Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Thursday, 15 December 2011

Cầu Cần Thơ - cây cầu cao nhất nước, biểu trưng cho sự phát triển của Đồng bằng sông Cửu Long - như chỉ thích hợp cho các loại xe hiện đại. Nhìn cây cầu cao vút, không ai nghĩ là mình có thể đạp xe qua được.

Thế nhưng, hằng ngày vẫn có nhiều người đạp xe qua lại cầu Cần Thơ. Họ còng lưng đạp xe qua cầu vì chén cơm manh áo cũng có, mà vì tự nguyện “hành xác” cũng có.

Đi “xe thuốc” qua cầu

Theo quan niệm của dân Nam Bộ, cái gì có lợi cho sức khoẻ đều là “thuốc”, như kính thuốc (trị các bệnh về mắt), nệm thuốc (trị đau lưng, nhức mỏi), gối thuốc (trị đau đầu), dép thuốc (trị phong thấp)... Bây giờ còn có thêm khái niệm “xe thuốc”, tức đạp xe để rèn luyện sức khoẻ.

< Ông Nguyễn Thành Trung mỗi sáng đạp xe 2 vòng qua cầu Cần Thơ.

Tôi có thói quen, nếu đi công tác xa nhà, không có điều kiện chơi thể thao, sáng nào cũng dậy sớm đi bộ tập thể dục. Chơi thể thao thì hứng thú, không thấy ngán, còn đi bộ thể dục một mình rất dễ chán. Để cho đỡ nhàm chán, tôi nghĩ ra cách gắn chuyện đi bộ với chuyện khác thú vị hơn. Khi ra Hà Nội, tôi đi bộ quanh hồ Hoàn Kiếm để xem xung quanh hồ trồng những loại cây gì. Hết xem cây, tôi “đo” chu vi hồ bằng những bước chân, nhờ vậy mà tôi biết con đường quanh hồ dài khoảng 1,6km (1.700 bước).

Cũng với cách ấy, tôi đã đi bộ quanh hồ Xuân Hương (Đà Lạt) và đo được gần 7.500 bước (khoảng 7km). Về công tác và ngủ lại Cần Thơ, ở đây không có cái hồ nào để tôi đếm bước. Nhưng ở “Tây Đô” có một nơi đi bộ thể dục thú vị hơn nhiều, đó là cầu Cần Thơ. Tôi chạy xe gắn máy đến gửi nhà người quen dưới chân cầu, xong tha hồ “đo” chiều dài cây cầu. Nhờ vậy mà tôi biết, sáng sớm có rất nhiều người chọn cầu Cần Thơ làm nơi tập thể dục, đi bộ hoặc chạy xe đạp. Dù đi bộ hay đạp xe, khi lên đến đỉnh cầu, ai cũng dừng lại đôi phút để “xả hơi”, hít thở không khí trong lành, ngắm nhìn cảnh “Tây Đô” còn chưa thức giấc.

Hai cô gái tuổi độ 30 đi song song nhau thật nhanh như đua xem ai tới đỉnh cầu trước. Đến nơi, họ cười hể hả rồi đứng tựa vào lan can cầu. Một cô kêu đứng nghỉ, cô còn lại kêu đi tiếp, bận về mới nghỉ. Thấy tôi đến bắt chuyện, cô đòi nghỉ đon đả chuyện trò, như thể tôi là cái cớ để cô được đứng nghỉ. Cô tự giới thiệu tên là Trang, làm nghề thợ may tại nhà ở khu đô thị 586 dưới chân cầu.

Sáng nào Trang cũng cùng cô bạn gần nhà đi một vòng qua lại cầu Cần Thơ, mất hơn 1 giờ, xong về nhà tắm rửa rồi đi chợ. Hỏi thăm chuyện chồng con, cô gái nói: “Ảnh không thích đi bộ, chỉ đánh tennis. Nhưng hồi hôm nhậu quắc cần câu, sáng nay ảnh dậy không nổi, còn nằm ngủ ở nhà...”.



< Đội xe đạp thể dục của các cụ già vượt dốc cầu Cần Thơ.

Chia tay 2 cô gái, tôi đến làm quen một “cuarơ” vừa mới dừng xe trên đỉnh cầu. Ông tên Nguyễn Thành Trung - 61 tuổi, làm ở Cty CP hàng hải Phú Mỹ (chuyên về xây dựng giao thông, quận 7, TPHCM). Ông Trung cho biết, Phú Mỹ là công ty gia đình nên ông không “về hưu”. Ông Trung đang có chuyến công tác dài ngày ở Cần Thơ, ông đem xe đạp theo, sáng nào cũng chạy qua lại cầu Cần Thơ 2 vòng, tổng cộng khoảng 20 cây số. Ông Trung có thói quen đạp xe thể dục mỗi sáng cách đây hơn 10 năm. Lần ấy ông bị các chứng bệnh về tim mạch, sau khi điều trị từ bệnh viện về, ông được bạn bè rủ đi “đạp xe trị bệnh”.

Sau hơn 10 năm trở thành “cuarơ nghiệp dư”, bệnh tật trong người ông đã biến đâu mất hết. Mỗi chuyến công tác trong phạm vi vài trăm cây số, ông đều đi bằng xe đạp. Từ TPHCM, ông đạp xe đi Cần Thơ mất khoảng 9 tiếng, kể cả thời gian nghỉ dọc đường. Ông thích đi công tác Cần Thơ nhất, vì mỗi sáng được đạp xe qua lại cầu Cần Thơ, được hít thở không khí trong lành, ngắm khung cảnh yên bình hai bên dòng sông Hậu, ông như thấy khoẻ hơn bình thường.

Chiếc xe đạp “tay cầm ngang” của ông giá gần 10 triệu đồng, ông còn có chiếc xe “cuộc” để ở nhà giá hơn 20 triệu đồng. Ông nói: “Thay vì tiền để mua thuốc trị bệnh, tôi mua xe chạy thể dục”.

Trăm năm vẫn chạy tốt

Đi bộ đến lưng chừng cầu, tôi thấy một đoàn xe đạp đang thả dốc, trên xe là những ông lão râu tóc bạc phơ, áo quần cũng trắng tinh. Tôi tiếc vì không có cách gì dừng xe các cụ lại để hỏi chuyện. Thật may, khi tôi xuống tới chân cầu thì thấy các cụ đang tập trung ở bờ sông xem người ta câu cá. Các cụ thuộc Câu lạc bộ xe đạp Cần Thơ, sáng nào cũng chạy xe qua cầu 1 vòng, xong về ăn sáng, uống càphê ở bến Ninh Kiều.

Cụ Nguyễn Văn Tân - năm nay đã 82 tuổi, râu bạc như cước, nhưng lúc nào cũng cười vui hóm hỉnh - cho biết: “Câu lạc bộ xe đạp tụi tui có lâu rồi, hồi trước mỗi sáng đạp quanh quẩn trong thành phố.

Từ khi có cầu Cần Thơ, chúng tôi đổi “tuyến” qua đây”. Theo cụ Tân, đạp xe qua cầu Cần Thơ thú vị hơn nhiều so với đi trên đường trường trước đây. Ngoài chuyện thể dục, mỗi sáng tinh mơ được “leo” lên cây cầu hiện đại nhất nước, ai cũng thấy như thêm sảng khoái, tự hào, như được sờ tận tay sự phát triển của đất nước, của đồng bằng, của “Tây Đô”! Trong đội xe có 3 người ngoài 80 tuổi, số còn lại hầu hết là ngoài tuổi 70. Các cụ đã gần suốt đời gắn bó với “bắc” Cần Thơ.

Cách đây hơn 7 năm, khi công trình cầu Cần Thơ được khởi công thay cho bến “bắc” già nua, các cụ đều có chung niềm ước ao: “Ráng sống tới ngày cầu thông xe để đạp xe một mạch qua lại 2 bờ sông Hậu rồi có nhắm mắt theo ông theo bà  cũng vui”. Nay cầu Cần Thơ đã thông xe một năm rưỡi, các cụ cũng có chừng ấy thời gian đạp xe qua cầu, nhưng không ai “theo ông theo bà”, mà vẫn sống vui, sống khoẻ. Nói cho đúng là có một người đã không thực hiện được lời ước đó.

Trò chuyện với các cụ, tôi nhận ra rằng không ai trong họ sợ chết, dù tất cả đều “thất thập cổ lai hy” trở lên. Các cụ đang đặt ra cái mốc “90” để phấn đấu vượt qua, tức tới 90 tuổi mà vẫn đạp được xe qua cầu Cần Thơ. Có cụ còn lạc quan hơn khi đưa ra hẳn cái mốc “một trăm năm vẫn chạy tốt!”.

Ngày mấy lượt qua cầu

Không phải tất cả những người đạp xe qua cầu Cần Thơ lúc sáng sớm đều nhằm tập thể dục. Có những trường hợp đạp xe khẩn trương hơn, bằng những chiếc xe đạp cà tàng, họ đạp thẳng một mạch chứ không dừng lại trên đỉnh cầu để hít thở, ngắm nhìn trời mây sông nước.

Anh công nhân Trương Văn Hùng (ngụ ấp Mỹ Hưng, xã Mỹ Hoà, huyện Bình Minh, Vĩnh Long) đạp xe ngang đỉnh cầu đúng 6h30 sáng. Ấp Mỹ Hưng của anh Hùng từng có số nạn nhân nhiều nhất trong sự cố sập nhịp dẫn cầu Cần Thơ vào tháng 9.2007.

Lúc ấy anh Hùng cũng tham gia công trình cầu Cần Thơ, nhưng không có mặt ở nơi xảy ra tai nạn. Anh có 2 người bạn thân nằm trong danh sách 53 người không may mắn ấy.

Cầu Cần Thơ được xây dựng xong, anh Hùng chuyển đến làm ở Cty cầu đường 721 cho đến nay. Ngày nào anh Hùng cũng đạp xe qua cầu đến công trình lúc sáng sớm, buổi chiều tan ca lại đạp trở về nhà. Đối với anh, việc đạp xe qua cầu không thú vị như những người đi thể dục. Nhiều bữa tan ca mệt nhoài, đến chân cầu Cần Thơ, nhìn dốc cầu cao chót vót, anh Hùng thấy chùn chân. “Nhưng so với cảnh qua phà chờ đợi lâu lắc, thì qua cầu vẫn tốt hơn” - anh Hùng nói.

Dù sao thì anh Hùng cũng qua lại cầu lúc chưa có nắng (buổi sáng) hoặc lúc nắng đã dịu (buổi chiều). Có những người đạp xe qua cầu nhiều lần hơn, vào lúc mặt trời nắng chói chang.

Trở lại cầu Cần Thơ lúc giữa trưa, khung cảnh không còn “êm đềm” như lúc sáng sớm, mà trở nên xô bồ. Nhiều người qua cầu bằng xe gắn máy dừng lại trên đỉnh cầu để ngắm cảnh, chụp ảnh...

Những người bán vé số, bán kẹo caosu, thuốc lá cũng có mặt để phục vụ họ, dù chuyện mua bán trên cầu bị cấm.
Một người chạy xe đạp bán vé số tên là L cho tôi biết, anh vừa bán vừa quan sát dưới chân cầu, khi thấy thấp thoáng bóng cảnh sát giao thông là lên xe “đổ dốc” trốn ngay, đến khi “êm” lại đạp xe lên bán tiếp. Trung bình mỗi ngày anh đạp xe lên cầu Cần Thơ khoảng chục bận.

Không biết anh có phải là người đạp xe qua cầu Cần Thơ nhiều nhất hay chưa?

Du lịch, GO! - Theo Laodong, ảnh internet
Lũng Giang (thị trấn Lim, Tiên Du, Bắc Ninh) vốn được biết đến là một trong 49 làng Quan họ gốc vùng Kinh Bắc, nhưng ít ai biết rằng nơi đây còn nổi tiếng với kẹo cốm-món quà quê thấm đẫm tình người Quan họ.

Không ai biết rõ kẹo cốm Lũng Giang có tự bao giờ, chỉ biết rằng món quà này đã trở thành niềm tự hào của người dân nơi đây và nếu ai may mắn được thưởng thức thì khó có thể quên được vị ngọt sắc, thơm dịu đặc trưng của thứ kẹo dân dã ấy.
Kẹo cốm Lũng Giang là món cổ truyền, hoàn toàn được làm theo lối thủ công nên không quá khó nhưng nhất thiết phải tuân thủ những quy định khắt khe trong quá trình chế biến. Kẹo cốm được nấu từ 2 nguyên liệu chính là thóc nếp và đường.

Sau khi lựa chọn được mẻ thóc nếp (thường là nếp hoa trắng) đều, mẩy, người ta đem luộc thóc cùng với vài chiếc lá hoặc hoa bưởi, sau đó phơi thóc cho se vỏ và rang lên.

Thóc sau khi rang thì xay xát cho sạch, loại bỏ hết phần trấu và cám rồi cho vào nồi, rang đều tay đến khi hạt gạo nở như bỏng nếp. Chỉ riêng các bước làm từ khi chọn thóc đến khi có được hạt cốm rang nở đã chiếm phần nhiều thời gian làm kẹo bởi nó đòi hỏi sự cầu kỳ, kiên trì và khéo léo đến tinh tế của người chế biến.

Hỗn hợp đường và mạch nha đun cho tan chảy, thêm chút gừng giã nhỏ, nhuyễn rồi cho cốm vào đảo đều tay rồi đổ ra khuôn, cán đều và cắt nhỏ theo sở thích. Khuôn cũng phải được chuẩn bị trước với bột gạo nếp rắc đều để không bị dính.

Kẹo cốm được chế biến từ nguyên liệu chính là cốm nếp nhưng màu sắc và hương vị của nó lại do việc sử dụng đường quyết định. Nếu là đường phên, cốm sẽ quyện với thứ nước sền sệt màu cánh gián tạo nên những thanh kẹo màu nâu đỏ, vị đậm đà hơn. Nếu là đường kính, kẹo cốm mang một màu trắng tinh khiết, có vị ngọt sắc, hương thơm dịu nhẹ, ấm nồng của gừng.

Theo lời người dân Lũng Giang, trước đây nhà nào cũng có người biết làm kẹo cốm. Kẹo cốm là món “cây nhà lá vườn” thể hiện sự đảm đang, khéo léo của người phụ nữ nơi đây nên thường được mang để mời khách trong dịp Tết và hội hè đình đám, đây cũng được coi là một nét ẩm thực đặc sắc của Quan họ Lũng Giang bởi kẹo cốm thường được sắp xếp để đón bạn ngày xuân.

Ngày nay, phần vì bận rộn với cuộc sống, phần nữa vì quy trình làm khá rắc rối, hầu hết các gia đình đều đặt một số hộ nấu thuê mà không tự tay chế biến nữa. Bà Nguyễn Thị Thủy, một trong số ít người ở Lũng Giang hiện còn làm kẹo cốm cho biết đây hiện là món quà được người dân địa phương và vùng lân cận rất ưa chuộng, đặt để mang biếu. Mùa của kẹo cốm thường từ rằm tháng Chạp năm trước đến hết tháng 2 âm lịch năm sau.

Kẹo cốm Lũng Giang có hương vị rất đặc biệt nên ai đã ăn một lần sẽ không thể nào quên. Lễ hội vùng Lim năm nay đã qua nhưng quý khách gần xa hãy nhớ ghé thăm Lũng Giang vào mùa xuân tới để thưởng thức Quan họ vùng Lim và nếm thử hương vị độc đáo của kẹo cốm.

Du lịch, GO! - Theo web Bacninh, Laodong
Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người.

Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.

Huế có thật nhiều sông: cả sông thiên nhiên lẫn sông nhân tạo. Sông thiên nhiên như sông Hương, sông Bạch Yến. Sông nhân tạo như sông An Cựu, sông Đông Ba, sông Kẻ Vạn, sông Đào...

Thành phố còn được nối tiếp với ngoại ô bằng những lạch nguồn khe suối, như nguồn Tả, nguồn Hữu, sông Bồ; và bằng những đầm phá như đầm Sam, đầm Chuồn, đầm Cầu Hai, phá Tam Giang, v.v…
Với hệ thống thủy đạo phong phú và đa dạng này, người ta có thể dùng thuyền để đi lại khắp nơi trong thành phố và vùng ngoại ô, kể cả lên rừng và xuống biển.

< Bến thuyền du lịch.

Các tác giả của sách Đại Nam Nhất Thống Chí (Thừa Thiên phủ, tập thượng mục tân độ) đã ghi rõ vùng sông Hương và các tuyến đường thủy phụ cận có đến 50 bến đò khác nhau. Thật vậy, ngày xưa, khi xe tàu chưa được sử dụng, trên sông Hương có nhiều tuyến đò ngang mà cũng không ít tuyến đò dọc còn ghi lại dấu ấn trong những câu hò lãng mạn, trữ tình:

Thuyền về Đại Lược
Duyên ngược Kim Long
Đến nơi đây là ngã rẽ của lòng
Biết còn gặp gỡ trên sông bến nào.

Đành rằng, con đò chỉ là một phương tiện giao thông vận tải thô sơ cổ truyền của địa phương, nhưng, nếu đi sâu vào sinh hoạt của những chuyến đò dọc đò ngang trên sông Hương, chúng ta cũng có thể tìm thấy ở đó một số nét tình cảm, về văn hoá của những người đi lại trên sông và cuộc sống của người dân ở hai bên bờ sông ấy.

Sau khi chảy quanh co gần 100 km trong vùng đông Trường Sơn, nguồn Tả và nguồn Hữu đều mang nước và kết nghĩa xe duyên tại ngã ba sông trước mặt chợ Tuần ở làng Bằng Lăng để tạo nên một mối tình rất thơ mộng mang tên là Hương Giang. Từ đây, sông Hương bắt đầu uốn lượn mềm mại qua vùng gò đồi xanh tươi ở tây nam xứ Huế, rồi nhẹ nhàng lả lướt vòng qua trước mặt thành phố cũ để lờ lững trôi về cửa biển Thuận An.

Với chiều dài khoảng 30 km ấy, dòng sông tương đối sâu và rộng, nên nước chảy không hối hả mà chỉ trôi xuôi êm đềm. trên đoạn trung lưu dài chừng 10 km kể từ làng Long Hồ trên chùa Linh Mụ về đến cuối thôn Vĩ Dạ đối diện với Bãi Dâu, mặt sông thường phẳng lặng như một tấm gương trong suốt in bóng các công trình kiến trúc cổ ở bờ bắc và những tòa nhà cao tầng xây theo lối mới ở bờ nam. Ở cả hai bờ, xóm làng san sát, vườn tược xanh um, dân cư đông đúc, phố phường tấp nập.

< Bến đò Thừa Phủ - năm 1963.

Mãi đến cuối thế kỷ 19, khi trên sông Hương chưa bắc chiếc cầu nào, đoạn sông này có đến khoảng 10 tuyến đò ngang, mỗi tuyến cách nhau trung bình 1 km, có thể kể từ trên xuống dưới như sau: bến đò Long Thọ, bến đò Kim Long, bến đò Trường Súng, bến đò Thừa Phủ, bến đò Trường Tiền, bến đò Hàng Me, bến đò Đập Đá, bến đò Cồn, bến đò Bến Cạn, bến đò Chợ Dinh.

Trước hết là bến đò Long Thọ. Đầu thế kỷ 19, vùng đồi này mang tên Thọ Xương. Đến năm 1824 mới đổi ra tên hiện tại. Năm 1895, một người Pháp là ông Bogaert (dân địa phương gọi là ông Bồ-Ghè) phát hiện ra đây là một ngọn đồi đá vôi và ông được chính quyền thực dân cho thiết lập nhà máy sản xuất vôi đá ở đó từ năm 1900. Nhân dân thợ thuyền tụ tập đến làm ăn tại đây ngày càng đông. Cho nên, cần có bến đò để đi lại, nhất là bến đò ngang nối với làng Xuân Hòa ở đối diện bên kia sông.

< Đã có biết bao bài thơ, bài hát nổi tiếng về bến đò này..

Tuyến đò Kim Long nối làng Kim Long với Phường Đúc. Trong suốt hơn 50 năm giữa thế kỷ 17 (1636-1687) Kim Long đã từng là nơi đóng thủ phủ của các chúa Nguyễn ở niềm Nam Hà. Kiến trúc cổ nơi đây chẳng còn gì, nhưng vẻ đẹp của thiên nhiên và con người ở đó vẫn còn tồn tại. Một ông vua sính thơ của nhà Nguyễn đã từng nói:

Kim Long có gái mỹ miều
Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi.

Địa danh Phường Đúc được gọi như thế gì nơi đây đã trở nên một công trường đúc đồng từ thế kỷ 17. Các văn vật bằng đồng từ thời các chúa Nguyễn và các vua Nguyễn hiện nay còn lại ở Huế như chuông đồng, khánh đồng, súng đồng, vạc đồng… đều đã được sản xuất tại đây. Tuyến đường sông này nối kết hai bến đò mang tên hai phường làng lịch sử ấy.

Trước cửa Nhà Đồ, có một tuyến đò ngang nối Bến Me với bến đò Trường Súng ở bên kia sông. Gọi là Bến Me vì ngày xưa ở đó trồng nhiều cây me chua. Còn về địa danh Trường Súng thì chưa có sự nhất trí giữa các nhà nghiên cứu về ý nghĩa của nó. Cụ Phan Văn Dật cho rằng ngày xưa đây là một công trường đúc súng. Nhưng linh mục L.Cadière thì lại viết rằng ngày trước, nơi đây nhà Nguyễn đã thiết lập các xạ trường để binh lính của triều đình qua tập bắn. Ông gọi đó là “Bac du Champ de tir, Đò Trường Súng”.

Con đò Thừa Phủ nối bến trước cửa Ngăn (trước đây gọi là bến vườn hoa Nguyễn Hoàng) với bến trước dinh Thừa Thiên Phủ doãn, tức là nơi quan đầu tỉnh Thừa Thiên làm việc. Thừa Thiên Phủ doãn gọi tắt là Thừa Phủ. Tuyến đò này đã được thay thế bằng cầu sông Hương vào năm 1971, nay gọi là cầu Phú Xuân.

< Bến đò Gia Long (Các bến đò ngang sang lăng Gia Long đều cùng mang 1 tên: GiaLong).

Sở dĩ gọi là bến đò Trường Tiền vì ngày xưa ở bên trên bến đò ấy, phía Tả ngạn (khu vực Nhà Văn hoá thành phố hiện nay) đã có một công trường đúc tiền của triều đình nhà Nguyễn. Tuyến đò Trường Tiền đã được thay thế vào năm 1900 bằng một chiếc cầu sắt mang cùng tên như chúng ta đang thấy hiện nay.

Đò Hàng Me nối chợ Đông Ba với xóm Hàng Me. Gọi như thế vì ngày trước ở đây trồng toàn cây me, nhất là trên con đường Phạm Ngũ Lão ngày nay. Bến đò này có thời còn được gọi là bến đò Tòa Khâm vì nó ở gần Tòa Khâm sứ Pháp (trường Đại học Sư phạm ngày nay) và cũng gọi là bến đò sân vận động, vì ở trên đường lên sân vận động Huế.

Đò Đập Đá nối chợ Đông Ba với Đập Đá, tức là cái đập được xây bằng đá dưới thời vua Thành Thái (1889-1907). Trước đó, nơi đây gọi là bến đò Thọ Lộc, tên ngôi làng tại chỗ.

Đò Cồn nối vùng Gia Hội với Cồn Hến và thôn Vĩ Dạ (nguyên xưa tên là Vĩ Dã). Ngày trước, khi chưa bắc cầu Phú Lưu, phải đi liên tiếp hai con đò: một từ Gia Hội qua Cồn Hến và một từ Cồn Hến qua Vĩ Dạ (gần chợ Mới).

Đò Bến Cạn nối khu vực phía dưới Gia Hội (ngang với đường Cao Bá Quát hiện nay) với khu vực cuối thôn Vĩ Dạ lại với nhau. Sở dĩ gọi là Bến Cạn vì tuyến đò này đi ngang qua điểm cuối của Cồn Hến, nơi đây đất phù sa của sông Hương bồi thêm càng ngày càng cạn dần.

Và đò chợ Dinh đi từ Chợ Dinh ở gần vùng Bãi Dâu (đường Ôn Như Hầu ngày nay) qua phía chợ Mai ở làng Tây Thượng bên kia sông. Chợ Dinh nguyên có tên là Chợ Dinh Ông, tức là nơi ngày xưa có nhiều dinh thự, phủ đệ, của các ông hoàng bà chúa ở. Từ Chợ Dinh trong câu hò ru em “Chợ Dinh bán áo con trai” chính là ở chỗ này.

Như vậy, ngày xưa, ở hai bờ mạn trung lưu sông Hương có tất cả 9 tuyến đò ngang để đưa khách sang sông. Chúng ta có thể chia 9 tuyến đò ngang ấy ra làm 3 khu vực sinh hoạt tùy theo đặc điểm của từng vùng:

- Các bến đò Long Thọ, Kim Long, Trường Súng là ba tuyến đò ở gần vùng gò đồi tây nam của Huế, cho nên khách qua sông ở ba bến này phần nhiều là những người gánh gồng các thứ lâm sản và hoa quả trong vườn rẫy của họ xuống chợ bán.
- Các bến đò Thừa Phủ, Hàng Me, Đập Đá là ba tuyến đò ở trung tâm của Huế, nên phần nhiều những người sang ngang là dân thành phố: thợ thuyền, người buôn bán nhỏ, và đa số là công chức, sinh viên, học sinh.
- Các bến đò Cồn, đò Bến Cạn, đò Chợ Dinh là ba tuyến đò ở về phía hạ lưu sông, phía biển, cho nên khách qua sông phần đông là bạn hàng bán cá biển cá sông, cá đầm phá, và những gánh cơm hến bên Cồn qua bán buổi sáng, các gánh bánh canh Nam Phổ lên bán buổi chiều ở các thôn xóm, phố phường bên tả ngạn sông Hương.

< Bến đò Thừa Phủ - gắn liền với những tà áo dài thướt tha.

Mặc dù con đò Thừa Phủ ngày nay không còn nữa, nhưng cách đây trên mười năm, trong gần một thế kỷ, nó là con đò nổi tiếng nhất vì nó đã đóng một vai trò văn hoá cao nhất. Phần lớn các trường học và công sở đều tập trung ở dọc đường Lê Lợi (tên cũ: Jules Ferry)

Biết bao nhà nhiếp ảnh nghệ thuật đã thu vào ống kính các sinh hoạt của con đò và khách qua sông ở bến nầy. Hình ảnh con đò Thừa Phủ cũng đã đi vào trong nhiều tác phẩm thơ ca và âm nhạc.

Ngày xưa ở Huế, có những văn nhân thi sĩ, tao nhân mặc khách, trong những buổi nhàn du, đôi khi không có việc gì cần phải sang sông cả, nhưng vẫn xuống đò. Họ xuống ngồi để ngắm cảnh sắc của sông Hương và thưởng thức cả thanh sắc của cô gái đang đưa đẩy mái chèo:

< Bến đò Gia Long.

“Tôi xuống thuyền cô, cô chẳng biết
Rằng thơ thấy đẹp phải tìm theo…
Đăm đăm mắt mỏi vì cheo,
Chèo cô quấy nước trong veo giữa dòng
Biết không cô hỡi biết không
Chèo cô còn quấy, sóng lòng còn xao”.
(Nam Trân, Huế đẹp và thơ).

Ngay từ hồi trước, có kẻ đã bảo rằng mỗi người Huế là một thi nhân. Nói như vậy có quá đáng lắm chăng? Nhưng chẳng phải là hoàn toàn không có lý. Sống trong cảnh xinh như mộng của xứ thơ, con người ai lại không thấy lòng rung cảm. Những xao xuyến của tâm hồn trước cái đẹp ấy đã thể hiện ra bằng những lời ca tiếng hát. Biết bao câu hò mái nhì của riêng Huế đã được sáng tác, phát xuất từ những cảm hứng có thực trong môi trường êm ả thanh thoát của những chuyến đò ngang, đò dọc đan nhau qua lại hàng ngày hàng đêm trên sông Hương:

- Nước đầu cầu khúc sâu khúc cạn
Chèo qua Ngọc Trản, đến vạn Kim Long
Sương sa gió thổi lạnh lùng,
Sóng xao trăng lặn gây lòng nhớ thương
- Kim Long dãy dọc tòa ngang
Em chèo một chiếc thuyền nan về Sình
Đôi đứa mình lỡ hẹn ba sinh
Có mần răng đi nữa cũng trọn tình với nhau.

Hầu như vào bất cứ thời điểm nào trong 24 tiếng đồng hồ mỗi ngày cũng đều có sự sinh hoạt của con đò trên sông Hương. Các chuyến đò ngang đã bắt đầu hoạt động từ khi trời chưa sáng để chuyên chở các gánh hàng hoa, rau quả và tôm sống cá tươi qua chợ. Đò đưa liên tục mãi đến tám chín giờ đêm. Từ đó về khuya là đò thơ, đò nhạc:

Bến chợ Đông Ba tiếng gà eo óc,
Bến đò Thọ Lộc tiếng trống sang canh.
Giữa sông Hương dợn sóng khuynh thành
Đêm khuya một chiếc thuyền tình ngửa nghiêng.

< Thượng nguồn sông Hương - Sông Tả Trạch một trong 2 nhánh sông Hương.

Ngày nay một số chiếc cầu đã thay thế cho một số tuyến đò ngang và những sinh hoạt đò ngang trên sông Hương không còn rộn rịp và đa dạng như trước nữa, nhưng, con đò ngang ở một số bến nơi đây vẫn còn là hình ảnh rất quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày của người dân xứ Huế.

Thỉnh thoảng, trong những buổi sớm mùa xuân hay những cuối chiều mùa hạ chúng ta cũng nên đi qua một chuyến đò Chợ Dinh để thưởng thức cái đẹp của bờ sông thôn Vĩ và dáng dấp thanh trang của núi Ngự Bình mờ ảo trong sương; hay bước xuống một chuyến đò Long Thọ ngồi nhìn về phía tây để ngắm bức tranh giữa cảnh trời mây sông núi. Chính những lúc như vậy, chúng ta càng thấy thành phố quê hương này vô cùng đáng mến đáng yêu.

< Áo dài trên chuyến đò ngang.

Huế là một xứ thơ. Trong xứ thơ ấy có con đò thơ. Con đò thơ đưa đón hàng thơ và cả nhà thơ nữa. Những chuyến đò ngang trên sông Hương đã ngày đêm âm thầm lặng lẽ nối kết cuộc sống đôi bờ, nhưng chính những con đò ấy đã đóng góp một cách tích cực và sinh động vào cuộc sống kinh tế và văn hoá của người dân cố đô và các xóm làng lân cận.

Dù là người địa phương hay du khách từ xa đến, nếu chưa đi được một chuyến đò ngang hay một lần đò dọc trên sông Hương, nhất là vào những đêm trăng thanh gió mát, thì xem như chưa hưởng hết cái phong vị tuyệt vời của miền núi Ngự sông Hương.

Du lịch, GO! -Theo Tạp chí Sông Hương, ảnh sưu tầm

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống