo Tuoitre, Dulichgo và nhiều nguồn khác.

Thác Pongour xưa và bây giờ...

Thursday, 4 August 2011

Chợ phiên, nét đặc trưng của các dân tộc miền núi phía Bắc. Với nhiều dân tộc, chợ không chỉ là nơi giao thương hàng hóa đơn thuần mà còn là nơi giao lưu văn hóa, gìn giữ những di sản văn hóa của người dân tộc cho thế hệ sau.

< Cao nguyên đá Đồng Văn.

Chợ phiên ở huyện Đồng Văn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, là một trong những phiên chợ đặc trưng nhất của Đồng Bào Mông và các dân tộc trên cao nguyên đá Đồng Văn.

Đồng Văn là một huyện của tỉnh Hà Giang, đồng thời cũng là huyện cực Bắc của Việt Nam, có diện tích 446,66 km² và dân số 57.715 người (2006), gồm 2 thị trấn và 17 xã. Huyện lỵ trước đây là thị trấn Phó Bảng, nay chuyển về khu phố cổ thuộc xã Đồng Văn, nay là thị trấn Đồng Văn.
.
Rộn ràng phiên chợ

< Các cô gái vùng cao ở chợ phiên Đồng Văn.

Cách thủ đô gần 500km, Đồng Văn nằm bình yên giữa mênh mông, núi non hùng vĩ. Dãy phố cổ nằm tĩnh mịch dưới chân núi Đồn Cao, phố cổ Đồng Văn được hình thành từ đầu thế kỷ 20 do người Tày, người Mông và người Hoa sinh sống.

< Theo mẹ xuống chợ.

Chợ phiên Đồng Văn họp mỗi tuần một lần vào chủ nhật tại trung tâm thị trấn Đồng Văn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. Chợ không chỉ là nơi giao thương mà còn là nơi giao lưu văn hóa, tâm tình của rất nhiều đồng bào người Mông, Hán, Dao, Giáy, Tày...
< Tấp nập chợ phiên.

Chợ nằm nép mình dưới chân núi Đồn Cao. Phiên chợ bắt đầu từ sớm. Mới tinh mơ đã nghe tiếng bò kêu, lợn, cùng tiếng hát xuống chợ, lọc cọc trên đường tiếng xe ngựa thồ hàng, tiếng người gọi nhau í ới.
< Chàng trai Mông cõng trên lưng những chú lợn ra chợ bán.

Các bà, các mẹ địu con, thanh niên nam, nữ xuống chợ mang theo những thứ thổ cẩm, sản vật của mình xuống chợ bán. Những thứ mang xuống chợ đôi khi chỉ là tấm vải rệt, chục trứng, lợn mán, chó con và không thể thiếu rượu…

Các ông chồng đi chợ để giao lưu uống rượu, ăn thắng cố, thổi khèn; trẻ em chơi chợ. Chợ còn là nơi mối lái tình duyên. Sau vài phiên chợ nhiều đôi trai gái đã nên vợ nên chồng.

< Còn đàn ông đi chợ để uống rượu ngô và thổi khèn gọi bạn.

Chợ Đồng Văn cũng như chợ truyền thống cho người Mông, không bao giờ thay đổi cấu trúc. Đồng bào đã quen đến chợ là có chỗ buộc ngựa, phải có chỗ đặt quẩy tấu, có chỗ để chảo để nấu thắng cố, mèn mén, chợ bò... Đến Đồng Văn sẽ thấy đỏ lừ một màu thổ cẩm. Người Mông ở quanh vùng coi chợ phiên Đồng Văn là chợ rất quan trọng, chợ vui nhất của cả vùng.

< Đàn bà đi chợ mua hàng.

Bất kể là ai đến ngày phiên chợ đều bỏ lại bể nước ngọt đã cạn khô ở nhà, những thửa ruộng còn lẫn trên cao nguyên đá, nơi mà ngô, lúa phải lựa từng chỗ, gạn từng giọt nước để nảy mầm… ra chợ để tìm đến bạn, để tâm tình.

Tình chợ

Người Mông có tính tự tôn dân tộc rất cao. Họ ghét kẻ nói dối. Sống với họ, phải hiểu và thông cảm thì mới sống được. Người Mông ở Đồng Văn, Hà Giang thì gần như một cánh rừng nguyên sinh, chưa hề bị tàn phá mai một, còn đầy ắp bản sắc. Văn hóa của họ đậm nét nhất trong ngày chợ phiên. Trong phiên chợ các đôi trai gái tự tình với nhau bằng tiếng khèn gọi bạn, các cô gái e ấp bên người mình yêu bằng điệu xòe ô đặc trưng. Tự tình với nhau bằng lời của núi, lời thật dành cho nhau:

"Tao có cái yếm bằng lưỡi cày
Tao không cho mày thì cho ai"

< Nụ cười rạng rỡ của cô gái miền sơn cước.

Đến phiên chợ, hầu như chàng trai nào cũng biết thổi khèn. Đến đứa trẻ nhỏ nhất cũng thổi được khèn! Không chỉ dân ca, dân vũ, cả nền văn hoá phi vật thể giàu bản sắc của người Mông đều được đem đến chợ.

< Tiếng khèn của một chàng trai Mông trong phiên chợ.

Người Mông rất quan tâm giữ gìn bản sắc văn hoá. Các cặp vợ chồng người Mông gặp nhau trên chợ và khi cưới họ rất ít bỏ nhau. Đi chợ cũng phải có đôi, nếu chồng có quá chén say rượu nằm ven đường, vợ ngồi đợi, dây ngựa buộc vào chân, một tay quạt, một tay che ô, mặc nắng mặc mưa, đến khi chồng tỉnh mới về...

Họ tìm vợ ở chợ. Họ quan niệm: "lòng dạ có tốt thì ra chợ mới biết". Sang hơn người chính là sang hơn số lần xuống chợ,
Chợ tan, tiếng sáo, tiếng khèn lại vang lên cung bậc của lời hò hẹn làm ửng hồng những cặp má của những thiếu nữ miền sơn cước khi đã yêu thương nhớ nhung:

< Và cũng như bao nhiêu lần khác, khi chiều về, chợ tan, người vợ lại đưa chồng trở về nhà trong cơn say bằng cách quen thuộc như thế này.

"Chợ đã tan nhưng nỗi nhớ không tan
Anh vẫn đợi và em vẫn đợi
Ta đếm ngày mong phiên chợ tới
Ta đếm đêm mong ở bên nhau"

Đồng Văn không chỉ có chợ phiên mà còn nhiều di tích lịch sử khác như cột cờ Lũng Cú, di tích lịch sử Dinh nhà Vương, khu phố cổ Đồng Văn. Đồng Văn trước kia là lãnh thổ của vua Mèo Vương Chí Sình.  năm 1945 ông này theo chính phủ Hồ Chí Minh, thành một đại biểu quốc hội khóa I.

Du lịch, GO! Theo Vietbao


Du lịch, GO!: Cao nguyên đá Đồng Văn
Phố cổ trên cao nguyên đá

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống